tag:blogger.com,1999:blog-89372385955338430312024-03-04T21:55:08.426-08:00LICH SU VIET NAMTRANG BLOG NAY BAO GOM 2 LOAI BAI VIET:
1/. TAP BAI GIANG LICH SU VIET NAM CAN DAI VA HIEN DAI DANH CHO SINH VIEN DAI HOC, NHUNG HOC SINH PHO THONG YEU THICH MON LICH SU VA DE TIM HIEU THEM KHI ON THI DAI HOC KHOI C.
2/. BAI VIET CUA TOI VA TUYEN TAP NHUNG BAI VIET HAY VE LICH SU VIET NAM, NHAT LA NHUNG BAI VE LICH SU KINH TE, LICH SU VAN HOA, LICH SU GIAO DUC, LICH SU TU TUONG, LICH SU XA HOI... DE NHUNG NGUOI QUAN TAM DEN LICH SU VIET NAM DOC VA GOP YHuynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comBlogger32125tag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-23915351306690131172011-04-20T08:21:00.000-07:002011-04-20T08:24:57.340-07:00PHUONG PHAP LUAN VE PHAN KY LICH SU<p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;text-indent:1.0cm"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">MẤY VẤN ĐỀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;text-indent:1.0cm"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">TRONG PHÂN KỲ LỊCH SỬ<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;text-indent:1.0cm"><!--[if gte vml 1]><v:line id="_x0000_s1026" style="'position:absolute;left:0;text-align:left;z-index:1'" from="173.9pt,14.9pt" to="267.5pt,14.9pt" allowincell="f"><![endif]--><!--[if !vml]--><span style="mso-ignore:vglayout"> </span></p><table cellpadding="0" cellspacing="0" align="left"> <tbody><tr> <td width="231" height="19"></td> </tr> <tr> <td></td> <td><img width="127" height="2" src="file:///C:/DOCUME~1/Owner/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.gif" shapes="_x0000_s1026" /></td> </tr> </tbody></table> <!--[endif]--><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b><p></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <br /> <p class="MsoNormal" align="right" style="text-align:right;text-indent:1.0cm"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">TS. LÊ VĂN QUANG<a style="mso-footnote-id: ftn1" href="file:///C:/Documents%20and%20Settings/Owner/My%20Documents/MAY%20VAN%20DE%20PP%20LUAN%20TRONG%20PHAN%20KY%20LICH%20SU.doc#_ftn1" name="_ftnref1" title=""><span class="MsoFootnoteReference">*</span></a><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Như đã biết, không có phân kỳ lịch sử một cách khoa học người ta khó mà có được một xuất phát điểm và sự tiếp cận tổng thể và khoa học đối với lịch sử và do đó, khó có thể bàn đến một khoa học lịch sử chân chính.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Vấn đề phân kỳ lịch sử từ lâu đã thu hút sự chú ý của các nhà sử học. Tính chất quan trọng và sự phức tạp của vấn đề này là rõ ràng. Có thể nói mà không sợ quá đáng rằng, phân kỳ lịch sử không đơn thuần là vấn đề học thuật của riêng khoa học lịch sử, mà trên một bình diện nào đó, còn là vấn đề đấu tranh tư tưởng và giai cấp. Chỉ cần đơn cử một ví dụ sau đây cũng đủ rõ: Từ trước tới nay, các chính khách và giới học giả tư sản vẫn không hề coi lịch sử thế giới hiện đại được mở đầu bằng cuộc cách mạng XHCN tháng Mười Nga – 1917. Ngày nay, khi CNXH đã sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô đã tan rã, trên thế giới người ta lại càng làm ầm ĩ lên về nội dung và tính chất của thời đại, của thế kỷ XX theo hướng phủ nhận một thời đại mới đã được mở ra bởi cuộc cách mạng XHCN tháng Mười Nga vĩ đại. Nhưng Báo cáo chính trị của BCH. TW Đảng ta tại Đại hội Đảng lần thứ VIII vẫn khẳng định một cách đúng đắn rằng: “Chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến CNXH tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa xã hội” <sup>(1)</sup>. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì theo V.I Lênin, <i style="mso-bidi-font-style:normal">“<u>Chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm của thời địa chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này nước nọ</u>”<sup>(2)</sup>. </i>Cho nên không phải ngẫu nhiên mà trên thế giới đã, đang và sẽ còn có nhiều phương pháp và lý thuyết phân kỳ lịch sử khác nhau.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">I.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">1.1. Trước hết, có thể thấy rằng, tất cả các lý thuyết về phân kỳ lịch sử sẽ không khỏi mang tính chủ quan, nếu như người ta tùy tiện lựa chọn một mốc thời gian này hay thời gian khác, một sự kiện này hay một sự kiện khác bất chấp ý nghĩa thực tiễn, bản chất và tính tiêu biểu quyết định của chúng trong tiến trình phát triển chung của lịch sử. Một trong những ví dụ tiêu biểu nhất cho điều đó là lối <i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>phân kỳ thuần túy theo những dâu hiệu mang tính hình thức về niên đại</u></i>, kiểu như: “Lịch sử thế kỷ XVI”; Lịch sử trước năm 1500” v.v… , mà chúng ta thường gặp ở phương Tây. Hoặc, một phương pháp phân kỳ khác khó điển hình và không kém phần chủ quan là phương pháp dựa vào <i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>các thay đổi mang tính hình thức trong lĩnh vực Nhà nước – pháp quyền</u></i>. Cũng có thể coi đây là phương pháp phân kỳ lịch sử <i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>theo các triều đại – vương triều, nhà nước</u></i>. Tuy nhiên, đó là những phương pháp phân kỳ đã quá cũ, đã được biết đến từ lâu.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Ngày nay, trong giới sử học phương Tây đang khá thịnh hành khuynh hướng <u>phân kỳ lịch sử dựa theo quyền lợi chính trị – xã hội của những cộng đồng người nhất định, và mang tính chất dân tộc chủ nghĩa rất rõ rệt</u>. Phương pháp này đã dần đến một hệ quả đáng buồn là, nhiều khi người ta tách rời lịch sử quốc gia, dân tộc ra khỏi tiến trình phát triển chung của nhân loại, thậm chí đối lập lại với tiến trình phát triển đó. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">1.2.<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Dù có nhiều điểm khác nhau, tùy trường phái, nhưng có điểm chung trong các lý thuyết phân kỳ lịch sử của <i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>các trường phái sử học phi mác- xít</u></i> là họ không thừa nhận tính quy luật khách quan trong sự phát triển của xã hội làoi người và phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Từ đó mà, hoặc vô tình hoặc hữu ý, họ đã sa vào chủ nghĩa duy tâm trong vấn đề phân kỳ lịch sử.