Total Pageviews

Popular Posts

Search This Blog

Followers

Pages

Monday, July 30, 2007

TAI LIEU THAM KHAO PHAN LICH SU VIET NAM CAN DAI


TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN ĐẠI
(1858 - 1945)

1. Phan Thuận An, Lăng tẩm Huế một kỳ quan, NXB Thuận Hóa, Huế, 2003.
2. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Hà Nội, 1964.
3. Đào Duy Anh, Lịch sử Việt, tập I và II, Hà Nội, 1958.
4. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Thành phố Hồ Chí Minh (tái bản), 1992.
5. Đào Duy Anh, Lịch sử cách mạng Việt Nam từ 1862 đến 1930, Hà Nội, 1955.
6. Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, NXB Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1971.
7. Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ, Sài Gòn, 1971.
8. Aumiphin J.P, Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1858 - 1939), Hà Nội, 1994.
9. Thái Bạch, Thi văn quốc cấm thời thuộc Pháp, Sài Gòn, 1968.
10. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Các tổ chức tiền thân của Đảng, Hà Nội, 1977.
11. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, Nhà tù Côn Đảo 1862 - 1945, NXB Sự Thật Hà Nội, 1987.
12. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang, Bác Tôn - Cuộc đời và sự nghiệp (1888 - 1980), NXB Sự Thật, Hà Nội, 1988.
13. Đỗ Bang - Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế, 1996.
14. Nguyễn Lương Bích, Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, NXB Quân đội Nhân dân, 2003.
15. Trần Thái Bình, Tìm hiểu lịch sử Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.
16. Nguyễn Công Bình, Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc, Hà Nội, 1959.
17. Bộ môn Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Trường Đại học Luật Hà Nội, Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam (từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX), tập bài giảng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
18. Brocheux - Héméry, Indonchine, Une Colonisation Ambiguê (1858 - 1954), Paris, 1995.
19. Buttinger, The Smaller Dragon, New York, 1962.
20. Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ - con người và di cảo, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.
21. Cheneaux, Le Vietnam - etude de Politique et d’Histoire, Paris, 1968.
22. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1995.
23. Phan Đại Doãn - Nguyễn Minh Tường - Hoàng Phương - Lê Thành Lân - Nguyễn Ngọc Quỳnh, Một số vấn đề về quan chế triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế, 1998.
24. Tiên Đàm, Việc khẩn hoang ở Nam Kỳ dưới triều Nguyễn, Sài Gòn, 1962.
25. Nguyễn Khắc Đạm, Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam, Hà Nội, 1957.
26. Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc dân Đảng, Sài Gòn, 1965.
27. Trần Bá Đệ, Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
28. Trần Văn Giàu, Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước năm 1858, Hà Nội, 1958.
29. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1980.
30. Trần Văn Giàu - Đinh Xuân Lâm, Lịch sử cận đại Việt Nam, (4 tập) NXB Giáo dục, Hà Nội, 1959, 1960, 1961, 1963.
31. Gosselin, L’Empire d’Annam, Paris, 1904.
32. Jean Carpentier, Lebrun, Histoire de France, Éditions du Seuil, Paris, 1992
33. Lê Mậu Hãn (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
34. Nguyễn Sĩ Hải, Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ: 1802-1847, Luận án Tiến sỹ Luật Khoa, Sài Gòn, 1962.
35. Hà Minh Hồng, Lịch sử Việt Nam cận hiện đại, Tủ sách Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, 1997.
36. Phan Khoang, Việt Pháp bang giao lược sử (từ thế kỷ XVII tới đầu thế kỷ XX), Huế, 1950.
37. Phan Khoang, Việt Nam Pháp thuộc sử, Sài Gòn, 1971.
38. Nguyễn Văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam - Trung tâm UNESCO Bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, 2001.
39. Nguyễn Văn Kiệm, Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003.
40. Nguyễn Văn Kiệm, “Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (271) tháng 11, 12.1993.
41. Thái Văn Kiểm, Đất Việt trời Nam, Nguồn Sống, Sài Gòn, 1960.
42. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, quyển II, trung tâm học liệu Sài Gòn, 1971.
43. Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam des origines à 1858, Paris, 1982.
44. Lê Thành Khôi, Nông dân Việt Nam trong lịch sử, Viện Sử học, Hà Nội, 1977.
45. Dương Kỵ, Việt sử khảo lược, Thuận Hóa, 1949.
46. Đinh Xuân Lâm, Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam một số vấn đề nghiên cứu, NXB Thế Giới, Hà Nội, 1998.
47. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
48. Đinh Xuân Lâm - Dương Lan Hải, Nghiên cứu Việt Nam - một số vấn đề lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, Hà Nội, 1998.
49. Đinh Xuân Lâm, “Triều Nguyễn trước âm mưu bành trướng của tư bản phương Tây (1802-1858)”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 11-12/1993.
50. Hoàng Văn Lân - Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam 1858 - cuối thế kỷ XIX, XB Giáo Dục, 1979.
51. Nguyễn Thiệu Lâu, Quốc sử tạp lục, NXB Mũi Cà Mau, 1995.
52. Phan Huy Lê - Chu Thiên - Vương Hoàng Tuyên, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập III, Hà Nội, 1965.
53. Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn, Lịch sử Việt Nam, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991.
54. Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. NXB Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960.
55. Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh nghĩa thục, NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1968.
56. Trần Huy Liệu, Lịch sử 80 năm chống Pháp, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1957.
57. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002.
58. Nhiều tác giả, Những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn, NXB Khoa học Xã hội, 1992, 1995.
59. Nhiều tác giả, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Tập II, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977.
60. Lương Ninh (chủ biên), Lịch sử Việt Nam giản yếu, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
61. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập VIII, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993.
62. Tạ Quang Phát, “Quốc húy của triều Nguyễn”, Việt Nam khảo cổ tập san, số 4/1968.
63. Nguyễn Danh Phiệt, “Suy nghĩ về bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 11-12/1993.
64. Philippe Langlet, L’ancienne historiographie d’état au Vietnam, École française d’Extrême-Orient, Tome I, Paris, 1990.
65. Vũ Huy Phúc, Chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1979.
66. Vũ Huy Phúc, Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam 1858 - 1945, Hà Nội, 1996.
67. Nguyễn Trọng Phúc, “70 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt nam (1930- 2000), những bài học chủ yếu”, Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 2/2000.
68. Lê Hữu Phước, Lịch sử nhà tù Côn Đảo 1862 - 1930, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh 1992.
69. Đặng Phương, Nước Việt Nam trên đường bang giao, Việt Nam tự do xuất bản cuộc, Sài Gòn, 1959. (sách không đánh số trang).
70. Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
71. Nguyễn Phan Quang, Lịch sử Việt Nam (1858 - 1884), Quyển III, tập 2, NXB Giáo Dục, 1977.
72. Nguyễn Phan Quang, Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986.
73. Nguyễn Phan Quang - Trương Hữu Quýnh - Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử Việt Nam (1428 - 1858), NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1980.
74. Nguyễn Phan Quang - Võ Xuân Đàn, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 1884, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000.
75. Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
76. Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003.
77. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập III (Bản dịch của Viện Sử học), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971.
78. Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu (bản dịch của Hoàng Văn Hòe và Nguyễn Quang Tô), Tủ sách Cổ văn - Ủy ban dịch thuật - Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, 1974.
79. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, (Bản dịch của Viện Sử học), Hà Nội, 1963.
80. Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu, nhà in Đắc Lập, Huế, 1925.
81. Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, NXB Sử học, Hà Nội, 1958 - 1960.
82. Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chánh biên, Nhóm nghiên cứu Sử Địa Việt Nam, Sài Gòn, 1969.
83. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, tập II, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993.
84. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, (bản dịch của Viện Sử học), Hà Nội, 1969.
85. Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, (quyển II), NXB Văn hóa Á châu, Sài Gòn, 1958.
86. Schreiner, Đại Nam quốc lược sử, Nguyễn Văn Nhàn dịch, Sài Gòn, 1905.
87. Văn Tạo, “Sơ bộ nhận thức về nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (271) tháng 11, 12.1993.
88. Trần Huy Liệu - Văn Tạo (chủ biên), Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, 12 tập, Hà Nội, 1956 - 1959.
89. Phạm Đình Tân, Chủ nghĩa đế quốc Pháp và tình hình công nghiệp ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, Hà Nội, 1959.
90. Nguyễn Phúc Tấn, A Modern History of Vietnam (1802 - 1954), Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1964.
91. Nguyễn Văn Tuân, Nguyễn triều long hưng sự tích, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1968.
92. Chu Thiên, “Chính sách khẩn hoang của triều Nguyễn”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 56, tháng 11/1963.
93. Vũ Quốc Thông, Pháp chế sử Việt Nam, Tủ sách Đại học Sài Gòn, 1968.
94. Cao Huy Thuần, Christianisme et Colonialisme au Vietnam, 1857 - 1914, Luận án Tiến sĩ quốc gia, Paris, 1970.
95. Nhượng Tống, Tân Việt cách mạng đảng, Hà Nội, 1945.
96. Đinh Gia Trinh, Sơ thảo lược sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Hà Nội, 1969.
97. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, “Chuyên đề về nhà Nguyễn”, số 271, 1993.
98. Nguyễn Khắc Thuần, Thế thứ các triều vua Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.
99. Hà Văn Thư - Trần Hồng Đức, Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003.
100. Ưng Trình, Việt Nam ngoại giao sử (cận đại), Trí Đức Thư Xã, Hà Nội, 1953.
101. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Lịch sử Việt Nam tập II. NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985.
102. Viện Sử học Việt Nam, Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam, Hà Nội, 1960.
103. Viện Sử học Việt Nam, Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại, Hà Nội, 1990 - 1992.
104. Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh, Một số vấn đề về nhà Nguyễn, Kỷ yếu hội thảo khoa học, TP. Hồ Chí Minh, 1994.
105. Viện Lịch sử Đảng, Côn Đảo - địa ngục trần gian (1930 - 1945), Hà Nội, 1985.
106. Nguyễn Đắc Xuân, Chín đời chúa mười ba đời vua Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế, 2001.
107. Nguyễn Văn Xuân, Phong trào Đông Du, NXB Lá Bối, Sài Gòn. 1970.
108. Nguyễn Văn Xuân, Phong trào Duy Tân, NXB Đà Nẵng, 1995.
109. Yoshiharu Tsuboi, Nước Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, (bản dịch của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam), Hà Nội, 1993.

VIET NAM GIAI DOAN 1930 - 1945

VIỆT NAM TỪ SAU KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
(1930 - 1945)

I. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG SAU KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1. Tình hình đất nước trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929 - 1933 làm cho nền kinh tế xã hội của tất cả các nước tư bản chủ nghĩa đều bị đình trệ, nền dân chủ tư sản bị thủ tiêu và thay thế vào đó là nền chuyên chính của bọn phát xít. Nước Pháp bước vào khủng hoảng có muộn hơn nhưng lại kéo dài và cũng như nhiều đế quốc khác muốn thoát khỏi tình trạng bi thảm của cuộc khủng hoảng, giới tư bản tài chính Pháp tìm cách trút hậu quả nặng nề của nó lên đầu nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Đông Dương lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế từ rất sớm và ngày càng trầm trọng. Nông nghiệp bị phá hoại nặng nề do giá nông sản bị sụt nhanh chóng: giá gạo từ 13,1 đ/tạ năm 1930 xuống còn 3,2 đ/tạ năm 1933; giá cao su từ 20 france/kg năm 1929 xuống còn 4 france/kg năm 1931. Hàng ngàn hécta đồng ruộng bị bỏ hoang, hàng trăm đồn điền bị thu hẹp diện tích hoặc ngưng hoạt động. Từ năm 1930 - 1933 diện tích đất hoang hóa từ 200.000 ha - 500.000 ha. Sản xuất gạo giảm từ 1.797.000 tấn năm 1928 xuống còn 959.000 tấn năm 1931.
Sản xuất công nghiệp cũng bị đình đốn, nhất là ngành khai mỏ. Hàng loạt nhà máy xí nghiệp đóng cửa, thương mại xuất nhập khẩu đều bị sút giảm, trị giá xuất khẩu giảm từ 18.000.000 đồng Đông Dương (năm 1929) chỉ còn 10.000.000 đồng Đông Dương (năm 1934), hàng vạn công nhân và lao động bị sa thải hoặc nghỉ việc.
Để góp phần giải quyết khủng hoảng kinh tế ở chính quốc và giữ cho Đông Dương trong quỹ đạo thực dân, thực dân Pháp cho ngưng lại cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II theo quy mô lớn đang diễn ra, đồng thời chúng khẩn trương áp dụng những biệp pháp cấp thiết ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Trước hết là việc Pháp cho thắt chặt hàng rào thuế quan, chỉ ưu tiên cho hàng hóa Pháp vào Đông Dương, kiên quyết giành độc quyền thương mại ở thị trường này. Hàng Pháp vào Đông Dương từ chỗ chỉ chịu mức thuế thấp nhất (2,5%) đến việc miễn thuế hoàn toàn, trong khi hàng các nước vào thị trường này chịu thuế ngày một cao, có thứ phải nộp thuế 100% giá trị hàng hóa.
Việc tăng thuế cũng là một biện pháp sớm được chú ý. Thuế thân ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ tăng 20%, thuế môn bài tăng từ 3 - 8 lần. Các biện pháp thu tài chính khác ở Đông Dương như mở công trái, lạc quyên, vay dài hạn… cũng được áp dụng, tất cả đã đem về cho ngân sách liên bang một nguồn thu lớn và tăng nhanh. Chỉ tính năm 1930 có 17 khoản thu ngoài thuế đã đem về cho ngân sách 117.000.000 đồng. Chính phủ Pháp còn quy định lại giá trị đồng bạc Đông Dương, tiến hành thu bạc cũ đổi bạc mới có lượng bạc kém hơn. Chỉ tính khoản thu chênh lệch 7 gram/ đồng đã thu được 49.000.000 đồng.
Đối với chủ tư bản người Pháp ở thuộc địa, chính quyền thực hiện “trợ cấp tài chính” để giúp họ khỏi bị phá sản. Một số nhà tư bản được hợp nhất lại cả vốn liếng vào quy mô kinh doanh, tạo ra sức cạnh tranh lớn hơn để tồn tại và phát triển, nhất là trong các ngành trồng lúa, cao su, cà phê. Trong quan hệ chủ - thợ, chính phủ thực dân cho ban hành một số quy chế lao động mới như chế độ lao động đới với phụ nữ, trẻ em, trách nhiệm vi phạm luật lệ lao động, hoà giải tranh chấp về lao động…, nhìn chung là các “qui chế” này chỉ nhằm bảo vệ cho giới chủ tư bản, góp phần xoa dịu bởi mâu thuẫn của giới lao động.
Về chính trị - xã hội, chính quyền thực dân ở Đông Dương thi hành chính sách hai mặt. Một mặt là đẩy mạnh các biện pháp văn hóa giáo dục, tuyên truyền lôi kéo người bản xứ, tranh thủ các tầng lớp thượng lưu, tô vẽ cho cái gọi là “văn minh khai hóa”, đề cao tư tưởng chống cộng, coi chống cộng là một chủ thuyết trong các hoạt động chính trị - xã hội.
Mặt khác chúng thi hành chính sách khủng bố trắng một cách tàn bạo ở cả thành thị và thôn quê, nhất là từ sau khởi nghĩa Yên Bái tháng 2/1930. Bạo lực của chính quyền thực dân đã gây ra nhiều tổn thất cho các lực lượng yêu nước, nhưng địch vẫn không tạo được sự yên ổn về chính trị và trật tự xã hội, ngược lại nó chỉ làm ngột ngạt thêm không khí ở thuộc địa, làm âm ỉ thêm trong lòng xã hội những ngọn lửa đấu tranh quyết liệt mà thôi.
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội thuộc địa Việt Nam tiếp tục phân hóa, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp tiếp tục tăng lên. Giai cấp nông dân và giai cấp vô sản là hai bộ phận đông đảo nhất trong xã hội, cũng là hai đối tượng chủ yếu của chính sách bóc lột vơ vét của tư bản Pháp ở thuộc địa. Họ lại có đời sống bị bần cùng hóa và hiện đang bị đe dọa trực tiếp bởi nạn chết đói, thất nghiệp không có cách nào chống đỡ. Người Pháp lúc đó đã tận mắt nhìn thấy và loan báo “người ta có thể cầm chắc là nông dân sống ở cái mức cùng cực của đói kém và nghèo khổ”, còn công nhân thì những người chưa bị sa thải có đồng lương “không bao giờ vượt quá từ 2 - 2,5 france/ ngày (tức là 20 - 25 xu/ ngày). Trong các xưởng dệt ngày làm việc từ 7 giờ sáng đế 9 giờ tối, ở các đồn điền công nhân phải làm việc từ 15 - 16 giờ một ngày…”. Do đó các tầng lớp lao động như nông dân, thợ thủ công, vô sản, cùng những người làm nghề tự do ở cả thành thị và thôn quê, đều mong muốn đấu tranh cải thiện đời sống và chống lại xã hội thuộc địa.
Song ngay cả trong giai cấp địa chủ, tư bản và tầng lớp thượng lưu bản xứ cũng có những bộ phận gặp nhiều khốn khó vì bị phá sản, bị chèn ép, bị vỡ nợ bởi thuế má ngày một cao và không đủ sức cạnh tranh với tư bản Pháp. Từ năm 1929 - 1933 ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn có 502 vụ án khánh tận và 160 vụ án phát mãi tài sản.
Đó cũng là lúc các thuộc địa nói chung, Đông Dương nói riêng, từ trong cùng cực của đời sống kinh tế, phải giải phóng khỏi ách thống trị của ngoại bang bằng chính sức mạnh của mình. Đông Dương trong cuộc khủng hoảng kinh tế không còn bình yên như trước nửa, đã trở thành một Đông Dương sôi động trong sự phân hóa của xã hội thuộc địa. Điều kiện vật chất xã hội ấy là cơ sở cho sự phát triển các tư tưởng mới đang du nhập vào Việt Nam.
Tư tưởng tư sản tiếp tục ăn sâu vào nhiều bộ phận xã hội nhưng kể từ sau thất bại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, những bộ phận tích cực đi theo đường lối ấy bị thất bại và tan vỡ về tổ chức làm cho nhiều người mất phương hướng, một số đi theo đường lối cải lương thì được tán dương chủ thuyết Pháp - Việt đề huề, hoặc lao sâu vào con đường tiêu cực chống phá cách mạng giải phóng dân tộc. Trong lúc đó tư tưởng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin dần dần chiếm ưu thế. Sự xuất hiện Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm 1930 khác hẳn sự ra đời của các tổ chức chính trị đương thời, đã thu hút sự chú ý của đông đảo các giai tầng xã hội.
Sự tuyên truyền chống cộng đã phản tác dụng, vô hình chung lại đề cao chủng nghĩa Cộng sản. Đó cũng là lúc hình ảnh nhà nước công - nông ở Liên Xô đang có sức thuyết phục khá lớn, nhiều dân tộc bị áp bức đang mơ ước chế độ Xô - Viết… Như thế một thời kỳ đấu tranh cách mạng đi theo xu hướng mới nhất định sẽ bùng nổ.
2. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh
Ở Việt Nam từ năm 1930 trở đi, con đường Cách mạng vô sản đã dẫn dắt nhân dân ta đấu tranh bằng những cao trào rộng lớn. Mở đầu cho những bước phát triển mới là sự bùng nổ cao trào chống đế quốc phong kiến những năm 1930 - 1931, đỉnh cao là sự xuất hiện và tồn tại của các Xô - Viết ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.
Không phải là do “Cộng sản kích động” như các quan chức thực dân lúc ấy nhận định, cao trào cách mạng những năm 1930 - 1931 bùng nổ ngay sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái, là hậu quả của những chính sách kinh tế - xã hội của thực dân Pháp ở Đông Dương trong giai đoạn này. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 đã kịp thời đưa ra đường lối phù hợp nhất với nguyện vọng đấu tranh của xã hội lúc đó, vì vậy Đảng Cộng Sản đã trở thành người lãnh đạo phong trào dân tộc.
Bắt đầu là những cuộc đấu tranh ôn hòa ủng hộ các chiến sĩ Yên Bái, chống chính sách khủ bố trắng của Pháp, nổ ra từ tháng 2 - 4/1930. Phong trào được mở màn bằng các cuộc bãi công ở đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, lan nhanh ra khắp thành thị và thôn quê ở Bắc - Trung - Nam. Qua đó các Đảng bộ địa phương được thống nhất về tổ chức, quần chúng công nông được tập hợp lại, tinh thần đấu tranh của nhân dân tiếp tục được hâm nóng lên và gây dựng phong trào thành phong trào mới.
Ngày 1/5/1930 nhân kỷ niệm Quốc Tế Lao động, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ động giành lấy việc phát động phong trào trên phạm vi toàn quốc với 2 lực lượng đông đảo nhất là vô sản và nông dân cờ đỏ búa liềm lần đầu tiên xuất hiện ở các thành phố lớn và nhiều vùng thôn quê. Những cuộc mít - tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng kỷ niệm ngày 1/5 được tổ chức thật rầm rộ. Trong đó cuộc mít - tinh ở Vinh - Bến Thủy đã bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Quần chúng rất căm phẫn, được nhân dân các vùng xung quanh ủng hộ, họ tiếp tục đấu tranh chống khủng bố.
Phong trào của công nông từ Vinh - Bến Thủy lan nhanh sang các huyện, tổng của hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Với sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân theo lời kêu gọi của Xứ ủy Trung Kỳ. Chỉ 3 tháng kể từ 1/5/1930 ở Nghệ An và Hà Tĩnh có 97 cuộc đấu tranh. Đó là bước chuẩn bị trực tiếp đưa phong trào ở đây lên đỉnh cao.
Từ cuối tháng 8/1930 những cuộc biểu tình với quy mô lớn ở các vùng nông thôn 2 tình Nghệ An và Hà Tĩnh đã lôi kéo hàng chục ngàn người kết thành một khối, mít - tinh biểu tình, biểu dương lực lượng. Cuộc đấu tranh nọ kế tiếp cuộc đấu tranh kia nổ ra không dứt và chuyển sang bạo động. Ngày 30/8/1930, hơn 3 ngàn nông dân huyện Nam Đàn biểu tình kéo đến huyện lỵ phá huyện đường. Ngày 1/9/1930, gần 20.000 nông dân huyện Thanh Chương đấu tranh với khí giận ngút trời. Ngày 7/9/1930 hơn 3000 nông dân huyện Can Lộc kéo vào huyện đường đốt sổ sách, giấy tờ, sổ sách của chính quyền tay sai, phá nhà lao. Ngày 12/9/1930, hơn 8.000 nông dân huyện Hưng Nguyên biểu tình và bị đàn áp dã man tại ga Yên Xuân nhưng quần chúng vẫn không nao núng, họ càng tập họp đông hơn và xông lên tấn công vào hệ thống chính quyền địch ở cơ sở. Quần chúng nông dân các vùng nông thôn được công nhân các nhà máy, xí nghiệp ở Vinh, Bến Thủy ủng hộ, đã biểu dương sức mạnh đoàn kết, lòng căm thù, ý chí quyết đấu đòi tự do cuộc sống. Trong quá trình đó sự tàn bạo của kẻ thù càng làm cho nhân dân sôi sục.
Trước khí thế “xông lên chọc trời” của quần chúng cách mạng, chính quyền thực dân phong kiến ở nhiều nơi của Nghệ An - Hà Tĩnh đã bị tan rã, hoặc tê liệt, bỏ chạy. Trong tình hình đó các chi bộ Đảng và tổ chức Nông Hội Đỏ ở các thôn - xã đứng ra quản lý, điều hành mọi hoạt động trong địa phương thay thế vào vị trí các cơ sở chính quyền địch đã bỏ trống. Dựa theo những hiểu biết sơ lược về chính quyền Xô Viết ở nước Nga qua các tài liệu và báo chí của Đảng, người ta gọi các tổ chức vừa dựng lên là Xã Bộ Nông, Thôn Bộ Nông hoặc các Xô Viết.
Mặc dù còn sơ khai nhưng các Xô Viết Nghệ Tĩnh đã có thực chất là một chính quyền cách mạng của công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua Đảng tiên phong của nó. Việc đập tan bộ máy chính quyền cũ, xây dựng bộ máy chính quyền mới, tổ chức một xã hội mới dân chủ tự do thật sự cho nhân dân lao động, tích cực bảo vệ chính quyền vừa giành được…, đó là những nhiệm vụ lớn lao mà các Xô Viết đã bước đấu thực hiện, nhất là các Đảng bộ ở đây chưa sẵn sàng, các điều kiện chủ quan, khách quan, thuận lợi của cách mạng cả nước chưa có, những việc làm tích cực đó còn là sự đột phá táo bạo.
Các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh chỉ được tồn tại chưa đầy 8 tháng, kể từ tháng 9/1930, nhưng đã có nhiều cố gắng sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa - xã hội. Đó là những hoạt động bãi bỏ các thứ thuế vô lý, bất công; chia lại đất công cho nông dân nghèo kể cả nam và nữ; quy định lại tô tức; tổ chức sản xuất chung; trợ cấp gia đình thiếu túng; bài trừ phong tục tập quán lạc hậu; lập Đội Tự Vệ Đỏ; xây dựng các đoàn thể quần chúng… Chính bọn tay sai của thực Pháp cũng phải thừa nhận một thực tế trong các Xô Viết: “Họ chôn cất người chết, cấp tiền bạc cho gia đình người chết hoặc bị nạn trong các cuộc biểu tình, cho cả những người nghèo khổ nữa. Họ phát thuốc cho người ốm, xử các vụ kiện tụng. Họ trừng trị những người nghiện thuốc phiện, nghiện rượu và cấm các hội hè cúng tế trong làng…”
Xô Viết Nghệ Tĩnh đã thu hút sự chú ý quan tâm của nhiều lực lượng trong, ngoài nước lúc đó. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng Sản Đông Dương, cả nước dấy lên phong trào đấu tranh, ủng hộ Xô Viết, chống khủng bố trắng. Nguyễn Ái Quốc và Quốc Tế Cộng Sản rất chú ý theo dõi và góp ý kiến cho những người cộng sản Đông Dương để bảo vệ các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh. Ở các nước Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ đã có nhiều hoạt động báo chí và xã hội ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Còn bọn thực dân phong kiến thì vô cùng hoảng sợ. Chúng cho rằng “Từ khi nước Pháp đặt nền đô hộ trên đất nước này, chưa bao giờ có một nguy cơ nào đe dọa sự an nguy nội bộ của mình lớn hơn, thực sự hơn” và nó “Rất trầm trọng… tầm rộng lớn của nó đã làm chúng ta sửng sốt…”. Chính vì vậy từ Toàn quyền Đông Dương Pasquier, Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol đến các lực lượng tay sai trong chính phủ Nam triều, đều trực tiếp đến Nghệ An - Hà Tĩnh để vạch kế hoạch bình định. Sau đó là hàng loạt biện pháp tàn bạo và nham hiểm cùng với các biện pháp lừa bịp của chúng đã được tung ra để đàn áp các Xô Viết.
Đồn bót được dựng lên dày đặc, binh lính các nơi được điều động về, bắn giết bắt bớ giam cầm là những hoạt động đầu tiên của những công cụ bạo lực mà chính quyền thực dân đối phó với phong trào quần chúng. Các chính sách “Lấy quan nhà trị dân nhà”, “Buộc dân cày ra đầu thú” được đem ra áp dụng. Chúng “Phát thẻ quy thuận”, tổ chức “Rước cờ vàng”, chúng lập “Xã đoàn”, dùng sách báo tranh ảnh tuyên truyền vu cáo nói xấu công sản… Trong thực tế lúc ấy địch chỉ cần dùng 1 biện pháp quân sự cũng thừa sức để đàn áp các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh, nhưng chúng đã không từ một biện pháp nào kể cả các biện pháp kinh tế xã hội và lừa mị để đánh phá cách mạng. Đến giữa năm 1933 các Xô Viết Nghệ Tĩnh lần lượt thất bại.