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Điển hình cho trường hợp này là quan điểm của nhà sử học Đức F. San- cơ. Theo ông, phân kỳ lịch sử - đó là quá trình tự phân định của con người, một quá trình mang tính hệ tư tưởng, phản ánh sự xung đột của những quan điểm khác nhau về lịch sử. F San- cơ đã viện dẫn ra sự phát sinh khái niệm “Chủ nghĩa nhân đạo”(Humanism) và sự tồn tại của thời đại nhân văn, làm ví dụ. Khái niệm “Chủ nghãi nhân đạo” (hoặc nhân văn) xuất hiện bên cạnh khái niệm “Thời trung cổ” đã tạo nên mối tương quan của nó với “Thời Cổ đại”. Nhận thức các quan hệ thông qua sự phân chia – đó là cơ sở lý lậun phân kỳ lịch sử theo quan điểm của F. San- cơ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Khác với F. San- cơ, một lý thuyết phân kỳ lịch sử khác trong giới Sử học và xã hội học phương Tây lại dựa trên sự tương tự hay loại suy (analogic) một cách máy móc khi xem xét các sự kiện diễn ra trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Điển hình cho lý thuyết này là các quan điểm của O.Speng- le và A. Tôn- by. Chẳng hạn, A.Tôn- by xem xét tiến trình lịch sử như là sự thay thế của các nền văn minh (Civilizations) không có quan hệ gì với nhau và dường như độc lập với nhau. Với A. Tôn- by, “Văn minh là những đơn vị khảo sát có thể quan niệm được”. Ông chia lịch sử thế giới thành mấy chục nền văn minh khác nhau, mà tương quan giữa chúng được xem xét chủ yếu trong sự khác nhau về các quan điểm tôn giáo. Tất cả các nền văn minh đó hầu như không có quan hệ với nhau xét trên bình diện không gian và thời gian.<sup>(3)</sup><sub> <o:p></o:p></sub></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Việc chống chủ nghĩa lịch sử ở Tôn- by thể hiện rõ rệt nhất ở việc ông hoàn toàn coi thường vấn đề niên đại và quan điểm lịch đại. Chẳng hạn, ông cho rằng, có thể không có vấn đề gì cả khi xếp vào cùng một nhóm Mắc - Ca – vê – ép (thế kỷ II TCN) và Mắc – đi (nữa sau thế kỷ XIX) như là “những người cùng thời” (! ?). Xáo trộn, lẫn lộn các thời đại lịch sử, thực chất A.Tôn- by đã xuất phát từ sự kiến giải mang tính thần học về lịch sử. Chính vì vậy mà ngay cả các nhà sử học phương Tây vốn bác bỏ tính quy luật trong phân kỳ lịch sử, cũng đã không thể tán đồng các quan điểm trên đây của Tôn- by.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Ngày nay, ngoài A.Tôn- by, thuộc trường phái tiếp cận lịch sử theo nền văn minh, người ta ngày càng hay nhắc đến tên tuổi của A. Tốp- flơ <sup>(4)</sup>. Tốp- flơ đã chia lịch sử loài người thành ba thời kỳ tương ứng với ba nền văn minh là:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">1 – Văn minh Nông nghiệp (hay tiền công nghiệp).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">2 – Văn minh Công nghiệp.<span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">3 – Văn minh Hậu công nghiệp (hay văn minh trí tuệ)<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Cần lưu ý rằng, phương pháp tiếp cận lịch sử theo các nền văn minh có những ưu điểm của nó rất đáng được quan tâm nghiên cứu. Không phải ngẫu nhi6n mà bất đầu từ nửa sau thập ni6n 90 trở đi môn “Lịch sử văn minh thế giới” (phương Đông và phương Tây) đã được chính thức đưa vào giảng dạy ở nhiều trường đại học của Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>. Tuy nhiên, cũng lại cần lưuu t\ý ngay rằng, chúng ta không thể tán đồng việc tiếp thu phương pháp tiếp cận lịch sử theo nền văn minh để thay thế hoặc phủ nhận phương pháp tiếp cận hình thái kinh tế – xã hội. Việc giới Sử học và xã hội học phi mác – xít, trước hết là Sử học và xã hội học tư sản đề cao phương pháp tiếp cận theo nền văn minh không phải là ngẫu nhiên. Họ muốn dùng nó để phủ nhận phương pháp tiếp cận lịch sử theo hình thái kinh tế – xã hội của chủ nghĩa Mác – Lê- nin. Rùm beng nhất gần đây trong thập niên 90 là quan điểm của P. Hun- ting- tơn về cái gọi là “Sự xung đột giữa các nền văn minh” đã chứng minh điều đó. Dễ hiểu là họ sợ, bởi học thuyết của Mác và Lê- nin đã chỉ ra hết sức thuyết phục và đúng đắn tính quy luật phổ biến trong sự phát triển của nhân loại, trong sự thay thế hợp quy luật của các hình thái kinh tế – xã hội kế tiếp nhau từ thấp đến cao, theo đó, chủ nghĩa tư bản – dù là Chủ nghĩa tư bản hiện địa ngày nay cũng không phải là đỉnh cao của văn minh nhân loại; không phải là mùa xuân mà nhân loại sẽ vĩnh viễn dừng lại ở đó, mà nó sẽ tất yếu bị thay thế bởi một hình thái kinh tế – xã hội cao hơn – đó là hình thái kinh tế – xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Vấn đề chỉ là thời gian và phương thức thay thế mà thôi.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Có điều đáng chú ý là, trong khi cố gắng phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của Mác và Lên- nin, các học giả tư sản vẫn bị ảnh hưởng to lớn của học thuyết này trên thực tế. Không có gì đáng ngạc nhiên khi trong giới Sử học tư sản đã có mưu toan đánh tráo khái niệm “Hình thái kinh tế – xã hội” của mác bằng khái niệm “các kiểu – mô hình” (type) lý tưởng” của Vê- béc, hoặc bằng lý thuyết về “các giai đoạn phát triển” của U. Rớt- xtâu, trong đó cơ sở của sự phân kỳ lịch sử là các yếu tố đa diện (toàn diện) của tiến trình lịch sử, nhưng những đường nét xác định chất cốt lõi của nó lại bị phớt lờ. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Bên cạnh phương pháp tiếp cận theo nền văn minh, ngày nay trong giới Sử học và xã hội học phương Tây còn phổ biến một lý thuyết về <i style="mso-bidi-font-style: normal"><u>phương pháp phân kỳ lịch sử căn cứ theo các dấu hiện và tiêu chí kỷ thuật – công nghệ, nhưng lại lãng quên đi con người và hệ thống các quan hệ xã hội</u></i><u>.</u> Lý thuyết này cho rằng, tiến trình phát triển lịch sử dường như chỉ liên quan tới sự thay đổi về kỹ thuật và công nghệ của sản xuất xã hội, sự tiến triển của các đối tượng văn hóa vật chất, tức là chỉ liên quan tới “lịch sử của các vật thể”. Chẳng hạn, nhà Sử học Đức T. Si- đe, khi khẳng định ưu thế của kỹ thuật và công nghệ trong tiến trình phát triển xã hội, đã tuyên bố rằng, đã có khả năng “chiến thắng chủ nghĩa dy vật lịch sử bằng chính vũ khí của chủ nghĩa duy vật lịch sử” (? !)<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Thực ra, khi tách rời sự phát triển của lực lượng sản xuất ra khỏi quan hệ sản xuất, Si- đe đã cố tình xuyên tạc, bóp méo bản thân kái nị6m “chủ nghĩa duy vật lịch sử”. Kỹ thuật và công nghệ không thể tồn tại một cách “tự nó”, “tự thân”, mà chỉ là sản phẩm của hoạt động của con người xã hội, và chúng có mối quan hệ với một cấu trúc kinh tế – xã hội nhất định. Do đó, ở đây người ta đã mưu toan đánh tráo, thay thế lịch sử của con người bằng lịch sử của máy móc, kỹ thuật, công nghệ và thủ tiêu đi nội dung xã hội của chúng.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Trên một bình diện khác, U. Rốt- xtâu lại cho rằng, các yếu tố của một trật tự kinh tế dường như không có một vai trò chủ đạo nào cả. Theo ông, bước thúc đẩy đầu tiên việc hiện đại hóa về kinh tế cần xem xét “không phải trong các sức mạnh kinh tế mà ở trong phản ứng đối với hình thức này hay hình thức khac của các áp lực bên ngoài – các áp lực hiện thực hay giả định của kẻ mạnh đối với kẻ yếu”<sup>(5)</sup>. Trên thực tế ở đây, Rốt- xâtu đã ủng hộ “thuyết Sức mạnh bạo lực”.