Tuy nhiên, đó không phải là sự thất bại của đường lối và phương pháp Cách mạng vô sản. Xô Viết Nghệ Tĩnh và cả phong trào cách mạng 1930 - 1931 là minh chứng hùng hồn nhất cho truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm kiên cường, sức sống mãnh liệt và sức sáng tạo phi thường của dân tộc Việt Nam. Nó khẳng định trong thực tế: Đường lối cách mạng, uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng, của giai cấp vô sản Việt Nam. Nó sáng tạo ra nhiều hình thức và phương pháp đấu tranh mới cho cách mạng; đồng thời nó để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho những người yêu nước và cách mạng đang đấu tranh cho nền tự do và độc lập của tổ quốc.
Về vị trí của cao trào cách mạng này, Đảng ta đã đánh giá: “Trực tiếp mà nói, không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930 - 1931 trong đó công - nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình thì không thể có cao trào những năm 1936 - 1939”. Cao trào đấu tranh cách mạng 1930 -1 931 đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, là “Bước thắng lợi đấu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển về sau của cách mạng.”
3. Đấu tranh cho dân sinh dân chủ những năm 1932 - 1935
Những năm sau khi các Xô Viết Nghệ Tĩnh bị dìm trong biển máu, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta gặp nhiều khó khăn do bị tổn thất nhiều cả về lực lượng, tổ chức, phương thức hoạt động cũng không còn thích hợp nữa. Thực dân Pháp triệt để thi hành chính sách khủng bố trắng đối với tất cả những người yêu nước. Hai năm 1930 - 1931 ở Bắc Kỳ có 21 phiên tòa Đại hình xử 1.094 vụ án chính trị. Những năm 1930 - 1933 Hội đồng Đề hình Bắc Kỳ và Toàn án Nam Kỳ kết án 6.902 vụ án chính trị. Chính quyền thuộc địa Đông Dương từ 1930 - 1933 đã bắt giam 246.532 người chủ yếu là các cán bộ, đảng viên Cộng sản. Những cơ sở Đảng và quần chúng tích cực. Các nhà tù Hỏa Lò, Khám Lớn, Kon Tum, Côn Đảo, Lao Bảo, Sơn La… có rất đông các chính trị phạm là những người yêu nước và cách mạng.
Mặt khác trong những năm 1931 - 1935 địch cũng buộc phải có những cải cách dân chủ dù rất hạn chế, để củng cố nền thống trị của chúng ở Đông Dương. Tháng 6/1931 Ủy ban điều tra Đông Dương được thành lập để xem xét lại toàn bộ chính sách cai trị của Pháp ở thuộc địa này. Cuối năm 1931 Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp là Paul Reinaud trực tiếp sang Đông Dương xem xét tình hình quyết định chính sách. Từ năm 1932 hàng loạt các cải cách lừa bịp của chúng được triển khai như: cải tổ giáo dục sơ học, cải tổ tư pháp bản xứ, đưa Bảo Đại về nước lập nội các Nam Triều mới, củng cố các Viện Dân Biểu và Hội Đồng Quản Hạt, đưa Bùi Quang Chiêu vào Thượng Hội Đồng Tthuộc Địa ở Pháp, nâng ngạch lương công chức Pháp cho công chức bản xứ, cho tư bản bản xứ tham gia đấu thầu và hưởng “quy chế lao động”, cấp học bổng cho người bản xứ, khuyến khích phát triển tôn giáo, xuất bản các sách báo lãng mạng, sách thần tiên, sách bói toán…
Bằng những biện pháp đó thực dân Pháp đã tranh thủ lôi kéo được một số người trong tầng lớp tiểu tư sản và tầng lớp thượng lưu; nhiều người hy vọng vào cái gọi là: “cải cách” của chính quyền thực dân. Nhưng đại đa số là những người tranh thủ những điều kiện thuận lợi để thực hiện nguyện vọng học tập vươn lên của mình hoặc tranh thủ làm ăn kiếm sống và vẫn không quên thân phận một người dân mất nước.
Trong hoàn cảnh có những thay đổi như vậy, xã hội thuộc địa xuất hiện những xu hướng mới trên các lĩnh vực văn hóa văn nghệ và tư tưởng. Trào lưu Thơ Mới, văn học lãng mạng với Tự Lực Văn Đoàn,văn học hiện thực phê phán, đó là những dòng văn học ra đời và tồn tại song song những năm 1932 - 1935. Đó là những tiếng nói mới của các bộ phận dân cư trước hiện tình đất nước, là sự chán ghét chế độ thuộc địa với những cách thức khác nhau của đội ngũ trí thức tiểu tư sản. Cuộc đấu tranh giữa Triết học duy vật và Triết học duy tâm, thông qua cuộc tranh luận tiêu biểu giữa Hải Triều và Phan Khôi những năm 1933 - 1934 lại là những xung đột về thế giới quan và nhân sinh quan trong xã hội. Đầu năm 1935 trên báo chí công khai ở thuộc địa, quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh và quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật đã luận chiến với nhau. Chính các cuộc đấu tranh giữa những xu hướng khác nhau trên những lĩnh vực văn hóa tư tưởng trên đây đã góp phần đắc lực vào sự phân hóa xã hội về tư tưởng chính trị. Một bộ phận khá đông những người tư sản, tiểu tư sản trí thức sau đó đã đứng về phái nhân dân lao động, đấu tranh cho quyền lợi dân tộc Việt Nam. Đội ngũ những người yêu nước và cách mạng dưới ngọn cờ cách mạng vô sản ngày một đông.
Trong lúc đó, những bộ phận cơ sở Đảng còn lại cũng kiên trì đấu tranh bảo vệ và xây dựng củng cố lực lượng, gây dựng tổ chức, phát triển phong trào của mình. Các xứ ủy lâm thời sau nhiều nỗ lực đã được gây dựng lại ở Bắc Kỳ (1932), ở Nam Kỳ (1933), ở Trung Kỳ (1934), các cơ sở Đảng Cộng Sản Đông Dương cũng được xây dựng ở Campuchia và Lào năm 1934.
Tháng 3/1935, được sự giúp đỡ của Quốc Tế Cộng Sản, những người cộng sản Đông Dương đã tiến hành cuộc Đại hội Đảng ở Ma Cao, bầu ra Ban Chấp Hành Trung Ương mới gồm 13 thành viên do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư. Nghị quyết chính trị của Đại hội Đại biểu lần thứ nhất ngày 27 - 31/3/1935 của Đảng Cộng Sản Đông Dương vạch rõ “Thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng kịp thời”. Như vậy về cơ bản, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã được phục hồi về tổ chức.
Trước đó, từ năm 1932 cùng với nhu cầu dân chủ ngày càng tăng lên trong xã hội, các hội quần chúng công khai ra đời như hội Tương Tế, hội Cấy, hội Gặt, hội Thể Thao; các nghiệp đoàn cũng hình thành. Đấu tranh công khai, hợp pháp đòi dân sinh, dân chủ trong các tầng lớp nhân dân từ đó cũng dần dần phát triển. Khi hệ thống Đảng Cộng Sản Đông Dương được phục hồi thì phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng công nông cũng được dấy lên mạnh mẽ dưới những hình thức ôn hòa như mít - tinh, biểu tình, bãi công, bãi khóa, bãi thị. Đến năm 1935, bằng sự phục hồi của Đảng Cộng Sản Đông Dương và các lực lượng yêu nước, phong trào dân tộc lại sẵn sàng bước vào một thời kỳ đấu tranh mới.
Có thể nói những năm đầu tiên trên con đường Cách mạng vô sản, phong trào dân tộc sau hơn nửa thế kỷ tồn tại, phát triển đã có những yếu tố căn bản được kiểm nghiệm trong thực tế để khẳng định có thể đảm bảo đưa phong trào đến thắng lợi cuối cùng.
II. CUỘC VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ 1936 - 1939
Những năm 1930 - 1936 chủ nghĩa phát xít đã phát triển thành một trào lưu chính trị và thắng thế ở nhiều nước trên thế giới. Đảng phát xít Ý ra đời năm 1920, đến năm 1922 giành được chính quyền ở Roma. Đảng Quốc xã Đức ra đời năm 1919, đến năm 1933 trở thành Đảng cầm quyền. Ở Nhật, sau cuộc đảo chính bất thành của phái “Sĩ Quan Trẻ”, chính quyền quân phiệt từ năm 1936 chuyển sang phát xít hóa…
Chủ nghĩa phát xít, như Quốc Tế Cộng Sản đã khái quát: “Chính là sự tấn công tàn bạo nhất của tư bản chống lại quần chúng lao động”, “Chính là chủ nghĩa Xô Vanh đến cực điểm và là chiến tranh xâm lược”, “là nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, Xô Vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính”. Trên cơ sở nhận thực đó, Đại hội lần thứ VII của Quốc Tế Cộng Sản họp tại Matxcơva tháng 7/1935, chủ trương thành lập Mặt Trận Nhân Dân rộng rãi trên toàn thế giới để chống chủ nghĩa phát xít, chống nguy cơ chiến tranh.
Trong xu thế chung của thế giới chống phát xít, tháng 1/1936, Mặt Trận Bình Dân Pháp đã ra đời, mặt trận tập hợp nhiều tổ chức Đảng phái chống phát xít Pháp, trong đó đông đảo nhất là Đảng Xã Hội, Đảng Cấp Tiến, Đảng Cộng Sản, Tổng Liên đoàn Lao động, Tổng Liên đoàn Lao động Thống Nhất. Trong cuộc bầu cử tháng 4/1936, bọn phát xít Pháp hoàn toàn thất bại, lực lượng Dân chủ hoàn toàn thắng thế, chính phủ Mặt Trận Bình Dân được thành lập. Sau đó chính phủ này buộc phải thi hành cương lĩnh dân chủ chống phát xít của Mặt Trận Bình Dân. Đối với các thuộc địa, Mặt Trận Bình Dân chủ trương mở các cuộc điều tra tình hình và thu thập dân nguyện, ban hành các quyền tự do dân chủ, tự do nghiệp đoàn, cải thiện đời sống giới lao động, toàn xá chính trị phạm…
1. Phong trào Đông Dương Đại hội 1936
Ở Đông Dương từ năm 1935 trở đi, áp lực của cuộc khủng hoảng kinh tế đã phục hồi rất chậm. Các công ty độc quyền của tư bản Pháp ra sức bành trướng thế lực, làm phá sản hàng loạt các chủ tư bản nhỏ người Pháp và người Việt. Chính quyền thuộc địa còn cho tăng thêm thuế thân ở Bắc Kỳ, đặt thêm thuế lợi tức ở Nam Kỳ, các thành thị có thêm thuế cư trú.. Tuy vậy do chính phủ ở chính quốc đã ngả theo xu hường cánh tả nên chính phủ thuộc địa không thể thi hành chính sách khủng bố trắng tàn bạo như trước được nữa. Các tầng lớp nhân dân và cả một số bộ phận thượng lưu đều mong muốn có những thay đổi cần thiết trong đời sống kinh tế - xã hội. Nhất là khi nghe tin chính phủ Pháp sẽ cử ban điều tra của Nghị viện Pháp sang Đông Dương, nhiều người ở thuộc địa tỏ ý trông chờ hi vọng những cải cách đân chủ.
Trước sự chuyển biến chung của tình hình, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã gửi thư ngỏ cho các tổ chức và nhóm cách mạng ở Đông Dương (4/1936) và thư công khai cho các đồng chí toàn Đảng (6/1936). Cùng lúc đó, Nguyễn Văn Tạo, một đảng viên hoạt động công khai viết cuốn “Mặt Trận Bình Dân Pháp và nguyện vọng của quần chúng Đông Dương”. Ngày 26/7/1936 Hội nghị Thượng Hải của Ban Chấp Hành Trung Ương. Đảng Cộng Sản Đông Dương chủ trương thành lập “Mặt Trận Nhân Dân Phản Đế Đông Dương” để chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo hòa bình. Ngày 29/7/1936 (và sau đó ngày 5/8/1936) nhà trí thức yêu nước Nguyễn An Ninh qua tờ báo La Lutte đã kêu gọi “Tiến tới một Đại hội Đông Dương”, “Hãy bắt tay vào Đại hội Đông Dương” để thảo bản dân nguyện của toàn thể nhân dân Đông Dương. Từ những chỉ đạo và nắm bắt sáng kiến ấy, phong trào Đại hội Đông Dương đã bùng nổ, mở đầu một cao trào đấu tranh dân chủ mới ở Việt Nam. Tại Nam Kỳ ngày 13/8/1936 Ủy ban trù bị Đại hội Đông Dương đầu tiên ra đời ở Hội quán báo Việt Nam (số 78 phố La Grandier, nay đường Lý Tự Trọng) gồm 19 người (có 3 đại biểu Cộng sản). Sau đó các Ủy ban hành động được hình thành khắp nơi cả thành phố, thị xã lẫn nông thôn. Đến tháng 9/1936, Nam Kỳ đã có hơn 600 Ủy ban hành động. Đông nhất là ở các thành thị như Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hòa (riêng Sài Gòn - Chợ Lớn có 31 Ủy bn hành động). Các nhà máy xí nghiệp trường học cũng có Ủy ban hành động, có một phần ba số xã vùng nông thôn lập Ủy ban hành động. Các Ủy ban hành động tổ chức hội họp, mít - tinh sôi nổi, truyền đơn, báo chí cũng cổ vũ vận động cho các Ủy ban hành động hoạt động công khai. Gần một nửa trong số 600 Ủy ban hành động có trụ sở với những Ủy viên thường trực là những cán bộ cách mạng hay những người yêu nước.
Tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ tháng 9/1936 các Ủy ban lâm thời Đại hội Đông Dương cũng được ra đời ở Hà nội và Huế, sau đó các Ủy ban hành động hình thành ở các tỉnh xung quanh trong các nhà in, xưởng máy, trong các giới tiểu thương, phụ nữ, nông thôn… đâu đâu cũng nói đến dân nguyện, các cơ sở Ủy ban hành động lần lượt ra đời.
Phong trào quần chúng dân lên mạnh mẽ, ảnh hưởng của Đảng Cộng Sản Đông Dương ngày một lan rộng. Thực dân Pháp từ chỗ đối phó thận trọng đến chỗ dung túng cho bọn phản động thuộc địa công khai đàn áp phong trào đồng thời tìm cách lôi kéo, chia rẽ phong trào, xoa dịu quần chúng. Ngày 15/9/1936 Pháp ra lệnh giải tán các Ủy ban hành động ở Nam Kỳ, ngày 19/9/1936 Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp là Mutter cho phép bọn thực dân ở Đông Dương dùng biện pháp thích đáng để dập tắt phong trào Đại hội Đông Dương. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, chính quyền thực dân cũng đã ra lệnh giải tán các Ủy ban hành động ngay khi phong trào vừa phát động.
Tuy nhiên với những hoạt động thu thập dân nguyện và tình hình thực tế tại Đông Dương, chính phủ Pháp buộc phải cho ban hành tại thuộc địa một số quyền tự do dân chủ hạn chế. Ngày 11/10/1936, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định về quyền lợi của lao động Đông Dương như chế độ nghỉ Chủ Nhật, chế độ nghỉ phép năm, chế độ ngày làm 8 giờ… Tháng 12/1936 một số chế độ lao động khác được ban hành như học nghề, tiền lương, nghỉ đẻ, cúp phạt để xoa dịu phong trào, chính quyền thực dân còn đồng thời cho ân xá một số chính trị phạm. Năm 1936 có khoảng 1.000 người và đến tháng 10/1937 đã có 1.532 người được ra khỏi các nhà tù đế quốc trở về với phong trào quần chúng. Đầu năm 1937 Quốc hội Pháp phải cử đại diện là Godart sang Đông Dương để thu thập tình hình.
Phong trào Đại hội Đông Dương sau đỉnh cao tháng 9/1936 đi vào kết thúc, nhưng được tin có đại diện chính phủ Pháp sang Đông Dương. Phong trào quần chúng lại bùng lên với danh nghĩa đón Godart. Suốt trong tháng 1 và đầu tháng 2/1937 hàng chục vạn người ở khắp Bắc - Trung - Nam đã mít - tinh, biểu tình đón người đại diện nhà nước Pháp đến thuộc địa. Quần chúng mang theo bản “dân nguyện” đòi dân sinh dân chủ, trao cho Godart trên khắp nẻo đường kinh lý ở Đông Dương. Đối với thực dân Pháp ở Đông Dương, phong trào đón Godart rõ ràng là một phong trào công khai của quần chúng lao động chống chế độ phản động thuộc địa của chúng, trong đó người tổ chức và lãnh đạo không ai khác là Đảng Cộng Sản Đông Dương.
2. Mặt Ttrận Dân Chủ Đông Dương và sự phát triển của cao trào đấu tranh dân chủ những năm trước chiến tranh
Từ năm 1937, theo chủ trương của Đảng Cộng Sản Đông Dương tận dụng các khả năng công khai hợp pháp, Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương và các tổ chức đoàn thể quần chúng của mặt trận như Đoàn Thanh Niên Dân Chủ, Hội Cứu Tế Bình Dân, Công Hội, Nông Hội ra đời. Ở các thành thị và nông thôn lại rất phát triển hội quần chúng như Ái Hữu, Tương Tế, Thể Thao, Âm Nhạc, Kịch, Du Lịch, Chèo, Hội Cấy, Hội Gặt…
Để tập hợp các lực lượng khác, Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương thông qua các nhóm cộng sản công khai (nhóm Tin Tức, Ngày Nay ở Bắc Kỳ, Dân Chúng ở Nam Kỳ, một bộ phận trong viện dân biểu ở Trung Kỳ) đã liên minh với các chi nhánh Đảng Xã Hội Pháp, Đảng Lập Hiến, Viện Dân Biểu, lập tổ chức cơ sở của mặt trận.
Với việc tổ chức tập hợp nhiều thành phần xã hội, Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương sẽ có vai trò mới trong cuộc đấu tranh, nhất là trong đấu tranh nghị trường. Những cuộc bầu cử Viện Dân Biểu Trung Kỳ, Viện Dân Biểu Bắc Kỳ, Hội Đồng thành phố Hà Nội, Đại Hội đồng kinh tế - tài chính Đông Dương trong 2 năm 1937 - 1938 đã lần đầu tiên gây sự chú ý lớn trong các tầng lớp dân chúng hữu quan, bởi sự tham gia của Mặt Trận Dân Chủ.
Chương trình hành động và danh sách ứng cử của Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương đã gây lòng tin và giành thắng lợi cao trong các cuộc bầu cử thời gian này. Cuộc bầu cử Hội đồng thành phố Hà Nội đã có 15 người của Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương trúng cửa, trong đó cựu chính trị phạm Khuất Duy Tiến là người được nhiều phiếu nhất.
Những hoạt động đấu tranh công khai hợp pháp của quần chúng ngày một sôi nổi với những hình thức phong phú như mít - tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng, bãi công… Ngày 1/5/1938 tại Hà Nội đã có cuộc biểu dương lực lượng lớn nhất vớ 250.000 người trong khu vực nhà Đấu Xảo để kỷ niệm ngày Quốc Tế Lao Động. Các thành phố cũng thường xuyên nổ ra bãi công, bãi thị, bãi khóa… Nửa cuối năm 1936 có 361 cuộc đấu tranh công khai của quần chúng lao động, năm 1937 lại có gần 400 cuộc đấu tranh của công nhân và hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân, năm 1938 có 135 cuộc bãi công của công nhân và 125 cuộc đấu tranh của nông dân…
Như vậy, trong khuôn khổ xã hội thuộc địa, những hoạt động công khai hợp pháp của Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương mà người lĩnh xướng là Đảng Cộng Sản Đông Dương đã đem đến cho phong trào dân tộc một sinh khí mới để phát triển, một sự chuyển biến mới trong cách thức và nội dung đấu tranh, một sự bổ sung mới vào lực lượng tiến hành vào địa bàn diễn tiến. Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương do Đảng Cộng Sản đề xướng và làm nòng cốt, đã có công lớn trong việc phát động cao trào Dân Chủ ở Đông Dương.
Mặt khác, trong cao trào Dân Chủ những năm 1936 - 1939, đời sống tư tưởng văn hóa của dân tộc cũng có nhiều thay đổi, phản ánh sự chuyển biến của đời sống kinh tế - xã hội thuộc địa những năm trước chiến tranh.
Về tư tưởng, cuộc đấu tranh cho những quan điểm duy vật và tư tưởng yêu nước - cách mạng, vẫn được duy trì đẩy mạnh theo đà phát triển của những năm 1933 - 1935. Đặc biệt trong cuộc đấu tranh của bọn T’rốt - kít vào chủ nghĩa Trotxky, Nguyển Ái Quốc và Đảng Cộng Sản Đông Dương đã sớm vạch mặt những kẻ giả danh cách mạng, bọn này thường hô hào quần chúng “đẩy mạnh cách mạng” nhưng thực tế là để chống lại cách mạng.
Phong trào báo chí công khai rầm rộ ở cả Bắc lẫn Nam suốt mấy năm 1936 - 1939. Bắc Kỳ có Notre Voix, Le Travail, En Vant, Tin Tức, Thời Thế, Đời Nay, Bạn Dân; Trung Kỳ có Nhành Lúa, Kinh Tế Tân Văn, Dân, Sông Hương Tục Bản; Nam Kỳ có L’Avantgarde, Le People, Dân Chúng, Lao Động… Đó là những tờ báo cách mạng, như bản cương lĩnh của “Notre - Voix” đã tuyên bố: “Là tiếng nói của những người mong muốn hòa bình, muốn được tự do và hạnh phúc hơn, của những người quyết tâm đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp hơn, đấu tranh chống lại các lực lượng bảo thủ và áp bức xã hội, và chống lại những kẻ gây chiến, chủ nghĩa phát xít trong nước và trên quốc tế”. Chính từ mục tiên dân chủ hòa bình tự do ấy, bằng cuộc đấu tranh của những người làm báo (qua các hội nghị báo chí ở Trung Kỳ ngày 27/3/1937, ở Bắc Kỳ ngày 24/4/1937), ngày 30/8/1938 chính phủ Pháp buộc phải ban hành Luật Tự do báo chí (mặc dù chỉ trong địa phận Nam Kỳ mà thôi).
Văn hóa văn nghệ là lĩnh vực có nhiều nét phát triển mới, thể hiện rõ nhất những đổi thay trong đời sống tinh thần của đời sống xã hội. Sách chính trị lần đầu tiên được công khai xuất bản. Cuốn “Vấn Đề Dân Cày” của Qua Ninh và Vân Đình (1937), “Chủ nghĩa Mác” của Hải Triều (1938) và các sách giới thiệu về Liên Xô, Trung Quốc, về Mặt Trận Bình Dân Pháp… nhanh chóng đến với mọi người yêu nước và cách mạng. Thơ Tố Hữu từ năm 1938 đã chinh phục quần chúng yêu nước và đánh dấu sự xuất hiện nền thơ ca cách mạng trong cuộc đấu tranh dân chủ công khai. Trong lúc đó dòng văn học Hiện thực phê phán cũng bước vào thời kỳ sinh sôi nảy nở lấn lướt cả dòng văn học lãng mạng đang đi vào phân hóa. Các tác phẩm Tắt Đèn, Việc Làng (Ngô Tất Tố), Bỉ Vỏ (Nguyên Hồng), Bước Đường Cùng (Nguyễn Công Hoan), Số Đỏ (Vũ Trọng Phụng), Lầm Than (Lang Khai)… trở thành món ăn tinh thần mới của nhiều tầng lớp xã hội. Sân khấu và Lý luận phê bình văn học cũng kịp thời xuất hiện để không bỏ lỡ chuyến tàu dân chủ công khai. Các vở diễn Kim Tiền (Vi Huyền Đắc), Đời Cô Lựu (Trần Hữu Trang) tập trung phản ánh hiện thực, xã hội. Để chống văn hóa ngu dân, phong trào truyền bá chứ quốc ngữ được phát động rộng rãi, nhất là trong các tầng lớp nhân dân lao động. Mở đầu là việc thành lập Hội Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ của cụ Nguyễn Văn Tố. Sau đó là các nơi mở lớp chữ Quốc ngữ, chống thất học và giúp cho quần chúng hiểu biết nhận thức thời cuộc.
Đến cuối năm 1938, khi cuộc chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh của chủ nghĩa phát xít càng ráo riết, thì những thuận lợi cho các hoạt động đấu tranh dân chủ hòa bình ngày một ít dần đi. Ở Đông Dương bọn phản động thuộc địa từ cuối năm 1938 đầu năm 1939 bắt đầu ngăn cản và cấm đoàn những hoạt động dân chủ công khai của quần chúng. Tháng 8/1939 sắc lệnh kiểm duyệt báo chí được thực hiện. Tiếp theo là những hoạt động có liên quan đến Đảng Cộng Sản Đông Dương đều bị theo dõi gắt gao. Về phần mình, Đảng Cộng Sản Đông Dương trong “Thông báo tháng 3/1939” đã kêu gọi chống khủng bố. Từ đó Đảng kịp thời rút vào bí mật trước khi địch ra tay khủng bố truy lùng bắt bớ. Cho đến khi Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ (9/1939) phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt Nam đã bị chấm dứt hơn 3 năm phát triển.
Cao trào đấu tranh dân chủ công khai những năm1936 - 1939 là một cao trào của quần chúng hiếm có ở xứ thuộc địa. Với cao trào này, lực lượng đấu tranh của dân tộc được hình thành từ thời kỳ 1930 - 1931, gây dựng hồi phục lại những năm 1932 - 1935 nay được củng cố bổ sung thành một đạo quân hùng hậu hàng triệu người ở cả nông thôn và thành thị với nhiều tầng lớp giai cấp khác nhau. Tận dụng mọi khả năng điều kiện thế giới, và trình hình trong nước những năm trước chiến tranh để đưa cả dân tộc và một cuộc vận động cách mạng, với nhiều hình thức hoạt động phong phú, sôi nổi. Đó là thành công lớn, bài học quý báu từ thực tến đấu tranh những năm 1936 - 1939 là hành trang của Đảng Cộng Sản Đông Dương và tất cả những người yêu nước Việt Nam đem theo trong quá trình đấu tranh cho tự do độc lập.
III. CÔNG CUỘC CHUẨN BỊ VÀ TIẾN HÀNH TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN
1. Tình hình đất nước trong những năm Chiến tranh Thế giới II
Chiến tranh thế giới lần thứ haibùng nổ đã chấm dứt cao trào đấu tranh của dân chủ bảo vệ hòa bình. Từ đây thế giới tiến bộ và cách mạng lại bắt đầu thời kỳ mới, tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, mở rộng trận địa cách mạng.
Từ châu Âu, chiến tranh lan nhanh sang các châu lục khác. Phát xít Đức - Ý - Nhật sau khi điên cuồng tấn công các nước tư bản khác và hệ thống thuộc địa, chúng đã quay sang tấn công Liên Xô. Một liên minh thế giới lập tức được hình thành gồm Liên Xô - Anh - Pháp - Mỹ và các nước thuộc địa phụ thuộc, tất cả đã phối hợp chống chủ nghĩa phát xít, tạo điều kiện cho nhiều quốc gia dân tộc đứng lên giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do.
Nước Pháp nhảy vào vòng chiến làm thay đổi toàn bộ chính sách của họ ở cả chính quốc lẫn thuộc địa. Ngày 25/9/1939 chính phủ Daladir ra lệnh giải tán Đảng Cộng Sản, bắt bớ khủng bố các lực lượng dân chủ tiến bộ, Mặt Trận Bình Dân Pháp hoàn toàn tan vỡ. Ở Đông Dương toàn quyền Catroux ra nghị định cấm mọi hoạt động tuyên truyền cộng sản, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn, giải tán Mặt Trận Dân Chủ, hàng ngàn người yêu nước bị bắt bớ, giam cầm ở trong nước hay bị đày đi biệt xứ. Thống kê của chính phủ Pháp cuối năm 1939, đầu năm 1940, Trung Kỳ và Bắc Kỳ có 43 án tử hình, 153 án chung thân, 2.587 án khổ sai, Nam Kỳ có 800 cán bộ đảng viên bị bắt giam, Thừa Thiên Huế có 65/76 đảng viên bị sa lưới…
Cũng như cuộc chiến tranh lần trước, Đông Dương cung cấp sức người sức của cho chính quốc ngày một nhiều, lần này ngay từ những ngày đầu chiến tranh, Pháp đã ráo riết bắt lính, lập thêm sân bay và trại lính, củng cố các quân cảng, huấn luyện quân trù bị, chuyển một số nhà máy sang phục vụ chiến tranh. Toàn quyền Catroux tuyên bố tháng 11/1939 rằng “Đông Dương phải để cho nước Pháp sử dụng nguồn nhân lực của mình… dù có tham gia trực tiếp hay không vào cuộc chiến, Đông Dương cũng không được tự do có phương hướng riêng của nền kinh tế và tài chính của mình mà phải quy tụ nó vào nhũng mục đích có mẫu quốc chỉ định. Đông Dương phải… vì lợi ích của mẫu quốc, cung cấp những sản phẩm của đất đai và trong lòng đất mà nước Pháp đòi hỏi”. Từ sau khi có lệnh Tổng động viên (ngày 3/9/1939 đến tháng 11/1939) đã có 70.000 lính Việt Namsang Pháp, chỉ 2 tháng mà “thuế máu” của bọn thuộc địa này đã tăng gấp rưỡi so với cả cuộc chiến tranh thứ nhất. Còn nguồn vật lực thì huy động ngày một nhiều theo cường độ chiến tranh. Đến cuối năm 1939 đã có 1.500.000 tấn gạo, 66.000 tấn cao su được đưa về Pháp cùng với 57.166.000 đồng thuế các loại; chỉ 8 tháng đầu năm 1940 đã có 37.995 tấn nguyên liệu trị giá 51 triệu france từ Đông Dương về Pháp. Cái gọi là nền “kinh tế chỉ huy” của Pháp ở Đông Dương thực chất là chương trình vơ vét nhân tài vật lực ở thuộc địa ném vào lò lửa chiến tranh, vì thế nó có sức tàn phá rất ghê gớm nền kinh tế và đời sống xã hội ở Đông Dương. Mâu thuẫn của nhân dân Đông Dương với thực dân Pháp và tay sai càng gay gắt, không thể không dẫn đến bùng nổ những cuộc đấu tranh một mất một còn.
Giữa năm 1940 chiến tranh ở châu Âu trở nên nóng bỏng với việc phát xít Đức quay nòng súng về phía Tây Âu. Ngày 22/6/1940, Pháp mất nước, chính phủ Pétain ở Vichy trở thành bù nhìn của Đức, còn chính phủ De Gaulle kháng Đức vì lưu vong. Ở châu Á, phát xít Nhật đã chiếm trọn Trung Quốc và chẩn bị tiến chiếm Đông Dương, bành trướng xuống toàn bộ Đông Nam Á. Sự chuyển biến nhanh chóng của chiến tranh đã làm cho các thuộc địa đứng trước một tình hình mới đầy mâu thuẫn phức tạp cùng với những dấu hiệu của một thời cơ thuận lợi cho cuộc vận động giải phóng dân tộc. Ở Đông Dương Đô đốc Decoux thay Catruox làm toàn quyền, hy vọng lập lại thời kỳ chính quyền của các Đô đốc như hồi cuối thế kỷ XIX, nhưng từ ngày 18/6/1940 Nhật đã lợi dụng lúc Pháp mất nước để đòi ưu sách và ngày 22/9/1942 chúng đã đổ quân vào Đông Dương, ném bom Hải Phòng, đánh chiếm Lạng Sơn. Tháng 10/1940, Nhật xúi dục Thái Lan đánh chiếm Lào và Campuchia. Tháng 7/1941 Nhật buộc Pháp ký hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương. Ngày 8/12/1941 Nhật gây ra chiến tranh Thái Bình Dương, Hiệp định quân sự Nhật - Pháp được ký kết, Đông Dương trở thành một căn cứ bàn đạp của Nhật ở Đông Nam Á.
Như vậy từ cuối năm 1940 Pháp và Nhật đã cấu kết với nhau cùng thống trị Đông Dương. Pháp vẫn tiếp tục thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy”, vơ vét sức người sức của ở thuộc địa này, nhưng dần dần Pháp trở thành kẻ giữ nhà cho Nhật, cung phụng cho Nhật. Từ năm 1940 - 1945 Pháp cung cấp cho Nhật 6.500.000 tấn gạo, 260.000 tấn ngô, 1.145.000.000 đồng thuế. Phát xít Nhật còn trực tiếp vớ vét nhân tài vật lực ở Đông Dương và thực hiện nhiều chính sách kinh tế rất tàn bạo. Ba mặt hàng Đông Dương sớm xuất sang Nhật là gạo (41.000tấn/1940), than (479.007tấn/1940) và quặng sắt, mangan (41.000tấn/1940). Hàng vạn hécta lúa phải nhổ lên đổ trồng đay, bông, thầu dầu. Chính sách “thu thóc tạ” của Nhật đã hớt tay trên của người nông dân mỗi vụ hàng trăm ngàn tấn lúa ngay khi chưa gặt hái. Trong xã hội xuất hiện nhan nhản các tổ chức đảng phái thân Nhật hoặc thân Pháp như “Đại Việt Xã Hội Quốc Dân Đảng”, “Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội”, “Đông Dương Liên Đoàn Cách Mạng”, “Việt Nam Xã Hội Cách Mạng”, “Việt Nam Cách Mạng Thống Nhất Đảng”… dưới danh nghĩa “dân tộc”, “quốc gia”, nhưng chúng rất tập trung chống phá cách mạng. Ngoài ra nhiều biện Pháp khác lừa mị lôi kéo các tầng lớp nhân dân, ru ngủ thanh thiếu niên được thi hành để đánh lạc hướng đấu tranh dân tộc.
2. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam
Tình hình diễn ra đúng như Nguyễn Ái Quốc đã dự đoán từ năm 1930 khi cuộc chiến tranh đế quốc lần thứ 2 đang được chuẩn bị rằng “Khi cuộc chiến tranh đó nổ ra, thì nhất định đế quốc Pháp sẽ đẩy anh chị em chúng ta vào một cuộc chém giết đầy tội ác”. Chỉ mới một năm chiến tranh, bọn thực dân phát xít cấu kết nhau gây ra nhiều tai họa cho nhân dân Đông Dương. Chính vì vậy, trước tình cảnh “một cổ hai tròng” áp bức, mâu thuẫn dân tộc ngày càng bức bách, các tầng lớp nhân dân yêu nước cùng lực lượng cách mạng ở các địa phương đã tự động đứng lên đấu tranh.
Ngày 27/9/1940, khởi nghĩa Bắc Sơn đã nổ ra trên một vùng rộng lớn của Châu Bắc Sơn (Bắc Ninh). Đó là cuộc khởi nghĩa cục bộ đầu tiên báo hiệu một cao trào mới của phong trào dân tộc đã bắt đầu. Ngày 22/9/1940 Nhật cho quân tràn qua biên giới Việt Trung đánh chiếm lạng Sơn, quân Pháp hoảng sợ bỏ chạy về Thái Nguyên kéo theo sự tan rã, hoang mang của chính quyền địch ở đây. Trước thời cơ đó, quần chúng nhân dân Bắc Sơn có sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã nổi dậy khởi nghĩa vũ trang. Đêm 27/9/1940, quân khởi nghĩa tấn công đồn châu lỵ Mỏ Nhài và đánh chiếm châu lỵ Bắc Sơn. Sau đó Pháp và Nhật đã vội vàng cấu kết với nhau, phản công lại quân khởi nghĩa, nhưng Đảng bộ và nhân dân Bắc Sơn vẫn kiên quyết duy trì lực lượng khởi nghĩa, xây dựng vùng rừng núi Bắc Sơn thành căn cứ địa, lập đội du kích Bắc Sơn để tiếp tục đánh đuổi Nhật. Căn cứ địa Bắc Sơn và đội du kích Bắc Sơn trở thành một trong những địa bàn và lực lượng cách mạng đầu tiên của Cách Mạng Tháng Tám.
Được kích thích bởi tiếng súng Bắc Sơn, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã được gấp rút chuẩn bị trên quy mô lớn. Xứ ủy Nam Kỳ Đảng Cộng Sản Đông Dương - người tổ chức lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã chủ trương từ khá sớm, chớp thời cơ chiến tranh phát động khởi nghĩa vũ trang.
Tại Hội nghị Xuân Thới Đông tháng 9 năm 1940, những công việc chuẩn bị cho khởi nghĩa đã ráo riết hơn. Hội nghị đã quyết định lấy lá cờ hình chữ nhật màu đỏ có ngôi sao vàng ở giữa làm biểu tượng cho ý chí đấu tranh kiên quyết giành tự do và độc lập, hội nghị còn cử người ra trung ương xin ý kiến chỉ đạo để khởi nghĩa có thêm sự phối hợp của đất nước. Với quyết tâm nổi dậy khởi nghĩa, mặc dù kế hoạch tổ chức đã bại lộ và quân Pháp đã chuẩn bị đàn áp, nhưng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn nổ ra đêm 23/11/1940. Lệnh hoãn từ trung ương không đến kịp với Nam Kỳ, thời cơ khởi nghĩa chưa chín muồi, quần chúng nhân dân và các lực lượng cách mạng của địa phương càng nóng lòng hành động muốn đánh Pháp. Từ đêm ấy đến cuối tháng 12/1940, nhiều địa phương Nam Kỳ đã nổi dậy mà lực lượng đông đảo nhất là quần chúng nông dân có vũ trang thô sơ, một số nơi khởi nghĩa tấn công vào các huyện lỵ và đồn bót địch như Hóc Môn, Vũng Liêm, Tam Bình, Chợ Mới; một số nơi khác ở U Minh, Đồng Tháp Mười quân khởi nghĩa sau khi nổi dậy đã lập đội du kích và xây dựng căn cứ địa. Đến đầu năm 1941, tuy kẻ thù đã tập trung lực lượng chống đỡ và phản kích lại cuộc khởi nghĩa nhưng các lực lượng cách mạng còn lại vẫn kiên trì hoạt động, giữ gìn xây dựng cơ sở chờ đón thời cơ mới.