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Một đặc điểm chung khác của nhiều nhà Sử học và xã hội học tư sản là họ thường cố gắng lảng tránh fấn đề phân kỳ lịch sử toàn thế giới. Họ tập trung trước hết vào việc phân kỳ lịch sử mang tính địa phương (local), hoặc chuyên biệt. Bằng cách đó, người ta mưu toan gián tiếp hoặc trực tiếp phủ nhận ý nghĩa thời đại của cuộc cách mạng XHCN tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, khi cho rằng cuộc cách mạng này chỉ là một sự kiện “ngẫu nhiên”, “không có tính quy lậut chung” cho toàn nhân loại, thậm chí đó còn là “tai họa” của loài người v.v…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Trong trường hợp buộc phải phân kỳ lịch sử toàn nhân loại thì đối với giới Sử học tư sản, ranh giới giữa lịch sử Cổ – Trung – Cận – hiện đại được xác định hết sức khác nhau, khác nhau với trường phái Sử học mác- xít. Chẳng hạn, thời kỳ lịch sử cận đại được người ta coi là bắt đầu từ năm 1453 – tức là khi đế quốc Ốt- tô- man thôn tính Công- xtăng- ti- nốp, cho đến Đại cách mạng Pháp 1789 – 1794; hoặc là từ các Đại phát kiến địa lý cuối thế kỷ XV đến trước cuộc cách mạng Khoa học- kỹ thuật đương đại giữa thế kỷ XX. Điền này hoàn toàn khác với sự phân kỳ của giới Sử học mác- xít. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">II.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">2.1. Đối với <i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>trường phái Sử học mác- xít</u></i><u>,</u> phân kỳ lịch sử là việc xác định thực chất nội dung cơ bản của các thời kỳ, giai đoạn hình thành và phát triển của tiến trình lịch sử đặc trưng cho một dân tộc, một quốc gia, một khu vực hay toàn thể xã hội làoi người nói chung. Chẳng hạn, theo nhà Sử học Bun- ga- ri V. Hát- gi- ni- cô- lốp thì, phân kỳ lịch sử là sự xác định ranh giới, sự phân chia thời gian lịch sử tương ứng với sự khác nhau về chất của các tiến trình diễn ra trong các thời gian lịch sử ấy.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">2.2<span style="mso-spacerun:yes"> </span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>Nền tảng của sự phân kỷ lịch sử</u></i> một cách khoa học đó là sự thừa nhận tính quy luật nói chung trong sự phát triển của xã hội loài người; về sự hình thành, phát triển và thay thế nhau một cách hợp quy lậut của các <i style="mso-bidi-font-style: normal"><u>hình thái kinh tế – xã hội</u></i>. Viện sỹ nổi tiếng thế giới của Liên Xô trước đây E.M. Ju- cốp khẳng định, “Sự thay thế kế tiếp hợp quy lậut của các hình thái kinh tế- xã hội là cơ sở khách quan và cơ sở lý luận của việc phân kỳ lịch sử”.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Những ý kiến đầu tiên mang tính thật sự khao học về phân kỳ lịch sử đối với Sử học mác- xít được đưa ra trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845 – 1846) của Mác và Ăng- ghen. Các giai đoạn của sự phát triển của lịch sử xã hội được xác định ở đây trước hết như là sự thay thế của các hình thức sở hữu bộ lạc, cổ đại, phong kiến và tư bản. Chính trong tác phẩm này, lần đầu tiên Mác và Ăng- ghen đã đặt ra vấn đề lịch sử kinh tế và trình độ phát triển của sản xuất vật chất trong cơ sở của việc phân kỳ toàn bộ quá trình lịch sử.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:1.0cm"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Tuy nhiên, đến năm 1859, trong “Lời nói đầu” của tác phẩm “Phê phán Kinh tế – Chính trị học”, Mác đã có một hiệu chỉnh quan trọng đối với luận đề này, khi viết rằng, chính lực lượng sản xuất mới là cái quyết định quan hệ sản xuất. Tư tưởng về các hình thái kinh tế – xã hội đã được đề cập một cách trực tiếp như là các giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Cụ thể, trong “Lời nói đầu” cho lần xuất bản đầu tiên tập I của bộ “Tư bản”, Mác đã viết như sau: “Tôi xem xét sự phát triển của một hình thái kinh tế – xã hội như xem xét một quá trình lịch sử tự nhiên”. Đến 1881, trong thư gửi V. Da- su- lích, Mác đã trực tiếp đề cập tới các thời kỳ, các giai đoạn, các thời đại trong sự phát triển của xã hội loài người là:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:46.35pt;text-align:justify;text-indent: -18.0pt;mso-list:l0 level1 lfo1;tab-stops:list 46.35pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">-<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Giai đoạn xã hội nguyên thủy;<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:46.35pt;text-align:justify;text-indent: -18.0pt;mso-list:l0 level1 lfo1;tab-stops:list 46.35pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">-<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Xã hội chiếm hữu nô lệ;<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:46.35pt;text-align:justify;text-indent: -18.0pt;mso-list:l0 level1 lfo1;tab-stops:list 46.35pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">-<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Xã hội phong kiến;<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:46.35pt;text-align:justify;text-indent: -18.0pt;mso-list:l0 level1 lfo1;tab-stops:list 46.35pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">-<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">VàXã hội tư bản chủ nghĩa.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tất nhiên, vấn đề phân kỳ lịch sử trên thực tế là phức tạp hơn nhiều các sơ đồ được khái quát hóa trên đây. Bởi, thật kho mà xác định được một tiêu chuẩn duy nhất có khả năng thỏa mãn yêu cầu vừa phân kỳ được lịch sử toàn nhân loại nói chung vừa phân kỳ được lịch sử khu vực (region) và lịch sử địa phương (local – theo nghĩa rộng) nói riêng. Dù vậy, không nghi ngờ gì nữa, học thuyết về hình thái kinh tế tế – xã hội trong tất cả mọi trường hợp chính là <i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>chuẩn định hướng</u></i> cho sự tiếp cận phân kỳ lịch sử một cách khoa học và khách quan. Trong cách tiếp cận này, vấn đề đề “các thời đại lịch sử” có một ý nghĩa quan trọng<span style="mso-spacerun:yes"> </span>hàng đầu.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>2.3. Phát triển những luận điểm của Mác, Lê- nin đã nhiều lần đề cập tới vấn đề “thời đại lịch sử”. Trong bài báo nổi tiếng nhan đề “Dười ngọn cờ của người khác”, Lê- nin đã nhấn mạnh rằng, cơ sở cho việc xác định một thời đại lịch sử<span style="mso-spacerun:yes"> </span>chính là phương pháp tiếp cận một cách khách quan về vấn đề giai cấp, không phụ thuộc vào các biến thái riêng biệt của tiến trình lịch sử nói chung trong <span style="mso-tab-count:1"> </span>từng nước riêng rẽ. Các ranh giới của các thời đại lịch sử được thiết lập trên phạm vi toàn thế giới. Thời đại lịch sử thể hiện các quá trình xã hội, trong đó giai cấp này hoặc giai cấp kia đóng vai trò chủ đạo và quyết định; nó cũng thể hiện nội dung, khuynh hướng chủ đạo của sự phát triển xã hội trong những khoảng thời gian nhất định, tương đối lâu dài của lịch sử.