Đầu năm 1941 phong trào của binh sĩ yêu nước cũng có những dấu hiệu mới. Binh sĩ đã biểu tình ở Hải Phòng, Đà Nẵng, Mỹ Tho. Binh sĩ đã tuyệt thực ở Sài Gòn, Quảng Trị, Vĩnh Yên. Binh sĩ mang súng bỏ đồn trại chạy vô rừng ở Tây Ninh, binh sĩ tỏ thái độ chống chiến tranh ở Thủ Dầu Một. Tiếp đó ngày 13/1/1941, binh sĩ ở Đồn Chợ Rạng (Nghệ An) do Đội Cung chỉ huy đã nổi dậy chiếm đồn rồi đánh sang đồn Đô Lương và kéo quân về Vinh. Cuộc binh biến lập tức bị đàn áp khốc liệt nhưng binh sĩ Việt Nam trong quân đội Pháp - một lực lượng mới của phong trào dân tộc, càng thấy rõ hơn bộ mặt của kẻ thù dân tộc.
Như vậy, từ khởi nghĩa Bắc Sơn đến khởi nghĩa Nam Kỳ và binh biến Đô Lương, quần chúng yêu nước trước thời cơ chiến tranh, từ Bắc đến Nam dù trong hoàn cảnh và điều kiện nào, cũng có một nhận thức và hành động thiết thực là phải đứng lên chống bọn áp bức dân tộc. Những cuộc khởi nghĩa đầu tiên này tuy sớm bị đàn áp và thất bại, nhưng sức quật khởi của khối quân thù của toàn dân tộc thì không có gì có thể dập tắt được, nó sẽ được hướng vào chẩn bị cho cuộc tổng nổi dậy của toàn dân tộc dưới ngọn cờ chung của những người cộng sản.
Tháng 11/1939 Đảng Cộng Sản Đông Dương họp hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương lần thứ VI tại Bà Điểm ( Gia Định) để phân tích tình hình đề ra nhiệm vụ mới cho Cách mạng Việt Nam. Hội nghị đề ra chủ trương “nhiệm vụ cốt chính của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa ra vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp quan trọng”. “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả các vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”.
Tháng 11/1940 tròn một năm sau khi đề ra nhiệm vụ mới ấy Đảng Cộng Sản Đông Dương lại họp hội nghị ban ch6p1 hành trung ương lần thứ VII tại Đình Bảng (Bắc Ninh), tiếp tục phân tích nhận định tình hình trước diễn biến mới của chiến tranh, chủ trương thành lập Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất Phản Đế “đặng tranh đấu tiến lên võ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp - Nhật và các lưc lượng phản động ngoại xâm, diệt trừ phong kiến và các hành động phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”.
3. Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Tháng 2/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp cùng những người Cộng sản Đông Dương tổ chức phong trào, lãnh đạo đấu tranh. Tháng 5/1941, sau khi thí điểm xây dựng Mặt Trận Việt Minh ở Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương lần thứ VIII tại Pắc-Pó (Cao Bằng), Với những dự đoán sáng suốt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về diễn biến của chiến tranh đế quốc và triển vọng của phong trào dân tộc, Đảng Cộng Sản Đông Dương tại Hội nghị lịch sử này đã tiếp tục đề ra nhiều chủ trương và chính sách cụ thể có ý nghĩa hoàn chỉnh đường lối và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc trong giai đoạn mới.
Hội nghị nhận định “nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đấu tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”., “cuộc đế quốc chiến tranh càng dữ dội, càng tiến mau thì phong trào cách mạng càng do đó mà bành trướng mau lẹ”. Vấn đề giải phóng dân tộc tại hội nghị này không những tiếp tục được đề cao lên hàng đầu và là nhiệm vụ cấp bách nhất, như các hội nghị lần trước đã khẳng định, mà còn được đặt đúng vị trí khuôn khổ quốc gia của nó, dân tộc phải được tự do độc lập và có quyền tự quyết định. Khởi nghĩa vũ trang là con đường tất yếu để thực hiện nhiệm vụ đó, như Hội nghị khẳng định “cuộc Cách mạng Đông Dương kết liễu bằng cuộc khởi nghĩa võ trang” theo cách thức là “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho cuôc tổng khởi nghĩa to lớn”. Do đó chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâmcủa giai đoạn hiện thời, phải bắt tay vào việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc và xây dựng “lực lượng toàn quốc đủ cức gây ra và củng cố cho một cuộc khởi nghĩa”; Chỉ đến khi những điều kiện chủ quan ấy được chuẩn bị đầy đủ thì mới có thể kết hợp được với “điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa Đông Dương như quân Trung Quốc đại thắng quân Nhật, cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật nổi dậy, phe dân chủ đại thắng ở Thái - Bình - Dương, Liên Xô đại thắng cách mạng các thuộc địa Pháp, Nhật sôi nổi và nhất là quân Trung Quốc hay quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương”.
Như vậy, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, những người yêu nước và cách mạng ở Việt Nam đã nhận thức đó là thời cơ để đứng lên giải phóng dân tộc. Trong quá trình ấy Đảng Cộng Sản Đông Dương đã kịp thời lãnh đạo phong trào dân tộc, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, đề ra đường lối và phương pháp cách mạng thích hợp nhất với yêu cầu nhiệm vụ lịch sử. Với việc đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và hoàn chỉnh chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, sách lược đấu tranh trong thời kỳ mới, từ giữa năm 1941, cả dân tộc đã bước vào thời kỳ chuẩn bị trực tiếp cho cuộc Cách Mạng Tháng Tám.
Ngay sau Hội nghị lần thứ VIII của Đảng, tổ chức “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội” (gọi tắt là Việt Minh), bao gồm các “Hội cứu quốc” đã được thành lập và nhanh chóng phát triển. Mặt trận không chỉ phù hợp với nguyện vọng cứu quốc của đông đảo các tầng lớp nhân dân mà còn đáp ứng được yêu cầu đề cao tinh thần yêu nước và đấu tranh cách mạng của mỗi dân tộc Đông Dương. Chương trình của Việt Minh nói rõ chủ trương “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân, không phân biệt tôn giáo, xu hướng, đảng phái chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật, giành lấy độc lập xứ sở…, hết sức giúp đỡ Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh… để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nhà nước. Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc”.
4. Mặt Trận Việt Minh với quá trình chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang
Đúng như dự đoán, tháng 6/1941 phát xít Đức tấn công Liên Xô, cuộc chiến tranh thế giới bước sang một thời kỳ mới, trận địa chống chủ nghĩa phát xít mở rộng toàn cầu. Tại Đông Dương, bọn Nhật - Pháp cấu kết với nhau vơ vét, làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với phát xít Nhật - Pháp ngày càng sâu sắc. Mặt Trận Việt Minh chủ trương gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang với quyết tâm đem sức ta tự giải phóng cho ta.
Từ cuối năm 1941 đến đầu năm 1943, các Đội Cứu Quốc Quân và các Đội Tự Vệ Chiến Đấu, Đội Xung Phong Nam Tiến lần lượt ra đời và hoạt động nối liền 2 căn cứ địa Bắc Sơn - Phủ Nhai với Cao Bằng; phong trào du kích chiến tranh ở các khu căn cứ được phát động gây thêm thanh thế cho cách mạng, do đó Việt Minh nhanh chóng xây dựng cơ sở phát triển tổ quốc. Ở Bắc Bộ và Trung Bộ đến năm 1942 đã xuất hiện nhiều xã, tổng và châu “hoàn toàn”, nhất là trong tỉnh Cao Bằng. Tại đây Việt Minh đã được thành lập và tập hợp toàn bộ quần chúng nhân dân, các ban Việt Minh làm chức năng của chính quyền cách mạng…
Ở Nam Bộ từ sau khởi nghĩa Nam Kỳ, cách mạng gặp nhiều tổn thất nên phát triển khó khăn. Tuy thế cơ sở cách mạng còn lại vẫn duy trì hoạt động gây dựng phong trào nhất là trong giới lao động công nhân và nông dân, đến năm 1943 phong trào đấu tranh ở Nam Bộ đã dần dần hồi phục. Từ tháng 5/1942 - 6/1943 có 24 cuộc đấu tranh của công nhân.
Tháng 2/1943 tại Hội nghị Ban thường vụ trung ương ở Võng La (Đông Anh), Đảng Cộng Sản Đông Dương nhận thức: “Phong trào cách mạng Đông Dương có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao” do đó cần mở rộng Mặt Trận Việt Minh và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang cho toàn dân. Bảng “Đề cương văn hóa Việt Nam” được thông qua trong hội nghị Võng La (công bố tháng 2/1943) là hoạt động thiết thực đầu tiên để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới vừa đề ra. “Đề cương văn hóa Việt Nam” cùng với các sách báo của Đảng và Mặt Trận Việt Minh lúc đó như “cờ giải phóng”, “cứu quốc”, tạp chí Cộng Sản đã trở thành vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống văn hóa ngu dân và phản dân tộc của Pháp - Nhật, nó đã tập hợp được cho dân tộc một lực lượng đông đảo các trí thức văn nghệ sĩ đi vào con đường cứ quốc. Chẳng bao lâu Hội Văn Hóa Cứu Quốc ra đời phát triển nhanh ra các thành phố. Tiếp đó tháng 6/1944, được những người cộng sản giúp đỡ, một số tri thức yêu nước còn thành lập Đảng Dân Chủ Việt Nam.
Mặt Trận Việt Minh cũng được củng cố phát triển ở nhiều nơi khác trong và ngoài nước những năm 1943 - 1944. Các tỉnh miền núi và trung du Bắc Bộ, Việt Minh đã trở thành người tổ chức lãnh đạo các hoạt động đấu tranh cách mạng ở đại phương còn các tỉnh đồng bằng thì hầu hết các huyện đều có cơ sở Đảng và Việt Minh. Ở nhiều tỉnh ven biển Trung Bộ, cơ sở Đảng và Việt Minh được phát triển trong các giới lao động và các bộ phận tiểu tư sản trí thức đô thị. Ở Nam Bộ từ năm 1943 tổ chức Việt Minh được xây dựng ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh và các nơi khác. Những người Việt Nam yêu nước ở Xiêm, Trung Quốc cũng được tập hợp lại lập các ban Việt Minh ở hải ngoại. Trên cơ sở phong trào Việt Minh lan rộng, những cuộc đấu tranh yêu nước của các tầng lớp nhân dân dưới các hình thức bí mật và công khai được dần dần đẩy mạnh, nhất là với các hoạt động chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Tháng 5/1944 Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “sửa soạn khởi nghĩa”, tháng 8/1944 Đảng Cộng Sản Đông Dương kêu gọi “sắm vũ khí đuổi thù chung”. Từ đó ở các vùng căn cứ và vùng có Việt Minh phát triển mạnh những hoạt động khởi nghĩa vũ trang được xúc tiến như phổ biến kinh nghiệm khởi nghĩa, học chiến thuật du kích, tổ chức và huấn luyện các đội tự vệ, các tiểu đội du kích, động viên quần chúng tự sắm sửa vũ khí và tìm kiếm vũ khí cho du kích…
Đặc biệt là ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Yên, Mặt Trận Việt Minh được xây dựng đều khắp và có hệ thống. Các lớp huấn luyện du kích được mở liên tục, không khí nổi dậy khởi nghĩa sôi sục trong quần chúng. Tháng 10/1944, Pháp mở cuộc càn lớn vào vùng Vũ Nhai (Thái Nguyên), quần chúng được Đảng bộ địa phương tổ chức và rút vào rừng đẩ chuẩn bị cho cuộc bạo động chống Pháp. Liên tỉnh ủy Đảng Cộng Sản Đông Dương Cao Bằng - Bắc Cạn - Lạng Sơn chủ trương phát động chiến tranh du kích trong phạm vi 3 tỉnh. Dấu hiệu của một thời kỳ đấu tranh mới đã xuất hiện cục bộ từ cuối năm 1944, cách mạng đang cần một bước chuyển thích hợp để có thể phát triển nhảy vọt.
Tháng 9/1944 đồng chí Nguyễn Ái Quốc (lúc này lấy tên là Hồ Chí Minh) về nước sau 2 năm đi công tác sang Trung Quốc. Trong thời gian đi công tác Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam từ ngày 29/8/1942 đến đầu tháng 9/1943. Trải qua 30 nhà lao ở 13 huyện ở Trung Quốc, tuy có bị tiều tụy về thể xác nhưng ý chí và tâm hồn cách mạng của người không hề giảm sút. Người đã viết “Ngục Trung Nhật Ký” và ngay khi ra tù Người đã lao vào hoạt động không mệt mỏi để nắm bắt tình hình thời cuộc, theo dõi diễn biến cách mạng trong và ngoài nước kịp thời chỉ đạo phong trào dân tộc đang chuyển biến tích cực.
Cuối tháng 9/1943, Hồ Chí Minh đề nghị hoãn thi hành “Nghị quyết phát động chiến tranh du kích” các liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng. Tháng 10/1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước kêu gọi toàn quốc chuẩn bị Đại hội Đại biểu để “Trong thì lãnh đạo công việc cứu nước, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang” và người dự báo “cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ trong một năm hoặc năm rưỡi nữa”.
Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập đội “Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân”. Ngày 22/10/1944 lễ thành lập được tổ chức tại một khu rừng giữa 2 tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo, Châu Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng. Đội gồm 34 người (có 3 nữ) biên chế thành 3 tiểu đội với 34 khẩu súng đủ loại. Ngay sau đó Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân đã đánh thắng trận đầu với việc hạ đồn Phay Khắt (ngày 24/12/1944) và đồn Nà Ngần (ngày 25/12/1944). Một tuần sau Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân đã phát triển thành một đại đội.
Ở Nam Bộ các cơ sở Đảng sau khởi nghĩa Nam Kỳ bị tổn thất lớn; các bộ phận còn lại ra sức móc nối lập lại xứ ủy và liên lạc với trung ương. Nhiều đồng chí cốt cán của Đảng, trong đó có đồng chí Trần Văn Giàu bí thư xứ uỷ được tổ chức trốn khỏi nhà tù đế quốc, góp phần quan trọng vào việc gây dựng phục hồi lại hệ thống Đảng ở Nam Kỳ. Đến năm 1943 với sự ra đời của nhóm giải phóng và Xứ uỷ tiền phong, các Đảng bộ địa phương đã được thành lập lại. Mặc dù có 2 hệ thống xứ ủy chỉ đạo nhưng về cơ bản “xứ ủy” và Đảng bộ địa phương Nam Kỳ vẫn còn chung đường lối đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, vẫn thống nhất về mục tiêu lãnh đạo phong trào quần chúng tiến tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Cuối năm 1944 đầu năm 1945, phong trào cách mạng ở Nam Bộ đã lấy lại khí thế phát triển nhanh của mình và bắt đấu bắt nhịp vào trào lưu chung của cả dân tộc đang chuẩn bị cho bước nhảy vọt lớn khi thời cơ đến.
5. Cao trào kháng Nhật cứu nước - tiền đề của Tổng khởi nghĩa
Chiến thắng dồn dập của Liên Xô và các lực lượng Đồng minh ở châu Âu tiêu diệt bọn phát xít Đức - Ý tạo điều kiện cho nhiều nước châu Âu được giải phóng. Tháng 8/1944 nước Pháp được giải phóng, chính phủ De Gaulle lên cầm quyền. Ở Đông Dương bọn Nhật - Pháp vừa lo cấu kết với nhau chống phá cách mạng, vừa lo đối phó hất cẳng nhau khi Đồng minh chuẩn bị đánh sang Viễn Đông.
Sự hòa hoãn Nhật - Pháp những năm 1940 - 1944, như đồng chí Trường Chinh đã viết trên báo Cờ Giải Phóng (1944), “có khác chi một cái nhọt bọc chứa chất bên trong biết bao vi trùng và máu mủ, chỉ chờ dịp chín nõn là vỡ tung ra”. Hai kẻ thù không thể chung một miếng mồi và để trừ hậu họa, đêm ngày 9/3/1945 Nhật đã tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp, độc quyền chiếm lấy Đông Dương. Quân Pháp từ hoang mang đến bỏ chạy chứ không dám cùng với Việt Minh chống Nhật. Pháp cam chịu làm tù binh của phát xít Nhật, hơn là làm Đồng minh với người thiết tha được độc lập dân tộc, mặc dầu đất nước họ vừa thoát khỏi ách thống trị của phát xít.
Chính sách của Nhật ở Đông Dương từ sau ngày 9/3/1945 là kết hợp việc lừa dối, bịp bợm với thủ đoạn bạo lực tàn ác đề cướp bóc về kinh tế, chia sẻ về chính trị, tiến công về quân sự. Chúng đề ra chính sách “dĩ chiến dưỡng chiến” mà thực chất là thực hiện cuộc đánh cướp đại quy mô để thực hiện chính sách Đại Đông Á của chúng. Nhật nắm lấy các công ty, xí nghiệp của Pháp, cho tăng các mức thuế, buộc ngân hàng Pháp cung cấp tiền cho chúng, không đưa hàng hóa của Nhật sang Đông Dương, dùng Đông Dương nuôi chiến tranh ở Đông Dương và vơ vét đem về Nhật. Năm 1944 và năm 1945 nông nghiệp liên tục bị thiên tai và mất mùa, nhưng Đông Dương vẫn phải xuất nộp sang Nhật 900.000 tấn gạo, ngoài số cung cấp cho Nhật - Pháp tại Đông Dương tiêu dùng và tích trữ. Đầu năm 1945 các kho của Pháp tích trữ 500.000 tấn thóc mặc cho giá thóc lúc đó đang ngày một tăng cao, nạn đói đang hoành hành. Bảo Đại chuyển sang hợp tác với Nhật, chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật đỡ đầu tuyên bố “Việt Nam độc lập”. Đảng phái thân Nhật xuất hiện nhan nhản, riêng Bắc Kỳ đã có 30 tổ chức và bọn này lập ra cái gọi là “Đại Việt quốc gia liên minh” làm mặt trận thân Nhật chống lại Mặt Trận Việt Minh. Quân đội Nhật và tay sai liên tục hành quân đánh phá các căn cứ cách mạng, bắt bớ nhiều người dân vô tội. Nhật còn ban hành luật xử chém rất tàn khốc đối với những người yêu nước và cách mạng. Chính sách đàn áp của Nhật làm cho Cách mạng Đông Dương chịu nhiều tổn thất nhưng tội ác của chúng chỉ làm cho ngọn lửa căm thù trong quần chúng nhân dân thêm bốc cao, cuộc nổi dậy từ khối căm thù ấy nhất định không gì cản nổi.
Đảng Cộng Sản Đông Dương đã theo dõi sát mối quan hệ Nhật - Pháp và ngày 9/3/1945 khi có dấu hiệu đảo chính, Ban thường vụ trung ương đã họp mở rộng tại Đình Bản (Từ Sơn, Bắc Ninh). Cuộc họp vừa bắt đầu thì tiếng súng đảo chính nổ ran như lời minh hoạ cho những dự đoán chính xác của Đảng. Hội nghị nhận định những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa ở Đông Dương đang đi đến chín muồi một cách nhanh chóng và một cao trào cách mạng nổi dậy. Đó là:
1. “Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng)”.
2. “Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quan cướp nước)”.
3. “Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật)”.
Trên cơ sở đó, Hội nghị thường vụ chủ trương thay đổi khoẩu hiệu và phương pháp cách mạng cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới, phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Hội nghị dự kiến thời cơ cho cách mạng bùng nổ nhưng nhấn mạnh việc không ỷ lại vào quân đồng minh … Ngày 12/3/1945 kết thúc hội nghị lịch sử này, bản chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã ra đời. Bản chỉ thị sẽ tiếp tục hướng dẫn các Đảng bộ địa phương, các lực lượng cách mạng và yêu nước một phương pháp phân tích tình hình, phán đoán thời cơ và kịp thời hành động.
Ngay sau đó, phong trào “Kháng Nhật cứu nước” đã bùng nổ tại các tỉnh Bắc Bộ đến Trung Bộ. Cuộc đảo chính tuy chưa làm cho kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lâm vào tình trạng hoang mang, dao động cực điểm, nhưng ở địa phương kẻ thù cách mạng đã không thể còn thống trị như trước được nữa, ở đó quần chúng nhân dân cũng muốn nhân cơ hội đảo chính để nổi dậy. Ở Việt Bắc, Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân và Cứu Quốc Quân đã cùng với nhân dân địa phương khởi nghĩa, xóa bỏ bộ máy chính quyền địch ở cơ sở, lập Ủy ban dân tộc giải phóng cao cấp, lập đội du kích, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho tá điền.
Tại các nơi địch giam giữ cán bộ cách mạng như : Nghĩa Lộ, Sơn La, Buôn Mê Thuột, Quảng Ngãi, tin đảo chính nhanh chóng truyền đi và bén vào ngọn lửa căm thù của các chính trị phạm. Các chi bộ nhà tù lập tức cho anh em vượt ngục để kịp thời hành động. Chi bộ nhà tù BaTơ quyết định phát động khởi nghĩa ngay từ trong các trại tù và ngày 11/3/1945 các tù nhân BaTơ đã nổi dậy phá đề lao, chiếm đồn trại, lập đội du kích BaTơ cùng quần chúng nhân dân bên ngoài khởi nghĩa giành chính quyền.
Trong khi đó ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, với khẩu hiệu “Phá kho thóc cứu nạn đói”, hàng triệu đồng bào vùng lên phá tung các kho tích trữ thóc của Pháp và của Nhật. Hàng chục vạn tấn thóc được lấy ra chia cho nông dân để cứu đói, quần chúng được cứu đói càng hăng hái đấu tranh và tích cực chuẩn bị, sẵn sàng hành động khởi nghĩa.
Để giải quyết những vấn đề quân sự của cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới, ngay 15/4/1945 Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ được triệu tập tại Hiệp Hoà (Bắc Ninh). Hội nghị xác định nhiệm vụ quân sự lúc này là quan trọng nhất, cần thiết nhất, phải đẩy mạnh việc xây dựng và thống nhất lực lượng vũ trang cách mạng, phát triển chiến tranh du kích, mở rộng các căn cứ địa.
Đầu tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, đặt đại bản doanh trại Tân Trào để chỉ đạo cách mạng cả nước. Ngày 15/5/1945, Cứu Quốc Quân hợp nhất với Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân thành Giải Phóng Quân Việt Nam. Ngay 4/6/1945, khu giải phóng Việt Bắc ra đời gần sáu tỉnh … Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang. Giữa năm 1945 ở Bắc Bộ và Trung Bộ thanh thế của Việt Minh đã lên cao, không khí nổi dậy ngày một sôi nổi, cuộc tổng khởi nghĩa đến gần.
Cũng từ giữa năm 1945, ở Nam Bộ phong trào quần chúng bắt đầu bước đến cao trào cách mạng mới. Dựa vào những hoạt động công khai của lực lượng học sinh sinh viên ở các đô thị. Xứ ủy Nam Bộ (Tiền Phong) chủ trương phải nhanh chóng tập hợp lực lượng toàn dân, khẩn trương chuẩn bị nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền theo tinh thần chỉ thị của Đảng. Đầu tháng 6/1945 tổ chức Thanh niên Tiền phong ra đời ở Sài Gòn sau đó phát triển nhanh ra toàn Nam Bộ thành một phong trào quần chúng rộng rãi. Hoạt động của Thanh niên Tiền phong ra đời ở Sài Gòn sau đó phát triển nhanh ra toàn Nam Bộ thành một phong trào quần chúng rộng rãi. Hoạt động của Thanh niên Tiền phong hướng vào 3 công tác chính: huấn luyện chính trị, huấn luyện quân sự và tổ chức các hoạt động xã hội. Nhờ vậy đến tháng 8/1945 Thanh niên Tiền phong đã có hàng triệu đoàn viên ở khắp thành thị và nông thôn. Quần chúng công nông tham gia khá đông đảo vào Thanh niên Tiền phong, tạo cho Cách mạng Nam Bộ có “Sức mạnh Phù Đổng” để kịp thời hoà vào cơn bão táp cách mạng của cả nước sắp nổi lên.
6. Cách mạng tháng Tám 1945
Từ tháng 4/1945 trở đi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc với việc quân Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. Sau khi 450.000 quân tinh nhuệ bị tiêu diệt ngay tại sào huyệt Berlin, ngày 9/5/1945, phát xít buộc phải đầu hàng quân đồng minh không điều kiện. Tháng 7/1945, với hội nghị Poxdam, số phận của phát xít Nhật ở Viễn Đông cũng được định đoạt. Ngày 6 và 8/8/1945, Mỹ cho ném 2 quả bom nguyên tử huỷ diệt 2 thành phố lớn của Nhật là Hirosima và Nagasaki. Ngày 9/8/1945, Liên Xô tuyên chiến và tiêu diệt đạo quân Quan Đông 1.000.000 tên của Nhật buộc phát xít Nhật phải tuyên bố đầu hàng quân đồng minh không điều kiện ngày 12/8/1945.
Nghe tin Nhật đầu hàng, quần chúng nhân dân và các lực lược cách mạng Đông Dương vô cùng phấn khởi, ngọn lửa quật khởi trong lòng dân tộc bỗng bùng lên khắp nơi. Những cuộc mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng do Việt Minh tổ chức có hàng vạn người tham gia. Các tầng lớp trung gian cũng ngã về phía cách mạng. Binh sĩ và cảnh sát cũng tỏ thái độ ủng hộ Việt Minh. Quân đội Nhật ở Đông Dương và chính quyền tay sai của chúng hoang mang rệu rã. Mặc dù chúng cố tình tìm cách cứu nguy bằng những hoạt động “Trao trả độc lập”, “Mời Việt Minh tham gia chính phủ”, nhưng cuối cùng vẫn hoàn toàn bất lực trước sức mạnh quật khởi của quần chúng đã nổi lên rồi.
Tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện để cả dân tộc vùng dậy không chờ đợi quân Đồng minh, chỉ cần sự thống nhất ý chí và kiên quyết hành động của toàn dân đem sức ta mà giải phóng cho ta. Cơ hội ngàn năm có một đã đến, phải nhanh chóng giành lấy chính quyền về tay nhân dân, trước khi quân đội các nước Đồng minh kéo vào Đông Dương.
Ngày 13/8/1945 Đảng Cộng Sản Đông Dương họp Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do Trường Chinh phụ trách, đêm 13/8/1945 Ủy ban này ra “Quân lệnh số 1” hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 16 và 17/8/1945 Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh chuẩn bị từ trước cũng được triệu tập ở Tân Trào. Sau khi tán thành chủ trương tổng khời nghĩa của Đảng, Quốc dân Đại hội thông qua Lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh, thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”, Quốc Dân Đại Hội cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng do cụ Hồ Chí Minh là Chủ tịch và giao cho Ủy ban này làm nhiệm vụ một chính phủ lâm thời sau khi giành được chính quyền. Quốc Dân Đại Hội còn quyết định quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, quốc thiều là bài hát Tiến Quân Ca. Toàn dân tộc đã có cùng một ý chí quyết tâm “Dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Ngày 14/8/1945, các đồn Nhật còn lại ở Khu Giải phóng Việt Bắc bị bức hạ, các tỉnh Việt Bắc giải phóng hoàn toàn. Ngày 16/8/1945 giải phóng Thái Nguyên. Ngày 19/8/1945 Việt Minh đã biến cuộc mít - tinh của bọn tay sai thân Nhật thành cuộc biểu dương lực lượng của các tầng lớp nhân dân, sau đó đoàn người biểu tình tỏa đi chiếm các công sở: Phủ Khâm sai, Sở Mật thám, Sở Bưu điện, trại Bảo an binh… Trong ngày 19/8/1945 tổng khởi nghĩa đã thành công ở Hà Nội. Các tỉnh còn lại ở Bắc Bộ cũng nhanh chóng khởi nghĩa, lật đổ hệ thống chính quyền địch, giành chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 23/8/1945 hàng chục vạn nhân dân Huế biểu tình thị uy tràn đi chiếm các công sở. Cuộc tổng khởi nghĩa thành công ở Huế đã lật đổ cả dinh lũy cuối cùng của chính phủ tay sai thân Nhật, lật nhào cả kinh đô của chế độ phong kiến triều Nguyễn, tạo điều kiện cho nhân dân các tỉnh miền Trung đứng lên giành lại quyền làm chủ vận mệnh của mình. Ngày 30/8/1945, tại cuộc mít - tinh của hàng vạn người ở Ngọ Môn, Bảo Đại đã đọc Chiếu thoái vị, nộp ấn kiếm cho phái đoàn đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Trong khi đó ở Sài Gòn ngày 25/8/1945 hơn 1.000.000 người dân thành phố và từ các nơi đổ về đã rầm rộ biểu tình, biểu dương lực lượng. Lực lượng khởi nghĩa đã tiến chiếm các cơ quan chính quyền và quân đội địch như Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, Nhà ga Sài Gòn, nhà Bưu điện, Nhà máy đèn… Cùng ngày 25/8/1945 nhiều tỉnh thành Nam Bộ cũng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 28/8/1945 tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Tiên. Ngày 2/9/1945 Côn Đảo giải phóng.
Như vậy từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, từ nông thôn lan đến các thành thị và tất cả các địa bàn còn lại, hình thái vận động của cuộc khởi nghĩa thật phong phú. Trong tổng số 65 tỉnh, thành, đặc khu khởi nghĩa, có 36 địa phương khởi nghĩa phát triển từ xã huyện lên tỉnh thành, từ nông thôn đến thành thị, có 15 địa phương khởi nghĩa phát triển ngược lại từ tỉnh lỵ xuống huyện xã, có 11 địa phương khởi nghĩa đồng thời cả thành thị lẫn nông thôn. Khởi nghĩa thành công ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có tính chất quyết định thắng lợi tổng khởi nghĩa trong cả nước. Chỉ trong vòng nửa tháng nổi dậy, nhân dân ta đã giành độc lập tự do từ đất liền đến hải đảo.
Cuối tháng 8/1945 Chính phủ lâm thời từ Việt Bắc về Hà Nội. Hồ Chí Minh khẩn trương chuẩn bị buổi lễ ra mắt Chính phủ Việt Nam mới và thảo ra bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Ngày 2/9/1945 hàng chục vạn người mít - tinh tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội) mừng Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt chính phủ, Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên Ngôn Độc Lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bản tuyên ngôn đã khẳng định những chân lý được nêu lên trong các bản Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp và Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ là “những lẽ không ai chối cãi được”. Sau khi lên án tội ác xâm lược, thống trị, bóc lột của thực dân và phát xít, đó là nguyên nhân trực tiếp buộc nhân dân phải nổi dậy khởi nghĩa lật đổ ách thống thị của thực dân, phát xít và tay sai. Tuyên ngôn đã tuyên bố với thế giới và nhân dân cả nước: Cách Mạng Tháng Tám đã thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời. Tuyên ngôn kết thúc bằng việc nêu lên ý chí đanh thép “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Tổng khởi nghĩa tháng Tám với đỉnh cao là sự ra đời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2/9/1945 là một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, một biến cố vĩ đại, bước ngoặc đánh dấu sự phát triển mới của quá trình đấu tranh của dân tộc vì độc lập tự do. Đánh đổ nền thống trị của ngoại bang gần một thế kỷ, lật nhào ngai vàng phong kiến hơn 1.000 năm, chiến công ấy của cuộc Cách Mạng Tháng Tám còn là mốc son lịch sử của dân tộc hàng ngàn năm và của Việt Nam thế kỷ XX. Từ trong khói lửa của cuộc chiến tranh thế giới và trong bùn nhơ của chế độ thuộc địa, một nước Việt Nam với Quốc kỳ mới, Quốc ca mới, Chính phủ mới, Chế độ mới xuất hiện “sáng lòa” và bước vào kỷ nguyên độc lập - tự do và chủ nghĩa xã hội.
*
* *
Gần một thế kỷ trước, dưới sự thống trị của thực dân, phát xít và phong kiến tay sai, xã hội phong kiến Việt Nam thay đổi toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa; mà dân tộc không có tên trên bản đồ thế giới, tổ quốc của những người con Lạc cháu Hồng bị biến thành nơi giày xéo, vơ vét bóc lột tàn ác của ngoại bang. Nỗi nhục mất nước cùng với nỗi nhục hèn kém bị khinh rẻ nung nấu trong lòng người dân đất Việ, sức quật khởi và đức kiên trì đấu tranh thì không hề bị mai một. Phong trào dân tộc từ đầu thế kỷ XX đã phát triển trong trào lưu “Bừng tỉnh” của phương Đông. Những ngọn cờ yêu nước cách mạng giương lên đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, trong đó ngọn cờ của Nguyễn Ái Quốc còn đáp ứng cả yêu cầu cách mạng của thời đại. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930 đã đưa lịch sử cận đại của dân tộc nửa đầu thế kỷ XX đi hẳn sang một đại lộ mới, sau đó 15 năm dựng lên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Truyền thống chống ngoại xâm bất khuất kiên cường của dân tộc và ý chí sức mạnh của dân tộc, của thời đại trong thế kỷ XX đã kết hợp lại trong tiềm tàng của cuộc cách mạng này. Những điều kiện khách quan do chiến tranh thế giới lần thứ II tạo ra thật là quan trọng cho sự chuẩn bị và bùng nổ cuộc tổng khởi nghĩa. Song điều quyết định nhất vẫn là những nhân tố chủ quan của phong trào. Cách Mạng Tháng Tám là thành của của 15 năm đấu tranh lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương, kết quả của gần một thế kỷ đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam từ Nam chí Bắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người lãnh đạo chủ chốt của Cách Mạng Tháng Tám đã đánh giá: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền trong toàn quốc”. Cách Mạng Tháng Tám đã kết thúc gần một thế kỷ lịch sử cận đại, mở ra thời kỳ lịch sử hiện đại của Việt Nam.