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>Mặc khác, Lê- nin cũng luôn cảnh báo và ngăn ngừa trước nguy cơ đaơn giản hóa và dung tục, tầm thường hóa vấn đề “thời đại lịch sử” theo kiểu quy thời đại thành vấn đề của chỉ một giai cấp duy nhất nào đó, hoặc một khuynh hướng duy nhất nào đó. Lê- nin nhấn mạnh rằng, “thời đại là tổng hòa của những hiện tượng đa dạng muôn màu muôn vẻ, trong đó, ngoài những cái điển hình, tiêu biểu, nó luôn luôn có sự khác biệt”. Đồng thời, việc xác định các ranh giới phân biệt một thời đại lịch ử này với thời đại lịch sử khác không phải là một cái gì hoàn toàn tuyệt đối và chết cứng. Theo Lê- nin, “các ranh giới ở đây, cũng như tất cả các ranh giới trong tự nhiên và xã hội, là mang tính điều kiện động và tương đối, chứ không phải là hoàn toàn tuyệt đối”.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>Luận điểm này của Lê- nin nhằm chống lại các quan điểm giáo điều và siêu hình muốn phân chia tiến trình lịch sử theo từng ngày, từng tháng một cách cứng nhắc mà không thấy được tính chất “động” và tương đối của nó. Vì vậy, không nên quá ngạc nhiên khi thấy sự phân kỳ trên cơ sở hình thái kinh tế – xã hội của lịch sử phương Tây (trước hết là Châu Âu) nói chung là không trùng khớp, thậm chí có sự khác biệt khá xa về ranh giới các thời đại so với lịch sử phương Đông.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>2.4. Giữa các thời đại lịch sử và hình thái kinh tế – xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau. Không thể nói đến một thời đại lịch sử nào đó một cách trừu tượng tách rời với các hình thái kinh tế – xã hội tồn tại trong thời đại đó. Ở phương diện này, thời đại lịch sử được xác định như là một khoảng thời gian tương đối dai được đặc trưng bởi sự tác động của một hay nhiều hình thái kinh tế – xã hội cùng tồn tại. Các giới hạn phạm vi niên đại của một thời đại lịch sử phụ thuộc vào những thay đổi triệt để tương ứng với sức sống của thời đại ấy. Mỗi thời đại được đặc trưng bởi một khuynh hướng chủ đạo trong sự phát triển xã hội thể hiện ở “trọng lượng riêng” của hình thái kinh tế – xã hội tiên tiến ngày càng được củng cố và phát triển.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>Sự vận động của lịch sử không chỉ thể hiện trong sự thay đổi tương quan “trọng lực” giữa các hình thái kinh tế – xã hội với nhau, mà còn cả ở trong từng hình thái riêng biệt và cụ thể. Tất cả chúng đều trải qua các giai đoạn: Hình thành </span><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:Symbol;mso-ascii-font-family:"Times New Roman"; mso-hansi-font-family:"Times New Roman";mso-char-type:symbol;mso-symbol-font-family: Symbol"><span style="mso-char-type:symbol;mso-symbol-font-family:Symbol">®</span></span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""> phát triển </span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; font-family:Symbol;mso-ascii-font-family:"Times New Roman";mso-hansi-font-family: "Times New Roman";mso-char-type:symbol;mso-symbol-font-family:Symbol"><span style="mso-char-type:symbol;mso-symbol-font-family:Symbol">®</span></span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""> và tan rã. Và điều đó không thể không ảnh hưởng đến thời đại lịch sử. Do đó mà xuất hị6n sự cần thiết tất yếu phải phân biệt <i style="mso-bidi-font-style: normal"><u>trong phạm vi của mỗi thời đại lịch sử của thời kỳ – giai đoạn (period) lịch sử riêng biệt</u></i><u> </u>phản ánh sự phát triển bên trong của nó.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>2.5. Khái niệm “Thời đại lịch sử” xây dựng trên học thuyết hình thái kinh tế – xã hội cho phép thiết lập sự phân kỳ lịch sử toàn nhân laọi thành đại thể: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:46.35pt;text-align:justify;text-indent: -18.0pt;mso-list:l0 level1 lfo1;tab-stops:list 46.35pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">-<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Lịch sử thời tối cổ (sơ sử hay tiền sử- thời kỳ nguyên thủy).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:46.35pt;text-align:justify;text-indent: -18.0pt;mso-list:l0 level1 lfo1;tab-stops:list 46.35pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">-<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Lịch sử cổ đại (thời kỳ chiếm hữu nô lệ).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:46.35pt;text-align:justify;text-indent: -18.0pt;mso-list:l0 level1 lfo1;tab-stops:list 46.35pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">-<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Lịch sử Trung đại (thời kỳ phong kiến).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:46.35pt;text-align:justify;text-indent: -18.0pt;mso-list:l0 level1 lfo1;tab-stops:list 46.35pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">-<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Lịch sử Cận đại (thời kỳ TBCN).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:46.35pt;text-align:justify;text-indent: -18.0pt;mso-list:l0 level1 lfo1;tab-stops:list 46.35pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">-<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Lịch sử hiện đại (Mở đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga 1917)<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>Tuy nhiên, điều quan trọng là bên cạnh đó, phải thiết lập sự phân kỳ lịch sử địa phương (local- theo nghĩa rộng). Ở đây, chúng ta sẽ thấy thời mốc lịch sử cụ thể của sự chuyển biến về hình thái kinh tế – xã hội của từng khu vực (region) và từng quốc gia – dân tộc (nation) là hoàn toàn không trùng nhau, thậm chí rất khác biệt nhau. Chú ý đến địa điểm tất yếu này, Viện sỹ E.M. Ju- cốp đã đề nghị một hệ thống cấp độ – bậc thang của sự phụ thuộc của các hiện tượng lịch sử làm cơ sở trực tiếp cho sự phân kỳ lịch sử như sau:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>Một là</u></i>, đối với lịch sử của từng nước, từng dân tộc riêng biệt, người ta có thể và cần phải xác định cho được các mốc cụ thể của tiến trình lịch sử địa phương, <i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>xuất phát từ chính lô- gíc bên trong của tiến trình ấy</u></i><u>.</u> Đây được coi là cấp độ thấp nhất trong hệ thống chung.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>Hai là</u></i>, tập hợp các dữ lị6u đặc trưng cho sự phát triển lịch sử của một khu vực (region) tương ứng với các mốc niên đại quan trọng nhất. Đồi chiếu, so sánh các thời mốc (date) và các dữ liệu chứng minh về các qúa trình giống hoặc tương tự nhau ở quy mô đại phương (ở đây là các quốc gia) và quy mô khu vực (gồm nhiều quốc gia), sẽ cho phép thấy được mức độ tương thuộc lẫn nhau (interdependence) của các qúa trình này, và do đó cho phép chúng ta nối liền được các quá trình này, và do đó cho phép chúng ta nối liền được các chu tuyến (Contuor) của sự phân kỳ thống nhất toàn khu vực với các thành tố của nó. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>Ba là</u></i>, cũng bằng con đường tương tự như trên mà chúng ta sẽ tiến đến cấp độ phân kỳ lịch sử tổng thể cho toàn thế giới. Nó cho phép làm sáng tỏ vị trí, chỗ đứng của các khu vực riêng biệt, các quốc gia riêng biệt trong một thời đại lịch sử cụ thể, cũng như tác động của tiến trình lịch sử toàn cầu đối với số phận của từng khu vực và các thành tố của nó.