VIET NAM GIAI DOAN 1919 - 1930

VIỆT NAM TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ NHẤT ĐẾN NĂM 1930

I. CHƯƠNG TRÌNH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA LẦN THỨ II CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ NHỮNG CHUYỂN BIẾN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM
1. Thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ II
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất thực dân Pháp đổ xô sang các thuộc địa để khai thác vơ vét, bóc lột nhằm phục vụ cho khôi phục kinh tế chính quốc và tiếp tục phát triển tư bản. Ở Đông Dương, Toàn quyền Pháp là Albert Sarraut trước khi hết nhiệm kỳ lần thứ hai, đã hứa hẹn trên báo chí về những cải cách mới rộng rãi ở thuộc địa, theo đó cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp được triển khai trên quy mô ngày càng lớn.
Đông Dương trong chiến tranh đã tỏ ra là một thuộc địa quan trọng và béo bở nên sau chiến tranh, trong chương trình khai thác thuộc địa mới, tư bản Pháp đẩy mạnh đầu tư vào Đông Dương. Từ năm 1924 đến 1929 riêng tư bản tư nhân đã đầu tư trên 3 tỉ france (từ năm 1888 - 1918 tư bản tư nhân đầu tư vào Đông Dương 492 triệu france).
Một số ngành thu hút đầu tư lớn những năm 1924 - 1929 là: nông nghiệp (1.272,6 triệu france), mỏ (653,7 triệu france), công nghệ chế biến (606,2 triệu france), thương mại (363,6 triệu france), giao thông vận tải (104,2 triệu france)…
Nông nghiệp là ngành xếp thứ tư trong cuộc khai thác lần trước, lần này nông nghiệp đứng hàng đầu với tốc độ đầu tư tăng vọt từ 52 triệu france (năm 1924) lên 400 triệu france (năm 1927). Cây lúa, cây cao su là hai loại cây trồng chính trong nông nghiệp Việt Nam sau chiến tranh. Diện tích trồng cao su tăng nhanh từ 31.200 ha (1924) lên 99.678 ha (1930), chủ yếu là ở Nam Kỳ (94.804 ha), sản lượng thu hoạch được cũng tăng nhanh: 200 tấn nhựa năm 1913, 6.796 tấn nhựa năm 1924, 10.308 tấn nhựa năm 1929, từ 1924 - 1929 đã xuất cảng 70.417 tấn nhựa chủ yếu sang Pháp (74%). Tuy thế cao su chỉ đem lại 1/80 giá trị sản lượng nông nghiệp thuộc địa, lúa mới là nguồn lợi nhuận chính bởi vì ít vốn, thu lợi nhanh và chắc chắn.
Đồn điền lúa ở Việt Nam đến năm 1929 - 1930 là 285.000 ha nhưng diện tích trồng lúa ngoài các đồn điền còn lớn hơn gấp bội và phương thức phát canh thu tô vẫn là chủ yếu để phát triển nghề lúa. Lượng lúa gạo xuất cảng ở Việt Nam sau chiến tranh tiếp tục tăng lên, năm 1919 là 967.000 tấn, năm 1924 là 1.230.000 tấn, năm 1928 là 1.798.000 tấn…
Ngoài ra cơ cấu trồng trọt cũng đã được thay đổi từ trước, vì thế sau chiến tranh càng mở rộng, nhất là các cây trồng mang lại nguồn sản phẩm nhanh để xuất khẩu như cà phê, chè, mía, bông, dừa, hồ tiêu…
Về công nghiệp, tư bản Pháp đầu tư vốn đứng hàng thứ hai, nhưng kinh doanh trong công nghiệp vẫn làm bùng nổ những cơn sốt mỏ cùng sự đẩy mạnh những ngành công nghệ nhẹ, công nghệ chế biến… Lợi nhuận từ mỏ đã có sức hút lớn nhất, nếu năm 1920 chỉ có 673 giấy phép thăm dò mỏ thì năm 1929 có tới 17.685 giấy. Từ đó ngành khai khoáng tiếp tục vị trí hàng đầu trong công nghiệp thuộc địa, nó đem lại giá trị hàng năm ngày một lớn: 4.600.000 đồng Đông Dương (1919) lên 11.400.000 đồng (1929).
Cùng với khai khoáng phát triển ồ ạt là sự mở rộng quy mô các cơ sở công nghiệp khác và sự ra đời thêm hàng loạt công ty công nghiệp mới, nhất là từ năm 1924 trở đi. Công ty than Bắc Kỳ tăng đầu tư từ 4.000.000 france (1888) lên 38.400.000 france (1928), công ty cao su Đông Dương tăng vốn từ 1.500.000 france (1910) lên 15.000.000 france (1929), công ty bông vải sợi Bắc Kỳ vừa tăng thêm vốn đầu tư, vừa mở rộng quy mô từ Hà Nội xuống Nam Định, Hải Phòng, sang Phnôm - Pênh… Các công ty than Hạ Long, công ty than và kim khí Đông Dương, công ty thiếc Chợ Đồn và nhiều cơ sở khai thác mỏ sắt, kẽm, crôm, kền… lần lượt ra đời. Các ngành xay xát, ấn loát, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm và các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng đua nhau mở rộng hoặc mọc lên loang nhanh trên các đô thị.
Giao thông vận tải cũng kịp thời phát triển phục vụ cho công cuộc khai thác. Đến năm 1931 Việt Nam đã có 24.000km đường quốc lộ, trong đó 15.000km được rải đá nhựa, nối liền các địa phương trong cả nước. Tuyến đường xuyên Việt tiếp tục được hình thành gồm cả đường bộ và đường sắt. Xe ôtô và xe lửa dần dần trở thành phương tiện vận tải phổ biến, chỉ riêng ôtô ở toàn Đông Dương (chủ yếu là Việt Nam) năm 1921 có 250 xí nghiệp với 700 chiếc, đến năm 1932 có 3.400 xí nghiệp với 4.300 chiếc.
Thương mại ở Việt Nam sau chiến tranh trở lại tình trạng như trước chiến tranh, thực dân Pháp độc quyền hoạt động xuất nhập khẩu. Quy mô công cuộc khai thác thuộc địa ngày càng lớn, nên không những xuất nhập khẩu tiếp tục tăng nhanh, mà việc buôn bán trao đổi nội địa cũng không ngừng mở rộng. Gạo, than, cao su là 3 mặt hàng xuất khẩu chính của Việ Nam (chiếm 74,5% tổng kim ngạch xuất khẩu) chủ yếu sang Pháp. Hàng nhập khẩu cũng chủ yếu từ Pháp với các loại xa xỉ phẩm, hàng tiêu dùng, một ít máy công cụ… Thị trường trong nước đã có sự thống nhất giữa các xứ với các lực lượng thương nhân ngày càng đông đảo.
Cùng với nền kinh tế chuyển biến ngày một nhanh, nên chính trị ở thuộc địa Việt Nam cũng có những thay đổi theo chiều hướng phục vụ kịp thời cho công cuộc thực dân của người Pháp. Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ mở rộng thêm với số thành viên người Việt tăng từ 6 lên 10 người. Các phòng tư vấn ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ được đổi thành các Viện Dân Biểu (năm 1926), một số cơ quan trung gian được lập thêm như Phòng Thương mại và Canh nông, Hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương. Ở nông thôn thì Hội đồng Tộc biểu được dựng lên thế chỗ cho Hội đồng Kỳ hào. Tại Nam Kỳ còn có sự bổ sung quy chế cho người bản xứ vào làng Tây…
Có thể thấy rõ sau chiến tranh thực dân Pháp không thể cai trị thuộc địa như trước được nữa; còn người dân bản xứ cũng đã hiểu rõ hơn giá trị của dân chủ tự do, rằng muốn có cần phải đấu tranh mới giành lấy được.
Về văn hóa giáo dục, chính sách ngu dân thì không thay đổi nhưng nền giáo dục học thuật cũ thì không còn phù hợp, cần thiết lập nền giáo dục mới kiểu Pháp thay thế vào. Một hệ thống trường sở đào tạo và nghiên cứu đủ để hoàn thiện giáo dục một con người được hình thành. Tuy vậy, đối với đại đa số quần chúng nhân dân thì giáo dục ấy rất xa vời. Cả Việt Nam số người đi học từ vỡ lòng đến đại học chỉ chiến 1,8% dân số. Nam Kỳ năm 1924 chỉ có 12 % số trẻ em đến tuổi được đi học và cả nước số trẻ đến lớp đúng độ tuổi chỉ 6%. Như thế, sự phát triển giáo dục mới chỉ là thứ bánh vẽ và mang tính chất tượng trưng.
Trong lĩnh vực báo chí công khai, Pháp cho phát triển tự do những sách báo có lợi cho chủ nghĩa thực dân. Báo tiếng Pháp và tiếng Việt ở cả Nam - Trung - Bắc đều xuất hiện rầm rộ, nhất là từ năm 1923. Tính theo ấn phẩm có nộp lưu chiểu thì năm 1922 có 96 tờ báo, tạp chí, tập san (trong đó Bắc Kỳ 36 tờ tiếng Pháp, 8 tờ tiếng Việt, Nam Kỳ có 29 tờ tiếng Pháp và 10 tờ tiếng Việt, Trung Kỳ có 2 tờ tiếng Pháp và 1 tờ tiếng Việt). Đến năm 1925 có 121 tờ (trong đó Bắc Kỳ có 69 tờ, Nam Kỳ có 49 tờ), năm 1929 có 153 tờ (trong đó Bắc Kỳ 72 tờ, Nam Kỳ 71 tờ, Trung Kỳ có 10 tờ).
Bên cạnh các tờ báo, tạp chí tiếp tục tuyên truyền cho công cuộc thực dân như Nam Phong, Trung Bắc Tân Văn, Gia Định Báo… các tờ báo, tạp chí mới như Tiếng Chuông Rè, An Nam, Hữu Thanh, Tiếng Dân… lại tuyên truyền cho tư tưởng tiến bộ và cách mạng. Các Thư xã như Nam Đồng Thư Xã, Giác Quần Thư Xã… là nơi tập hợp nhiều tri thức tiến bộ, xuất bản nhiều tác phẩm có tếng vang lớn. Báo chí cách mạng từ giữa năm 1925 trở đi bắt đầu xuất hiện, chủ yếu phát hành bí mật. Tờ “Thanh Niên”, tác phẩm “Đường Cách Mệnh” và nhiều tờ báo, tạp chí các mạng khác những năm 1925 - 1930 đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
2. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam
Trước tác động công khai của công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, xã hội Việt Nam tiếp tục bị phân hóa sâu sắc, trong đó có các giai cấp mới đã kết thúc quá trình ra đời để bước vào đấu trường cách mạng.
+ Giai cấp công nhân sau hơn 30 năm hình thành và phát triển đến năm 1929 đã có lực lượng 220.000 công nhân chuyên nghiệp. Tuy số lượng chỉ chiếm 1,3% dân số nhưng đây cũng là tình trạng chung của các thuộc địa. Mặt khác, giai cấp công nhân quốc tế, lại mang những đặc điểm riêng của một dân tộc đang đấu tranh chống đế quốc phong kiến.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, phong trào công nhân quốc tế chịu ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, đã phát triển mạnh mẽ và tác động đến các thuộc địa giai cấp công nhân Việt Nam đã hòa vào không khí đó để đấu tranh và trưởng thành. Đặc biệt, những năm 20 của thế kỷ này sự truyền bá chủ chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã giúp cho giai cấp công nhân rút ngắn thời kỳ phát triển tự phát của mình để chuyển sang thời kỳ tự giác. Đến đầu năm 1930 giai cấp công nhân đã thành lập được Bộ Tham mưu giai cấp của mình là Đảng Cộng Sản Việt Nam.
+ Giai cấp tư sản Việt Nam sau chiến tranh không còn điều kiện thuận lợi như trong thời kỳ chiến tranh, nhưng cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai vẫn lôi cuốn họ tiếp tục phát triển trưởng thành. Lực lượng ngày một đông ở cả 3 kỳ, tư sản Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành Công - Nông - Thương, nhưng vốn liếng của họ chỉ bằng 5% so với vốn tư bản nước ngoài. Trong quá trình làm ăn phát triển, tư sản Việt Nam lại không thể đoạn tuyệt mà còn phải liên hệ thường xuyên với cả đế quốc lẫn phong kiến và tư bản ngoại quốc khác. Tư sản Việt Nam sớm có ý thức đấu tranh giai cấp nhưng không vượt qua được hạn chế yếu đuối của mình để kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc.
+ Tiểu tư sản thành thị tăng trưởng không ngừng từ đầu thế kỷ XX đến sau đại chiến. Năm 1929 các thành thị có khoảng 500.000 dân và theo đà phát triển của các đô thị, các bộ phận tiểu tư sản ở đây sẽ tiếp tục chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu dân cư. Mặt khác sau chiến tranh, các giai cấp tư sản và vô sản đều trường thành nhanh, sự du nhập tư tưởng mới cùng với sự chuyển biến nền kinh tế - xã hội trong nước diễn ra dồn dập, cuộc đấu tranh xã hội trong hoàn cảnh mới này cũng ngày một sổi nổi… Trong điều kiện ấy, tiểu tư sản đã vươn lên về chính trị, trở thành lực lượng đấu tranh yêu nước khá hùng hậu ở các đô thị và có những bộ phận đã dũng cảm giương lên ngọn cờ dân tộc tư sản.
+ Địa chủ phong kiến và nông dân, thợ thủ công ở nông thôn là hai giai cấp có số lượng lớn đông đảo nhất trong xã hội và sự phân hóa của các giai cấp này sau chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra theo chiều hướng đã có ở đầu thế kỷ XX. Địa chủ phong kiến thống trị thì ngày càng lún sâu vào con đường làm tay sai cho ngoại bang khai thác bóc lột nhân dân; còn nông dân bị trị thì không ngừng bị bần cùng hóa và không lối thoát, đã nổi dậy đấu tranh và sẵn sàng đi theo các giai cấp tiên tiến làm cuộc cách mạng xã hội.
Sự phân hóa thuần thục của xã hội Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa làm cho các giai tầng trong xã hội bộc lộ hết khả năng và bản chất của mình. Mâu thuẫn xã hội giữa toàn thể dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa đế quốc, giữa các giai cấp bị trị mà đại biểu đông nhất là nông dân và giai cấp thống trị mà đại biểu đông nhất là địa chủ phong kiến, ngày càng gay gắt, không thể điều hòa. Phong trào đấu tranh cách mạng bùng nổ mạnh mẽ sau chiến tranh, trước hết bắt nguồn từ những mâu thuẫn căn bản đó.
Công cuộc đấu tranh cách mạng giai đoạn này sẽ rất gay go, quyết liệt, phức tạp khi các giai cấp cùng xung trận sau quá trình phát triển trưởng thành. Cách mạng Việt Nam đi đến đâu là tùy thuộc trước hết ở việc giai cấp nào giành được bá quyền lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là nội dung chủ yếu của thời kỳ có tính chất bản lề, mười năm sau chiến tranh (1919 - 1929).
II. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI
1. Phong trào yêu nước
Sau chiến tranh thế giới lần I, dưới ảnh hưởng hoàn cảnh lịch sử mới (cả trong nước và thế giới), phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam có bước phát triển mới, với sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều hình thức đấu tranh phong phú, nhất là phong trào ở đô thị.
- Giai cấp tư sản dân tộc nhân đà làm ăn thuận lợi từ trong chiến tranh muốn vươn lên giành lấy vị trí khá hơn trong nền kinh tế Việt Nam sau chiến tranh.
Năm 1919, tư sản gây phong trào “chấn hưng hàng nội hóa, bài trừ hàng ngoại hóa”. Thực chất đây là cuộc xung đột quyền lợi của tư sản Việt Nam với các thế lực tư bản nước ngoài. Năm 1923, tư sản dân tộc lại tổ chức đấu tranh chống độc quyền xuất nhập khẩu cảng Sài Gòn và độc quyền xuất khẩu lúa gạo Nam kỳ của tư bản Pháp.
Về chính trị, một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam kỳ (đại biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long…) đứng ra tổ chức Đảng Lập hiến để tập hợp lực lượng, rồi đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, dùng áp lực quần chúng để đòi Pháp nhiều quyền lợi.
Nhưng khi được thực dân Pháp nhượng bộ cho ít quyền lợi như cho tham gia Hội đồng Quản hạt Nam kỳ thì họ sẵn sàng thỏa hiệp với Pháp. Đến đây thì họ bị phong trào quần chúng vượt qua.
Từ năm 1925, khi phong trào quần chúng lên cao, những người theo Đảng Lập hiến chuyển từ chủ nghĩa quốc gia dân tộc cải lương sang lập trường chính trị phản động, gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa thực dân. Đến đây phong trào tư sản xẹp xuống.
- Tiểu tư sản trí thức đã thể hiện lòng yêu nước của mình bằng nhiều cách. Ngoài việc tham gia vào các phong trào yêu nước, dân chủ công khai lúc bấy giờ, họ đã tập hợp nhau lại trong những tổ chức yêu nước mới, tiến hành đấu tranh có tổ chức.
Nhiều tổ chức chính trị yêu nước của trí thức, nhà văn, nhà giáo, nhà báo, thanh niên, sinh viên, học sinh… đã ra đời, như Tâm Tâm Xã (1923), Việt Nam Nghĩa đoàn (1925), Hội Phục Việt (1925), Đảng Thanh Niên (1926)…
Các tổ chức đã cho ra đời những tờ báo tiến bộ, như Chuông Rè, An Nam, Nước Nam trẻ, Người nhà quê… ở Sài Gòn hoặc Hữn Thanh ở Hà Nội… Họ còn lập ra những nhà xuất bản tiến bộ, nhưng Cường học Thư xã (Sài Gòn), Nam Đồng thư xã (Hà Nội)… Họ dùng sách báo làm phương tiện truyền bá tư tưởng yêu nước, tiến bộ, nêu quan điểm, lập trường chính trị của mình.
Các tổ chức cũng đẩy mạnh các hoạt động yêu nước, như tổ chức những cuộc biểu tình, mít tinh…, những cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp và cả đấu tranh bất hợp pháp. Hoạt động có tiếng vang mạnh mẽ nhất lúc bấy giờ là vụ Phạm Hồng Thái mưu sát Toàn quyền Méclanh, vụ đòi thả Phan Bội Châu và vụ để tang Phan Châu Trinh.
Tháng 6-1924, Toàn quyền Đông Dương Méclanh sang Nhật và Trung Quốc để câu kết với chính quyền phản động hai nước này phá hoại cách mạng Việt Nam. Tâm Tâm Xã giao cho Phạm Hồng Thái trừ khử Méclanh trong dịp này. Nhân lúc Méclanh nghỉ tại Sa Diện (Quảng Châu - Trung Quốc), Phạm Hồng Thái cải trang thành phóng viên nhiếp ảnh vào khách sạn ném tạc đạn vào bàn tiệc chiêu đãi Méclanh. Kết quả 4 tên thực dân đi cùng chết tại chỗ, 2 tên bị thương nhưng rất tiếc Méclanh thoát chết. Bị vây đuổi ráo riết, Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông Châu Giang tự vẫn.
Cuộc mưu sát không thành, nhưng hành động dũng cảm của Phạm Hồng Thái đã gây tiếng vang lớn ở trong và ngoài nước.
Sau chiến tranh thế giới lần I, Phan Bội Châu tiếp tục hoạt động ở Trung Quốc. Giữa năm 1925, ông bị Pháp bắt ở Thượng Hải và bí mật đưa về Việt Nam giam ở Hỏa Lò (Hà Nội). Mặc dù Pháp bưng bít nhưng một phong trào quần chúng đòi thả Phan Bội Châu bùng lên sôi nổi trong cả nước, lan tận sang Pháp. Cuối cùng, thực dân Pháp phải tha bổng Phan Bội Châu, nhưng chúng giam lỏng ông ở Huế cho đến khi qua đời.
Năm 1925, sau một thời gian bị đưa sang Paris, thực dân Pháp đưa Phan Châu Trinh về lại Việt Nam với mục đích lợi dụng tư tưởng cải lương "Pháp - Việt đề huề" của ông để đánh lạc hướng phong trào cách mạng đang lên. Nhưng chỉ sau một năm, ngày 24-3-1926, Phan Châu Trinh qua đời sau một trận ốm nặng. Cái chết đột ngột của Phan Châu Trinh đã khơi dậy mối cảm tình, thương tiếc sâu sắc của nhân dân trong cả nước. Tại Sài Gòn, đám tang đưa Phan Châu Trinh về nơi an nghỉ cuối cùng đã lôi cuốn đến 14 vạn người đủ mọi tầng lớp xã hội, bất chấp sự ngăn cấm của thực dân Pháp.
Trong những năm 1925 - 1926 còn có phong trào của các lực lượng dân tộc dân chủ đòi thực dân Pháp thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh, đón rước Bùi Quang Chiêu…
2. Phong trào công nhân
Sau chiến tranh Thế giới I, phong trào công nhân cũng có bước phát triển mới cả về số lượng và chất lượng. Các hình thức đấu tranh như bỏ việc, phá giao kèo, đánh bọn cai ký, biểu tình tập thể đưa yêu sách, đặc biệt nhất là bãi công - một hình thức đấu tranh đặc trưng của công nhân chống lại chủ tư bản - được áp dụng phổ biến trong giai đoạn này.
Trước hết có thể kể đến là các cuộc đấu tranh của công nhân và thủy thủ Pháp tại Việt Nam (1919), tiếp đó là của công nhân va thủy thủ Trung Quốc tại các cảng lớn như Hồng Kông, Thượng Hải (1921)… đã có ảnh hưởng lớn, góp phần cổ vũ, động viên công nhân Việt Nam hăng hái đấu tranh.
Năm 1920, công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn bí mật lập ra Công Hội Đỏ do Tôn Đức Thắng đứng đầu.
Năm 1922, công nhân viên chức các cơ sở công thương của tư nhân ở Bắc kỳ bãi công đòi nghỉ ngày Chủ nhật có lương. Tháng 11-1922, 600 thợ làm tại các lò nhuộm ở Chợ Lớn đấu tranh phản đối chủ cắt bớt lương. Năm 1924 nổ ra nhiều cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay gạo ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương…
Đáng chú ý nhất cuộc bãi công của hơn 1.000 công nhân xưởng máy Ba Son (Sài Gòn) vào tháng 8-1925.
Tháng 8/1925, thực dân Pháp đưa đến xưởng Ba Son chiếc tàu chiến Jules Michelet để sửa chữa và sau đó sẽ chở binh lính đi đàn áp cách mạng Trung Quốc. Trước tình hình đó, Tôn Đức Thắng cùng ban chấp hành Công Hội lãnh đạo công nhân Ba Son đấu tranh bãi công và sau đó tìm cách lãn công nhằm kéo dài thời gian sửa tàu Michelet để làm chậm bước đi của quân Pháp, góp phần giúp đỡ cho phong trào cách mạng Trung Quốc.
Cuộc bãi công thắng lợi của công nhân Ba Son đã phản ánh trình độ tổ chức, ý thức giác ngộ cách mạng và tinh thần quốc tế vô sản của đội ngũ công nhân Sài Gòn nói riêng và cho cách mạng Việt Nam nói chung. Cuộc bãi công Ba Son còn đánh dấu bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam, mở đầu thời kỳ giai cấp công nhân Việt Nam đi vào đấu tranh tự giác.
III. QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀO VIỆT NAM
1. Hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc
Nằm trong vòng thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, Việt Nam sau chiến tranh cũng sớm thành một bộ phận của cách mạng thế giới. Chịu ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, cơ bão táp cách mạng thế giới những năm 1918 - 1923 tràn đến nhiều quốc gia châu lục, cả các nước tư bản lẫn các nước thuộc địa, phụ thuộc.
Mặc dù thực dân Pháp ra sức phong tỏa, công kích, bao vậy, ngăn chặn bằng nhiều cách để không cho Cách mạng Việt Nam tiếp xúc và đi theo xu hướng cách mạng mới của thời đại, nhưng ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười và tư tưởng Vô sản vẫn đến với những người yêu nước Việt Nam đang bôn ba tìm đường cứu nước. Từ nước ngoài, ngọn cờ cách mạng dân tộc được phất lên không phải ở Nhật hay Trung Quốc mà ngay ở nước Pháp; không phải từ tay các sỹ phu cấp tiến hay giai cấp tư sản mà là từ bộ phận những người lao động yêu nước, trong đó tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc (1890 - 1969) sinh ra trong một gia đình nhà Nho có nguồn gốc nông dân ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ của Nguyễn Ái Quốc từng đậu Phó bảng (năm 1901) và ra làm quan trong Bộ Lễ triều đình nhà Nguyễn rồi làm Tri huyện, trước khi ông trở lại làm dân thường (1910). Quá trình đó Nguyễn Ái Quốc đã được học chữ Hán rồi vào trường Quốc học Huế, vừa dạy học vừa tham gia hoạt động yêu nước. Ngày 5/6/1911 người thanh niên 21 tuổi Nguyễn Ái Quốc xuống tàu La Touche Treville đi sang Pháp mở đầu cho quá trình 10 năm bôn ba tìm đường cứu nước theo con đường riêng của mình.
Bằng quá trình lao động, học hỏi, tìm kiếm, khảo sát; bằng thực tế đấu tranh và hoạt động trong phong trào quần chúng ở Paris, năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm gặp chủ nghĩa Mác - Lênin. Tại Đại hội lần thứ 20 của Đảng Xã Hội Pháp ở thành phố Tua (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã cùng các đồng chí chân chính trong Đảng này bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba - Quốc Tế Cộng Sản. Người tham gia sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp và trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Kết quả này kết thúc mười năm tìm đường cứu nước và chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó bắt đầu quá trình truyền bá chủ nghĩa yêu nước bậc cao ấy - chủ nghĩa yêu nước cách mạng có nội dung mới của chủ nghĩa Mác - Lênin - vào Việt Nam.
2. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
Không giống như sự du nhập tư tưởng dân chủ tư sản trước đó và cùng lúc đó, sự du nhập tư tưởng dân chủ vô sản vào Việt Nam lúc kẻ thù của cách mạng đã rất có ý thức đề cao tư tưởng chống cộng trên phạm vi toàn thế giới, còn ở trong nước cái gọi là “tự do dân chủ” đang gây nên những ảo vọng trong khá đông dân chúng, nhất là tầng lớp trí thức. Trong hoàn cảnh ấy, những người yêu nước cũng có những suy nghĩ và hành động thực tế hơn, học đến với tư tưởng mới không phải bằng hình mẫu quá lớn như nước Nhật hùng cường hay Cách mạng Tân Hợi (Trung Quốc), mà bằng thực tế đấu tranh và kiểm nghiệm, trong một quá trình dài khoảng mười năm, dưới tác động của những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Hoạt động ở Pháp những năm 1921 - 1923, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần quan trọng vào việc tập hợp lực lượng những người yêu nước Việt Nam và các thuộc địa nói chung, khơi dậy trong họ lòng yêu nước, chí căm thù, giúp họ phân biệt bạn và thù. Đó cũng là lúc ở trong nước phong trào văn hóa báo chí bùng nổ, các tầng lớp giai cấp đấu tranh mạnh mẽ trên cả lĩnh vực kinh tế chính trị và đạt đến đỉnh cao nhất với sự ra đời và hoạt động của Đảng Lập Hiến.
Một mặt là, sách báo, tài liệu của Nguyễn Ái Quốc bí mật chuyển về trong nước, một mặt là ảnh hưởng của phong trào công nhân quốc tế đến với công nhân, thủy thủ, lính thợ và lính chiến Việt Nam; sự yếu kém của phong trào tư sản dân tộc, cùng sự tự lột mặt nạ của chính sách dân chủ lừa bịp của thực dân Pháp. Tất cả những yếu tố ấy dọn đường cho sự du nhập con đường Cách mạng vô sản vào Việt Nam, bất chấp những bức rào sắt chống cộng của thực dân - đế quốc và phản động bủa vây quanh các thuộc địa.
Hoạt động ở Liên Xô những năm 1923 - 1924, Nguyễn Ái Quốc đã có đóng góp quan trọng nhất vào việc định hình đường lối cách mạng ở Việt Nam. Sự ngưỡng mộ Lênin và đất nước Cách mạng tháng Mười đã thôi thúc Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu nhiều vấn đề căn bản của chủ nghĩa Lênin về vấn đề giải phóng dân tộc. Thực tế công cuộc kiến thiết ở Liên bang Xô Viết những năm 1922 - 1924 đang bắt đầu giành những thắng lợi trong chính sách kinh tế mới, để chuẩn bị bước vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Lượng thông tin về các thuộc địa sau chiến tranh thật phong phú qua báo chí của nhiều tổ chức đoàn thể quốc tế và Xô Viết xuất bản ở Liên Xô.
Trên những cơ sở ấy, Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên đã trình bày trong các diễn đàn của Quốc Tế Cộng Sản những quan điểm của mình về cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương và các thuộc địa nói chung. Nguyễn Ái Quốc trở thành lãnh tụ mới của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ xuất sắc của phong trào giải phóng dân tộc.
Với cương vị Ủy viên phương Đông, trực tiếp phụ trách cục phương Nam của Quốc Tế Cộng Sản, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu có kế hoạch “trở về giúp đồng bào chúng ta” như dự định từ năm 1911 lúc ra đi. Nguyễn Ái Quốc còn tiếp tục tìm hiểu kinh nghiệm của Liên Xô về xây dựng Đảng Cộng Sản và chính quyền Xô Viết, sau đó Nguyễn Ái Quốc rời Matxcơva đi về phương Đông, hướng những hoạt động của mình về gần Tổ quốc.
Tháng 12/1924 Nguyễn Ái Quốc đã đến Trung Quốc trên con đường “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh học, tổ chức họ, đoàn kết học, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Song đó là công việc không chỉ của một người, mà là của cả một thế hệ và phải có tổ chức.
Cuối năm 1924 trong cuộc gặp gỡ những người yêu nước Việt Nam ở Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chọn một số thanh niên nhiệt tình nhất trong tổ chức Tâm Tâm Xã (như Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Vương Thúc Oánh…) để huấn luyện làm nòng cốt. Đến tháng 6/1925 Nguyễn Ái Quốc lập ra một tổ chức mới là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, gọi tắt là Đảng Thanh Niên.
Hoạt động chủ yếu của Đảng Thanh Niên là mở lớp đào tạo cán bộ, tuyên truyền cách mạng và phát triển tổ chức về trong nước.
Từ năm 1925 đến năm 1927 Đảng Thanh Niên đã đào tạo được khoảng 200 cán bộ đưa về nước hoạt động hoặc gửi đi học ở Luên Xô, Trung Quốc. Đó là những hạt giống đỏ đầu tiên của Cách mạng Việt Nam.
Việc tuyên truyền cách mạng là nhiệm vụ trung tâm của Đảng Thanh Niên. Cơ quan tuyên truyền là tờ báo Thanh Niên, từ tháng 6/1925 đến tháng 4/1927 báo ra được 88 số, sau đó báo ra tiếp tục được 112 số nữa mới chấm dứt, khi đó đã có hàng chục tờ báo cách mạng khác ra đời kế tục sự nghiệp của báo Thanh Niên. Báo Thanh Niên đã góp phần to lớn vào việc truyền bá một tư tưởng mới.
Năm 1927 Hội Liên Hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông cho xuất bản tác phẩm “Đường Cách Mệnh” của Nguyễn Ái Quốc để trang bị cho những người yêu nước những kiến thức cơ bản về Cách mạng vô sản ở Việt Nam, về phương pháp tuyên truyền cách mạng.
Từ năm 1926 những chi hội của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập ở trong nước và trong Việt kiều ở hải ngoại. Đến năm 1928 - 1929, Đảng Thanh Niên đã có cơ sở ở khắp 3 kỳ với số hội viên lên tới 1.750 người cùng hàng vạn quần chúng cảm tình.
Để làm tăng thêm các thành phần công nhân trong các hội viên và để rèn luyện các hội viên, cuối năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phát động phong trào “Vô sản hóa”. Mở đầu là Bắc Kỳ sau đó lan ra các nơi khác, phong trào vô sản hóa đã kết hợp được quá trình trí thức hóa người vô sản với quá trình vô sản hóa người trí thức cách mạng.
Từ đó phong trào công nhân ở Việt Nam được phát triển nhanh trên con đường tự giác, không những phong trào công nhân đã hoàn toàn trở thành phong trào độc lập và có sức quy tụ phong trào dân tộc, mà từ phong trào ấy, vấn đề cần phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng Sản đã dần dần trở nên bức thiết.
Trước yêu cầu mới của phong trào trong nước, do kết quả của quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên từ năm 1929 đã đi vào phân biệt và kết thúc nhiệm vụ lịch sử của mình. Sau đại hội của các kỳ bộ Đảng Thanh Niên ở cả 3 kỳ Bắc - Trung - Nam (đầu năm 1929), xu thế các mạng vô sản trong cả nước tiếp tục phát triển mạnh; chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu chiến ưu thế trong đời sống tư tưởng của dân tộc, mặc dù tư tưởng dân chủ tư sản lúc ấy vẫn không ngừng được tuyên truyền cổ vũ.
Tháng 5/1929 Đại hội lần thứ nhất của Đảng Thanh Niên được triệu tập tại Hương Cảng, thuộc tô giới của Anh ở Trung Quốc, nhằm củng cố và tăng cường Đảng Thanh Niên, đưa đảng đến chỗ đáp ứng được yêu cầu của Cách mạng Việt Nam đang đặt ra. Song đây cũng là đại hội cuối cùng của tổ chức quá độ này, bởi vì trước, trong và sau đại hội, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã không thể có hoạt động tồn tại nào khác ngoài hoạt động lột xác thành những tổ chức cộng sản trên phạm vi toàn thể bản hội.
Chỉ mười năm sau chiến tranh và trong điều kiện chủ nghĩa chống cộng đã bành trướng đến các thuộc địa, hệ tư tưởng Mác - Lênin vẫn đến được với nhân dân Việt Nam bằng cách thức mới của Nguyễn Ái Quốc. Tư tưởng yêu nước và cách mạng mới ấy đã tìm thấy ở Việt Nam một lực lượng xã hội đông đảo là công nhân, nhân dân và phần lớn tiểu tư sản, những người lao động đang đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Ngược lại quần chúng lao khổ và yêu nước ở thuộc địa này cũng tìm thấy ở chủ nghĩa Lênin con đường cứu nước đúng đắn nhất, con đường Cách mạng vô sản.
IV. CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA TƯ SẢN VÀ VÔ SẢN - ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1. Tân Việt Cách Mạng Đảng và sự thắng thế của con đường Cách mạng vô sản
Các giai cấp mới ở Việt Nam trưởng thành nhanh chóng sau chiến tranh đã tiếp thu những tư tưởng mới và hình thành những con đường cách mạng mới cho dân tộc đang đấu tranh đòi tự do độc lập. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm cho đại đa số các tầng lớp giai cấp dần dần hiểu rằng “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường Cách mạng vô sản”. Song lúc ấy con đường Cách mạng tư sản cũng vẫn còn mới mẻ và khá hấp dẫn đối với một số bộ phận yêu nước khác, nhất là trong tầng lớp tiểu tư sản.
Từ năm 1925, cùng lúc với sự thay đổi toàn quyền mới ở Đông Dương và Varennes, nhiều bộ phận tiểu tư sản yêu nước đã cố gắng dấy lên phong trào ái quốc dân chủ công khai, trong khuôn khổ những cải cách tự do lừa bịp của thực dân ở Đông Dương. Mở đầu là phong trào văn hóa báo chí, sau là các phong trào rầm rộ ở các thành thị trong toàn quốc đòi ân xá Phan Bội Châu, truy điệu Phan Chu Trinh, đặc biệt ở Sài Gòn còn có cuộc biểu dương lực lượng nhân dịp đón Bùi Quang Chiêu ở Pháp về và việc Nguyễn An Ninh bị bắt.
Các phong trào này lôi cuốn nhiều thành phần xã hội tham gia, kể cả quần chúng công - nông, trong đó lực lượng xung kích là bộ phận trí thức yêu nước. Còn về phía những người yêu nước, họ đã trưởng thành nhanh chóng trong cuộc đấu tranh công khai đòi dân chủ và hình thành nên những tổ chức chính trị của mình, trong đó đáng chú ý là hai nhóm hạt nhân phôi thai của hai đảng tiểu tư sản: Tân Việt Cách Mạng Đảng và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đó là hai đảng tiêu biểu cho quá trình đấu tranh giữa tư sản và vô sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Tân Việt Cách Mạng Đảng phôi thai từ nhóm Việt Nam Nghĩa Đoàn của sinh viên Cao đẳng Sư phạm Hà Nội lập ra vào năm 1925. Sau khi sát nhập với các nhóm sỹ phu Trung Kỳ vào mùa hè năm 1925, Việt Nam Nghĩa Đoàn đổi tên thành Phục Việt do Tôn Quang Phiệt phụ trách. Quá trình tồn tại và phát triển của Phục Việt từ năm 1925 - 1928 cũng là quá trình tổ chức này chịu ảnh hưởng ngày một sâu sắc của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đang truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin.
Mặc dù nó có ý định xây dựng thành một đảng tiểu tư sản để giương lên ngọn cờ cách mạng quốc gia tư sản ở Việt Nam, song về cơ bản Phục Việt đến Hưng Nam, Việt Nam Cách Mạng Đảng, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đến Tân Việt Cách Mạng Đảng, lịch sử đảng này là quá trình từng bước thắng thế của con đường yêu nước mới theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bằng việc nhờ Đảng Thanh Niên đào tạo cán bộ, vạch ra chương trình hợp nhất với Đảng Thanh Niên, mô phỏng hoàn toàn theo các tổ chức và hoạt động của Đảng Thanh Niên, thực chất Đảng Tân Việt cũng đã trở thành một tổ chức quá độ như Đảng Thanh Niên. Đảng Tân Việt từ không tự giác đến tự giác góp phần vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và trở thành một trong những tổ chức tiền thân của Đồng Cộng Sản.
Trong quá trình ấy, Đảng Tân Việt đã loại bỏ ra khỏi đội ngũ của mình những bộ phận cánh hữu, dù đó là bộ phận cao cấp trong cơ quan Tổng bộ. Các đảng viên Tân Việt đã gội rửa dần tính chất tiêu cực trong suy nghĩ và hành động của một đảng viên tiểu tư sản của mình. Như thế Đảng Tân Việt cũng đồng thời tách ra khỏi xu hướng tư sản và tiến gần với xu hướng vô sản. Cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng Tân Việt là cuộc đấu tranh giữa hai xu hướng ấy, cuối cùng xu hướng cách mạng quốc gia tư sản đã hoàn toàn thất bại bằng sự tan vở của tổ chức này vào đầu năm 1930, thay thế vào đó là sự ra đời của một tổ chức cộng sản.
Sự chuyển hóa của Đảng Tân Việt thành tổ chức cộng sản khẳng định một thực tế là, chủ nghĩa Mác - Lênin đã bắt đầu chiếm ưu thế trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX. Điều này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử, ai thực sự thiết tha với dân tộc thì cần phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Hiện tượng một đảng tiểu tư sản chuyển đại bộ phận thành một đảng cộng sản là điều rất đặc biệt, độc đáo ở xứ thuộc địa, song cũng là tất yếu. Trong quá trình đó, uy tín và công lao của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, định hình con đường Cách mạng vô sản là vô cùng quan trọng.
2. Việt Nam Quốc Dân Đảng và sự thất bại của con đường cách mạng tư sản
Việt Nam Quốc Dân Đảng là tổ chức cách mạng tiêu biểu cho xu hướng quốc gia tư sản. Giống như các đảng phái yêu nước ra đời trong giai đoạn này, Việt Nam Quốc Dân Đảng phôi thai trong phong trào ái quốc dân chủ công khai, hạt nhân là Nam Đồng Thư Xã - một nhà xuất bản tiến bộ xuất bản nhiều sách báo ái quốc và là nơi tập hơp nhiều trí thức, công chức, nhân sỹ yêu nước như Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Phạm Tuấn Tài, Trúc Khê, Hồ Văn Mịch… Sau khi quyết định phải quyết tâm đi vào con đường cách mạng, ngày 25/12/1927 những yếu nhân của Nam Đồng Thư Xã, bí mật thành lập một tổ chức là Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Là một đảng tiểu tư sản, Việt Nam Quốc Dân Đảng mau chóng phát triển trong các bộ phận giáo chức, học sinh sinh viên, những người làm nghề tự do, một bộ phận thân hòa thân sỹ ở nông thôn, một số sĩ quan binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp và cả lực lượng khởi nghĩa của Xứ Nhu. Đến đầu năm 1929 ở Bắc Kỳ Việt Nam Quốc Dân Đảng chỉ có kỳ bộ Bắc Kỳ kiêm cơ quan Tổng bộ, cơ quan Tỉnh bộ không tổ chức được, ở Trung Kỳ, Nam Kỳ chỉ có một số chi bộ được thành lập. Đảng cũng có chủ trương thành lập một tổ chức một số hội quần chúng để tranh thủ lực lượng, nhưng đối tượng chủ yếu là binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp.
Việt Nam Quốc Dân Đảng thể hiện rõ tính tiểu tư sản của mình qua việc chọn lựa đường lối chính trị. Điều lệ đảng luôn luôn thay đổi từ cách mạng vô sản sang cách mạng tư sản, cuối cùng tư tưởng của hai cuộc cách mạng tư sản Đông - Tây đã được kết hợp lại thành ngọn cờ cách mạng tư sản Việt Nam. Lần đầu tiên ngọn cờ cách mạng ấy được giương lên ở thuộc địa này bởi những người tiểu tư sản yêu nước. Về phía mình, những người yêu nước trong đảng tiểu tư sản này đã có những nỗ lực lớn nhất để đảm đương sứ mệnh lịch sử của giai cấp tư sản, họ còn trực tiếp tổ chức lãnh đạo thực hiện cuộc cách mạng cho đến lúc nó bộc lộ hết thực lực và khả năng của nó.
Từ đầu năm 1929 Việt Nam Quốc Dân Đảng buộc phải bước vào thời kỳ chuẩn bị trực tiếp cho một cuộc tổng bạo động, mặc dù chưa qua được thời kỳ phôi thai và thời kỳ dự bị, sau hơn một năm để ra chương trình hành động ba bước (phôi thai, dự bị, tổng khởi nghĩa). Cuộc truy nã dồn dập của Pháp sau vụ ám sát tên trùm mộ phu Bazin, cùng những hoạt động tống tiền của Đảng càng làm thực dân Pháp điên cuồng đánh phá Đảng.
Các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng chọn lối thoát cho đảng là khẩn trương tiến hành chuẩn bị cuộc bạo động. Tại hội nghị Lạc Đạo ngày 17/9/1929, Đảng đã thông qua bản “Tổng công kích kế hoạch” và sau đó tại hội nghị Võng La cuối tháng 9/1929, Đảng còn xúc tiến nhanh đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Quyết tâm của đảng như lãnh tụ Nguyễn Thái Học có nói: “Không thành công cũng thành nhân”. Như vậy từ bị động đến phiêu lưu, cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng ngay từ đầu đã thiếu nhiều nhân tố căn bản bảo đảm thắng lợi.
Do nội bộ đảng không được thống nhất và do tổ chức lỏng lẻo, Việt Nam Quốc Dân Đảng dễ bị Pháp đưa người của chúng vào phá hoại Đảng. Những mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa các phe phái trong đảng cũng góp phần làm cho Đảng ngày một suy yếu đi. Tất cả những điều đó làm cho Việt Nam Quốc Dân Đảng đứng trước nguy cơ tan vỡ.
Tuy thế đại đa số đảng viên và cảm tình của Đảng rất nóng lòng hành động. Mặc dù kế hoạch sớ bị bại lộ, thực dân Pháp đã đề phòng, nhật kỳ khởi nghĩa thay đổi liên tục, nhưng cuối cùng cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra ở một số nơi. Tại Yên Bái, nơi cuộc khởi nghĩa nổ ra mạnh nhất, đêm mồng 9 rạng ngày 10/2/1930, binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp nổi dậy chiếm đồn và làm chủ một số khu vực trong thị xã Yên Bái. Liền đó những người lãnh đạo khởi nghĩa hô hào quần chúng nổi dậy.
Tại Phú Thọ nghĩa quân đánh chiếm đồn Hưng Hóa và phủ Lâm Thao. Tại Hải Dương quân khởi nghĩa đánh chiếm huyện lỵ Vĩnh Bảo. Tại Hà Nội nhiều vụ ném bom vào sở Mật thám, sở Sen đầm, bót Cảnh sát… Song từ những nơi còn chiếm đóng, địch đã phản công. Chúng tức khắc huy động lực lượng quân sự lớn và nhanh chóng đàn áp, bắt bớ, dập tắt ngọn lửa khởi nghĩa vừa nhóm lên. Hàng loạt lãnh tụ và quân khởi nghĩa bị bắt, giết, giam cầm. Nhiều đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng bị đưa lên đoạn đầu đài, nhưng họ vẫn giữ vững khí tiết của người yêu nước.
Khởi nghĩa Yên Bái là nỗ lực cao nhất của Việt Nam Quốc Dân Đảng và cũng là bước phấn đấu tích cực nhất của giai cấp tiểu tư sản Việt Nam trên con đường dân tộc cách mạng theo đường lối quốc gia tư sản.
Thất bại của khởi nghĩa Yên Bái kéo theo sự tan rã và thất bại hoàn toàn của chính đảng tổ chức ra nó, báo hiệu sự thất bại hoàn toàn của ngọn cờ cách mạng tư sản kiểu cũ ở Việt Nam. Ngọn cờ dân tộc phản đế phản phong từ đây chuyển hẳn về tay giai cấp tư sản và quần chúng công nông, lúc mà Bộ tham mưu giai cấp của họ - Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chín muồi cho sự ra đời.
3. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin do Nguyễn Ái Quốc và Việt Nam Thanh niên Cách Mạng Đồng Chí Hội truyền bá, bằng thực tế của phong trào vô sản hóa, những người tiên tiến nhất của Đảng Thanh Niên đã thấy rõ nhu cầu bức thiết phải cải tổ và lập ra một chính đảng vô sản ở Việt Nam. Song những nhận thức ấy diễn ra không đều trong đội ngũ của họ, nên việc kết thúc vai trò lịch sử của Đảng Thanh Niên phải kéo dài, đồng thời với quá trình hình thành những tổ chức cộng sản trên phạm vi toàn quốc.
Tháng 3/1929 chi bộ cộng sản đầu tiên ra đời ở Hà Nội. Sau đó ngày 17/6/1929 Đông Dương Cộng Sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ. Tháng 10/1929 An Nam Cộng Sản Đảng ra đời ở Nam Kỳ. Đầu tháng 1/1930 những người còn lại của Tân Việt Cách Mạng Đảng. Lực lượng đông nhất là ở Trung Kỳ cũng ra tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Ba tổ chức cộng sản xuất hiện trong vòng hơn nửa năm ở cả 3 kỳ có nhiều cố gắng hoạt động và gây ảnh hưởng trong phong trào công - nông trên toàn quốc. Trong quá trình đó mỗi Đảng đều tự nhận mình là chính Đảng của giai cấp công nhân, phê phán các đảng phái khác, ra sức tranh giành quần chúng… Hoạt động công kích lẫn nhau giữa các tổ chức cộng sản đã làm ảnh hưởng đến tính thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho phong trào dân tộc.
Trước tình hình ấy, ngày 27/10/1929 Quốc Tế Cộng Sản đã gửi thư cho những người cộng sản Đông Dương, yêu cầu phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại thành một Đảng Cộng Sản duy nhất. Để thực hiện chủ trương ấy, Quốc Tế Cộng Sản ủy nhiệm Nguyễn Ái Quốc đứng ra giải quyết sự bất đồng giữa các tổ chức cộng sản Đông Dương để thống nhất chúng lại.
Ngày 3/2/1930 vào dịp tết Canh Ngọ, hội nghị các tổ chức Cộng Sản Đông Dương đã được triệu tập ở Hương Cảng. Bằng tư cách và uy tín của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã phân tích ưu khuyết điểm của phong trào cộng sản Đông Dương, giải quyết những bất đồng của những người cộng sản trong cùng một quốc gia dân tộc.
Do đã có những yếu tố căn bản được thống nhất nên các tổ chức cộng sản đã nhanh chóng nhất trí với các ý kiến của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Kết quả là các tổ chức cộng sản đã thống nhất hợp nhất thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất còn thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng ra lời kêu gọi nhân dịp Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời.
Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng. Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối chính trị đúng đắn để phát triển đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Giai cấp công nhân Việt Nam sau vài thập kỷ ra đời và phát triển, chủ yếu là 10 năm sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đã đủ sức lãnh đạo Cách mạng Việt Nam. Phong trào dân tộc chấm dứt tình trạng khủng hoảng lãnh đạo và bước vào thời kỳ đấu tranh mới đầy sôi động, tiến lên giành những thắng lợi mới.
*
* *
Mặc dù ngay từ đầu thế kỷ XX xã hội Việt Nam đã có nhiều chuyển biến lớn lao, nhưng phải sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Việt Nam mới thực sự có đủ những điều kiện mới để phát triển. Trong hoàn cảnh thế giới sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917, khi thực dân Pháp triển khai cuộc khai thác thuộc địa trên quy mô lớn nhất, những nhân tố thuận lợi cho phong trào dân tộc đã xuất hiện và nhanh chóng phát triển trưởng thành ngoài ý muốn của những kẻ đang áp bức dân tộc. Chính trong quá trình đó lại diễn ra một quá trình cùng du nhập vào Việt Nam hai hệ tư tưởng mới nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lịch sử của dân tộc đang đặt ra. Cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng cùng song song tồn tại được tập trung vào việc giải quyết một vấn đề bức thiết là quyền lãnh đạo Cách mạng Việt Nam - một cuộc cách mạng phải bắt đầu việc giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân.
Sự ngã ngũ của cuộc đấu tranh giữa hai con đường cách mạng đã kết thúc bằng sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Đó cũng là kết quả tất yếu, hợp quy luật của quá trình phát triển của lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

About Me

Hochiminh-City, Mien Nam, Vietnam
Tiến sĩ Sử học, giảng viên Truong Dai hoc Khoa hoc xa hoi va nhan van - Đại học Quốc gia TP.HCM