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>Tuy nhiên, vận dụng quan điểm của Lê- nin, E. M. Ju- cốp cũng nhấn mạnh rằng, việc xác định (dater) một cách tuyệt đối chính xác về thời mốc của các tiến trình và hiện tượng lịch sử lớn thực tế là không thể làm được, bởi bất kỳ một sự phân kỳ nào cũng chỉ là một sự “áng chừng, ước định có điều kiện”. Chẳng hạn, trong khoa học lịch sử Xô- viết trước đây, người ta coi mốc mở đầu của lịch sử thế giới cận đại là cách mạng, tư sản Anh thế kỷ XVII. Nhưng điều đó vẫn không ngăn cản việc người ta có thể thừa nhận những phương án khác, hoặc mốc sớm hơn Cách mạng tư sản Anh – tức là Cách mạng tư sản Hà Lan thế kỷ XVI; hoặc là muộn hơn – tức là Đại cách mạng Pháp cuối thế kỷ XVIII. Có thể thừa nhận như vậy <i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>chừng nào mà các phương án ấy không phá vỡ và phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế – xã hội</u></i><u>.</u> Tuy nhiên, như đã biết, các nhà Sử học Xô- viết trước đây đã nghiêng về mốc cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVII chỉ là bởi, chính Mác đã từng coi nước Anh là “nước kinh điển” của phương thức sản xuất TBCN khi đó.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>2.6 Do tình hình trên đây mà quá trình thực hiện việc <i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>đồng đại hóa (Synchronization)</u></i> các sự kiện lịch sử diễn ra đồng thời trong những không gian cách xa nhau nhưng không phụ thuộc vào nhau, đã trở thành một phương pháp phân tích quan trọng trong phân kỳ lịch sử. Chính K. Mác trong những năm cuối đời mình đã thực hiện một công việc đồ sộ là tóm tắt các tác phẩm nổi tiếng về lịch sử thế giới với sự phân chia theo niên đại các sự kiện và các nhân tố nổi bật nhất. Công trình này đã được Ăng- ghen gọi là “Bút ký biên niên”. Công trình đồ sộ của Lê- nin “Bút ký về chủ nghĩa đế quốc” cũng đã được thực hiện theo phương pháp này.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>Việc sử dụng phương pháp đối chiếu các niên đại biên niên cho phép so sánh sự phát triển lịch sử của các nước khác nhau trong phạm vi một thời đại này hay thời đại khác, đã đem lại rất nhiều lợi ích đối với việc phân kỳ lịch sử một cách khoa học. Nó cho phép xác định được cái chung cũng như sự khác biệt giữa các quốc gia và các khu vực với nhau. Chính là trong hằng hà sa số những điều gọi là “lệch chuẩn” có tính cá biệt đối với con đường vận động chung chủ yếu của nhân loại, mà người ta lại thấy được khuynh hướng chung của chính sự vận động ấy. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>Như vậy, vấn đề phân kỳ lịch sử có liên quan trực tí6p đến xuất phát điểm phương pháp luận. Chỉ có trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử đúng đắn, chúng ta mới có khả na7ng thoát ra khỏi chủ nghĩa chủ quan trong sự phân kỳ đó. Trên cơ sở của những tư liệu đã được thu thập và kiểm nghiệm theo tất cả các tham số đối với một tiến trình lịch sử cụ thể, người ta mới có thể đạt được một sự đồng đại hóa và lịch đại hóa những tư liệu lịch sử đó, phân nhóm chúng v.v… - tức là thực hiện những “thao tác kỹ thuật” của sự phân kỳ lịch sử.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>2.7. Ngoài sự phân kỳ lịch sử nói chung, tất nhiên còn có vấn đề phân kỳ những mặt riêng biệt của hoạt hóa. Chính là trên ý nghĩa này mà chúng ta hiểu câu nói nổi tiếng của Mác rằng, “<i style="mso-bidi-font-style:normal"><u>Chúng ta chỉ biết có một khoa học duy nhất, khoa học lịch sử</u></i>”. Bởi, theo Mác, “có thể xem xét lịch sử dưới hai mặt. Người ta có thể chia ra thành lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, hai mặt đó không tách rời nhau”. Do đó, tiến trình lịch sử văn hóa mà chúng ta nêu lên ở đây làm ví dụ, cũng như nhiều lĩnh vực khác, tất nhiên là có sự phát triển theo những quy luật nội tại riêng của chính nó. Chẳng hạn, người ta có thể phân kỳ để nghiên cứu các giai đoạn khác nhau của Văn hóa Phục Hưng chẳng qua cũng chỉ là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định của nhân loại.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>Cuối cùng, cũng cần phải nhấn mạnh thêm về vấn đề “thời gian và không gian lịch sử” trong lý thuyết về các phương pháp phân kỳ lịch sử. Việc xác định sự khác nhau trong thời gian phát triển của một tiến trình lịch sử này hay tiến trình lịch sử khác sẽ cho phép “chính xác hóa” vai trò của chúng trong sự vận động nói của lịch sử; xác định được khoảng cách thời gian, địa điểm khởi đầu, kết thúc cũng như tốc độ, nhịp độ của các hình thức của sự vận động ấy. Nói cách khác, bất kỳ một sự kiện lịch sử nào cũng phải được định vị càng rõ ràng càng tốt trong không gian và thời gian của chúng.<o:p></o:p></span></p> <h1><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p><span style="text-decoration:none"> </span></o:p></span></b></h1> <h1><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Chú thích<o:p></o:p></span></b></h1> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">(1). Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. H.1996. Tr.76.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">(2). V.I. Lê- nin. Toàn tập. Nxb, Tiến bộ. M.1980. T.36. (Tiếng Việt). Tr.174.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">(3) Xem. A.Toynbee. A Study of History. L.1934. Vol. 1. P.149 – 171.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">(4). Xem. A. Tofler. The Third Wave. N.Y.1981.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">(5). W. Rostow. Politics and the Stages of Growth. Cambridge. 1971. P.3.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <div style="mso-element:footnote-list"><!--[if !supportFootnotes]--><br /> <hr align="left" size="1" width="33%"> <!--[endif]--> <div style="mso-element:footnote" id="ftn1"> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><a style="mso-footnote-id:ftn1" href="file:///C:/Documents%20and%20Settings/Owner/My%20Documents/MAY%20VAN%20DE%20PP%20LUAN%20TRONG%20PHAN%20KY%20LICH%20SU.doc#_ftnref1" name="_ftn1" title=""><span class="MsoFootnoteReference">*</span></a> Ch<span style="font-family:"Times New Roman"">ủ</span> nhi<span style="font-family:"Times New Roman"">ệ</span>m Khoa S<span style="font-family: "Times New Roman"">ử</span>, Tr<span style="font-family:"Times New Roman"">ườ</span>ng <span style="font-family:"Times New Roman"">Đạ</span>i h<span style="font-family: "Times New Roman"">ọ</span>c Khoa h<span style="font-family:"Times New Roman"">ọ</span>c Xã h<span style="font-family:"Times New Roman"">ộ</span>i và Nhân V<span style="font-family:"Times New Roman"">ă</span>n, <span style="font-family:"Times New Roman"">Đạ</span>i h<span style="font-family:"Times New Roman"">ọ</span>c Qu<span style="font-family:"Times New Roman"">ố</span>c gia Tp. H<span style="font-family:"Times New Roman"">ồ</span> Chí Minh</p> </div></div>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-46735459140150851732011-04-20T08:17:00.000-07:002011-04-20T08:21:21.588-07:00SUY NGHI VE CAI CACH CUA QUANG TRUNG<p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt"><o:p> </o:p></span></p> <h1 style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt;margin-left: 0cm;line-height:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"">MẤY SUY NGHĨ VỀ NHỮNG CẢI CÁCH CỦA QUANG TRUNG – NGUYỄN HUỆ<o:p></o:p></span></h1> <p class="MsoNormal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Sau khi đuổi 29 vạn quân Thanh<span style="mso-spacerun:yes"> </span>ra khỏi bờ cõi, Quang Trung tập trung vào việc củng cố nội trị, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng chính quyền mới, khôi phục, phát triển kinh tế cũng như đặt nền móng cho những cải cách văn hóa,<span style="mso-spacerun:yes"> </span>giáo dục.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span><b style="mso-bidi-font-weight: normal">Trước hết xét ở góc độ chính trị:</b> Nhà Tây Sơn xây dựng tổ chức chính quyền theo mô hình nhà nước phong kiến trước đó. Đó là một thể chế chính trị phong kiến Trung ương tập quyền hoàn toàn phù hợp với thời đại của Quang Trung. Nó không có gì mới mẽ so với trước kia. Vì vậy, ở mặt chính trị, Quang Trung nói riêng và nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ nói chung chưa thể hiện vai trò một cách xuất sắc mang tính chất như là những cải cách táo bạo. Bởi lẻ, tổ chức chính quyền này vẫn mang đầy đủ chức năng của chính quyền phong kiến quan liêu, bước đầu ổn định xã hội từ Trung ương tới địa phương. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách thấu đáo hơn thì việc nhà Tây Sơn được xây dựng lên đó là một niềm tự hào vượt bậc của dân tộc trong thời buổi đất nước đầy rẫy những sự biến động lớn như vậy. Bởi vì, lãnh tụ của phong trào đều xuất thân từ nông dân. Qua một quá trình vận động không ngừng, họ đã thay đổi một cách cơ bản nhận thức từ phong trào nông dân tiến lên lãnh đạo phong trào dân tộc, dần đi vào quỹ đạo phong kiến hoá. Nhưng điều quan trọng là chính quyền Quang Trung xây dựng nên không tách ra khỏi nhân dân, đứng trên hoặc đối lập với họ. Ngược lại, những gì Quang Trung xây dựng đều nhằm mục đích thúc đẩy xã hội phát triển đi lên. Cho nên, nếu chúng ta nhìn nhận đại thể thì dễ thấy rằng những gì mà chính quyền Quang Trung xây dựng nên không khác trước là mấy; đứng đầu Nhà nước là vua, dưới là 6 Bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan thượng thư…Nhưng điều ghi nhận được là công cuộc chống ngoại xâm cũng như quá trình xây dựng đất nước đều xuất phát từ những động cơ hoàn toàn tốt đẹp, mong muốn gây dựng một sự nghiệp vẻ vang cho quốc gia-dân tộc. Vì thế, nó ẩn chứa những xu hướng của cải cách.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><b style="mso-bidi-font-weight:normal">Về mặt quân sự:</b> Quang trung đã có những cải tổ mới: 1790, Quang Trung sai lập sổ hộ khẩu quy định chế độ tập trung quân lính cũng như phát tín bài cho tất cả dân đinh không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Đây là một việc làm tiến bộ, có ích về mặt kinh tế lẫn an ninh, quân sự. Dưới thời Quang Trung ông đã xây dựng được một lực lượng quân đội hùng mạnh bao gồm: thủy binh, bộ binh, tượng binh, phục binh và kỵ binh với những trang bị vũ khí hiện đại so với bấy giờ; ngoài giáo, mác còn có súng trường, đại bác, hỏa hổ… Tất cả những điều này nói lên sự hùng hậu của nhà Tây Sơn trong chiến tranh trước đó cũng như trong xây dựng đất nước về sau này. Đây cũng là một trong những thế mạnh của nhà Tây Sơn. Nó đóng vai trò trấn áp các thế lực nổi dậy chống đối ở trong nước cũng như răn đe các thế lực muốn xâm lấn từ bên ngoài. Suy cho cùng Quang Trung đã có công xây dựng một tiềm lực quân sự hùng mạnh từ đội quân nông dân tiến lên thành lực lượng quân đội của dân tộc, đánh tan thù trong giặc ngoài trong thời đại của ông, cũng như trấn áp những thế lực phản động trong nước nổi lên chống lại chính quyền Tây sơn. Đó là trường hợp chống đối của Lê Duy Chi (em ruột của Lê Chiêu Thống), hoạt động lén lút ở biên giới Trung-Việt; một số cựu thần nhà Lê âm mưu bạo loạn ở Nghệ An, Hải Dương; hoạt động chống đối của anh em họ Phạm ở Lạng Giang… Nhưng tất cả những mầm móng phá hoại đó bị Tây Sơn Nguyễn Huệ đập tan một phần nhờ vào tổ chức chính quyền vững mạnh. Mặt khác, về mặt tổ chức quân sự, Nguyễn Huệ đã xây dựng được một tiềm lực quân sự hùng hậu đủ sức trấn áp những phần tử, thế lực chống đối trong và ngoài nước. Tóm lại, xét ở mặt quân sự, Tây Sơn đã thực sự có những cống hiến hết sức lớn lao, đặc biệt thông qua hai cuộc chiến tranh chống Xiêm, Thanh…Vì vậy, thời đại Tây Sơn đã thực sự có những cống hiến hết sức to lớn về mặt quân sự: tổ chức quân đội trang thiết bị, vũ khí…mang tính chất như là những cải cách trong đó Quang Trung –Nguyễn Huệ đóng một vai trò hết sức quan trọng.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Kinh tế: </span></b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Nhà Tây Sơn có một vai trò hết sức lớn lao trong việc phục hồi và phát triển kinh tế. Bởi lẻ, trải qua một qua trình nội chiến lâu dài ở trong nước, tình hình kinh tế nước ta cuối thế kỷ XVIII hết sức tiêu điều, xơ xác. Chính sách thuế khoá nặng nề cùng với nạn phu phen, lao dịch… đã đẩy nhanh quá trình phá sản hàng loạt của nông dân. Trong đó tình trạng ruộng đất bị hoang hóa rất nhiều. Vì thế, sau khi đại phá quân Thanh Quang Trung lo tập trung giải quyết vấn đề này, để phục hồi nền kinh tế tiểu nông đang bị phá hoại nghiêm trọng. Cho nên, năm 1789, Quang Trung ban hành <b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Chiếu khuyến</i></b> <b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style: normal">nông</i></b> như là một giải pháp tích cực cho trình trạng ruộng đất hoang hóa và dân phiêu tán.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Thời Quang Trung, tình hình công thương nghiệp bị đình trệ hàng thế kỷ cũng được phục hồi.<a style="mso-footnote-id:ftn1" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/CAI%20CACH%20QUANG%20TRUNG.doc#_ftn1" name="_ftnref1" title=""><span class="MsoFootnoteReference">1</span></a> Chủ trương của Quang Trung mở rộng thông thương buôn bán với nước ngoài trên cơ sở ổn định và phát triển kinh tế trong nước. Đó là một bước đi hết sức tiến bộ so với sự phát triển của thời đại Nguyễn Huệ. Điều này cho thấy khả năng, sức mạnh và nội lực của triều đại Quang Trung. Bởi lẻ, chủ trương mở cửa này chỉ thực hiện được một khi triều đại được xây dựng trên một nền tảng vững chắc. Uy thế của Quang Trung cùng với những chiến công lừng lẫy trước đó cũng như thành quả bước đầu của công cuộc xây dựng đất nước tạo cho triều đại này một tư thế nhất định trong việc thực hiện đường lối kinh tế mới. Các triều đại phong kiến trong lịch sử với những nguyên do khác nhau<span style="mso-spacerun:yes"> </span>luôn luôn e dè vấn đề mở cửa, mua bán, thông thương với bên ngoài. Nhưng chủ trương của Quang Trung cho thấy một sự khởi sắc mới của thời đại. Suy cho cùng, việc phục hồi kinh tế nông nghiệp trong tình trạng tiêu điều, hoang hóa của đất nứơc trước kia cũng là một đóng góp hết sức to lớn trên con đường phục hưng quốc gia-dân tộc. Còn việc đặt quan hệ buôn bán, thông thương với nước ngoài như nhà Thanh, các thuyền buôn phương Tây là một tiến bộ mới đưa nước ta từng bước khẳng định mình trước thời đại.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">Như vậy, xét ở góc độ kinh tế, Quang Trung đã đặt một nền móng vững chắc cho sự cải cách được khởi sắc. Những chính sách khuyến nông, chính sách thuế khóa giản dị, bước đầu mở cửa thông thương mua bán với bên ngoài trong khi mới dẹp nạn xâm lấn trong Nam, ngoài Bắc<span style="mso-spacerun:yes"> </span>thể hiện một bản lĩnh vững vàn của Quang Trung nói riêng và triều đại của ông nói chung. Vì thế, những đóng góp của Quang Trung là hết sức vĩ đại có thể hiểu như một bước ngoặt của cải cách. Bởi lẻ, xét theo quan niệm hiện thời thì một đóng góp có thể xem như là một cải cách nó phải có sự thay đổi nhảy vọt về chất, thay đổi về cả nội dung lẫn hình thức. Còn xét trong thời đại Quang Trung chỉ tính riêng về mặt kinh tế, nó chỉ là bước phục hồi trở lại những hình thức sản xuất cũ, phương thức sản xuất cũ. Tuy nhiên, về mặt nội dung và cách thức, bước đi nó đã thể hiện những cái mới so với trước. Chính những cái đó, nó làm nô nức lòng dân tộc trong công cuộc xây dựng đất nước cũng như củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào triều đại Tây Sơn. Vì thế những đóng góp trên lĩnh vực kinh tế của Quang Trung là hết sức to lớn và thiết thực. Tính cải cách như chúng ta hiểu theo nghĩa ngày nay – có một sự nhảy vọt về chất không thể hiện một cách thỏa đáng nhưng nó đã đặt nền móng hướng tới cải cách. Nếu lịch sử dành cho Quang Trung chỉ khác đi một chi tiết là ông có thể sống lâu hơn chút nữa thì những đóng góp của ông trên lĩnh vực kinh tế không chỉ có bấy nhiêu đó. Nhưng bánh xe lịch sử không thể quay theo hướng khác được. Do vậy, những gì Quang Trung đặt nền móng trước đó đã không có sự kế thừa. Nhưng không vì thế mà lịch sử có thể phủ nhận những cống hiến của ông.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Nếu ở các lĩnh vực khác luôn luôn có sự xem xét, đắn đo, suy nghĩ và cả những sự tranh cải gay gắt thì các nhà nghiên cứu dường như dễ thống nhất với nhau ở một điểm là những đóng góp của Nguyễn Huệ trên lĩnh vực văn hoá, giáo dục thực sự là những cải cách. Đó là chính sách coi trọng và đề cao chữ Nôm trong giáo dục cũng như trong sáng tác văn chương, các chiếu thư, thi cử…Chữ Nôm mặc dù được xây dựng trên cơ sở chữ Hán nhưng nó đã mang tính cách tân lơn lao, thổi được cái hồn dân tộc vào trong đó. Bởi nó ghi nhận một cách trung thành tiếng nói của người Việt.<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Cho nên, mặc dù chữ Nôm gặp nhiều sự phản đối nhưng nó vẫn sống trong lòng nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Quang Trung đã đưa chữ Nôm vào trong giáo dục, thi cử. Cuối năm 1791, quang Trung cho lập “<b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Sùng chính thư viện”</i></b> do La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp làm viện trưởng, phụ trách gió dục và dịch chữ Hán ra chữ Nôm.<a style="mso-footnote-id:ftn2" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/CAI%20CACH%20QUANG%20TRUNG.doc#_ftn2" name="_ftnref2" title=""><span class="MsoFootnoteReference">2</span></a><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Chính sách coi trọng chữ Nôm của Quang Trung nuôi dưỡng một hoài bảo lớn lao là thay thế chữ Hán bằng tiếng mẹ đẻ trong học tập, thi cử, sáng tác văn chương…mà những đại diện tiêu biểu là Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Lê Ngọc Hân và đặc biệt là Hồ Xuân Hương. Việc phổ cập giáo dục chữ Nôm đã tới tận thôn xã theo <b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Chiếu lập học</i></b>. Còn nội dung giáo dục mang tính thiết thực, sáng tạo thay cho lối học từ chương xáo rỗng trước đó. Năm 1789, Quang Trung mở kỳ thi đầu tiên ở Nghệ An, đặc biệt thanh toán chế độ khoa cử thối nát thời Lê – Trịnh, cũng như thải hồi về địa phương tất cả những sinh đồ ba quan. Những chính sách trên đây chứng tỏ Quang Trung muốn xây dựng một nền học thuật mới mang tính dân tộc, thoát ly từng bước khỏi nền giáo dục khuôn xáo trước đó.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText2" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;line-height:normal"><span style="mso-bidi-font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Đặc biệt đối với tôn giáo, Quang Trung thể hiện một tư tưởng hết sức tiến bộ. Đó là chỉnh đốn lại đội ngũ tăng lữ trong chùa chiền, bắt những kẻ biếng nhác, côn đồ, lưu manh nấp bóng nhà Phật trở về cuộc sống đời thường lao động sản xuất. Riêng đối với đạo Kitô Quang Trung không thể hiện thái độ cấm đạo như các chúa Trịnh-Nguyễn. Ngược lại, ông cho phép các giáo sĩ được truyền đạo, xây dựng nhà thờ và không cho phép ai được xúc phạm đến tính mạng cũng như tài sản của họ. Tất cả, những điều đó cho thấy rằng Quang Trung đã từng bước xây dựng một quốc gia dân tộc với một hình ảnh mới đặc trưng so với sự cai trị bất lực, mục rỗng của các vua chúa Đàng Trong, Đàng Ngoài trước đó. Vì vậy, lịch sử có thể tự hào với những cống hiến của Quang Trung về mặt văn hóa. Bởi chính sự cải cách này đã từng bước khẳng định bản lĩnh quốc gia dân tộc trong thế đối trọng với các nước láng giềng, đặc biệt là Trung Quốc.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tóm lại, với những đóng góp như vậy, thời đại Tây Sơn nói chung và Quang Trung nói riêng đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc phục hưng quốc gia-dân tộc. Những đóng góp đó như đã phân tích có cái thực sự là những cải cách, có lĩnh vực Nguyễn Huệ chỉ phục hồi, đặt tiền đề cho sự phát triển. Nhưng suy cho cùng, ông đã thực sự là một người vĩ đại của dân tộc trên bước đường chinh phục các thế lực thù địch trong nước cũng như ngoài nước; đặc biệt thể hiện trong công cuộc xây dựng Tổ quốc về sau này. Tất nhiên có những vấn đề do sự hạn chế của thời đại mà Quang Trung không thể vượt qua được để đi đến cùng của cải cách. Nhưng sự nghiệp của ông để lại đã thực sự<span style="mso-spacerun:yes"> </span>to lớn và vĩ đại. Vì thế, chúng ta luôn luôn phải hết sức trân trọng những thành quả đó và hết sức kính phục, học tập người xưa trên con đường khám phá, tìm kiếm những chân giá trị của lịch sử.<o:p></o:p></span></p> <div style="mso-element:footnote-list"><!--[if !supportFootnotes]--><br /> <hr align="left" size="1" width="33%"> <!--[endif]--> <div style="mso-element:footnote" id="ftn1"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn1" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/CAI%20CACH%20QUANG%20TRUNG.doc#_ftnref1" name="_ftn1" title=""><span class="MsoFootnoteReference">1</span></a> PGS. TS Nguyễn Phan Quang, Lịch sử Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> từ nguồn gốc đến năm 1884, Tp. HCM, 2000.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn2"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn2" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/CAI%20CACH%20QUANG%20TRUNG.doc#_ftnref2" name="_ftn2" title=""><span class="MsoFootnoteReference">2</span></a> PGS. TS. Nguyễn Phan Qnang, Lịch sử Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> từ nguồn gốc đến năm 1884, Tp. HCM, 2000</p> </div></div>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-87748825616959079662011-04-20T08:15:00.000-07:002011-04-20T08:17:49.539-07:00TIM HIEU TRIET HOC AN DO CO DAI<p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;line-height:normal"><b><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"">Triết học An Độ cổ đại là một trong những tinh hoa tư tưởng của nhân loại. Kinh Upanishad vì thế có một ý nghĩa quan trọng trong lịch sử triết học An Độ. Do vậy, nó luôn được kế thừa và phát triển. Cho nên, chúng tôi thực hiện đề tài này như là bước đầu tìm hiểu những giá trị căn bản của triết học cổ đại An Độ nói chung và kinh Upanishad nói riêng. <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:18.0pt;line-height:normal"><b><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;line-height:normal"><b><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"">1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, Xà HỘI CỦA ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><b><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Thời kỳ cổ đại, đặc biệt từ thế kỷ thứ VI TCN đến thế kỷ thứ I TCN, tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tư tưởng-triết học An Độ phát tirển mạnh mẽ dưới tác động của những biến cố lịch sử.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">An Độ cổ đại xoay quanh hai nền văn minh lớn ở sông An và sông Hằng. Đây là những con sông mang nguồn nước và phù sa về tưới cho cả một vùng rộng lớn ở miền Bắc An, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên và khí hậu của An Độ rất phức tạp với núi non trùng điệp, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những vùng sa mạc khô cằn, nóng nực… Tất cả những yếu tố khó khăn, khắt nghiệt đó đè nặng lên đời sống của người dân An Độ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Về mặt kinh tế: Có sự phát triển vượt bậc, trên cơ sở mở mang thêm các công trình thủy lợi. Đó là cơ sở quan trọng cho quá trình phát triển nông nghiệp của cư dân An Độ cổ đại. Bởi lẽ, các nhà nước phương Đông thường tập trung quanh các con sông lớn như sông Nil (Ai Cập), sông Tiger (Lưỡng Hà), sông Hoàng Hà (Trung Quốc), sông An và sông Hằng (An Độ). Đây là những con sông cung cấp phù sa, độ màu mở cho đất đai canh tác nông nghiệp, hình thành nền văn minh nông nghiệp. Công cuộc khai hoang cũng được mở rộng làm tăng diện tích đất canh tác. Trên cơ sở mở mang các công trình thủy lợi, đất canh tác, tăng cường trồng các loại ngũ cốc, nông nghiệp vì thế phát đạt. Kinh tế tự nhiên chiếm phần ưu thế. Bên cạnh đó, ngành thủ công tương đối phát đạt với các nghề đa dạng: dệt vải, bông, đay, sợi, tơ lụa, nghề luyện sắt, làm đồ gỗ, gốm sứ, làm đồ trang sức… Thương nghiệp, buôn bán cũng phát triển ở An Độ cổ đại. Từ đó trong lòng quốc gia này hình thành nên một tầng lớp mới là thương gia và thợ thủ công. Tiền tệ xuất hiện. Nhiều thành phố trở thành những trung tâm công thương nghiệp quan trọng. Mạch buôn bán, thông thương trong và ngoài nước được kết nối và phát triển. Thời kỳ cổ đại, các con đường thương mại thủy bộ nối liền An Độ với các quốc gia Trung Hoa, Ai Cập, các nước Trung Á cũng xuất hiện. Cho nên, nhìn một cách tổng thể thì thời kỳ cổ đại An Độ là một trong những trung tâm kinh tế phát đạt của phương Đông.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Xã hội An Độ: đặc trưng với chế độ đẳng cấp gọi là chế độ "<st1:city st="on"><st1:place st="on">Varna</st1:place></st1:city>". Chế độ "<st1:city st="on"><st1:place st="on">Varna</st1:place></st1:city>" đã góp phần qui định cơ cấu xã hội và ảnh hưởng nhiều đến hình thái tư tưởng An Độ cổ đại. Đó là chế độ xã hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc màu da, dòng dõi, tôn giáo, hôn nhân…hình thành trong quá trình người Arya chinh phục thống trị người Dravida cũng như cả trong quá trình phân hóa xã hội người Arya giữa quý tộc và thường dân. Thời kỳ này, An Độ tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ gia trưởng và nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền kiểu phương Đông. Trong đó quyền lực của các bậc đế vương được đảm bảo trên cơ sở sở hữu lớn về ruộng đất. Theo thánh kinh Bàlamôn và Bộ luật Manu về cơ bản, xã hội An Độ phân chia thành bốn đẳng cấp lớn; đứng đầu là đẳng cấp tăng lữ, lễ sư Bàlamôn (Brahmana), thứ hai là đẳng cấp vương công, vua chúa, tướng lãnh, võ sĩ (Kshatriya), thứ ba là đẳng cấp thương nhân, điền chủ và thường dân Arya (Vaishya), thứ tư là đẳng cấp tiện dân và nô lệ (Shudra, Sudra). Ngoài bốn đẳng cấp trên còn có những người bị coi là ngoài đẳng cấp xã hội. Đó là tầng lớp người cùng đinh, hạ đẳng, Paria, như người Chandala. Chế độ đẳng cấp và thể chế xã hội luôn đè nặng lên đời sống người dân An Độ. Việc phân chia xã hội thành những đẳng cấp với những tính chất khắt khe, nghiệt ngã của nó đụng chạm đến quyền lợi của các tầng lớp người trong xã hội: như thương nhân, thợ thủ công và nông dân. Nó ngăn cãn con đường phát triển của xã hội. Vì thế trong xã hội An Độ cổ đại đã dậy lên một làn sóng phản đối sự thống trị đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp làm rung động cả nông thôn lẫn thành thị. Mặt khác, sự tồn tại day dẳng của những công xã nông thôn trong đó các đế vương nắm quyền lực vô hạn về sở hữu ruộng đất và thần dân cũng đã đè nặng lên đời sống của người dân An Độ. Do vậy, triết học, tôn giáo thời kỳ này đều tập trung vào việc lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm cách giải thoát con người khỏi những lo âu, khổ não của đời sống mà họ đang gánh chịu. Trong đó, người nô lệ có một cuộc sống khổ sai cùng cực. Vì thế, xã hội chiếm hữu nô lệ gia trưởng An Độ chứa đựng đầy rẫy những mâu thuẫn, phức tạp.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Về khoa học An Độ cổ đại khá phát triển. Thiên văn học xuất hiện; người An Độ biết sáng tạo ra lịch pháp, giải thích dược hiện tượng nhật thực, nguyệt thực. Về toán học: người An Độ đã phát minh ra chữ số thập phân, tính được số pi, giải phương trình bậc 2,3… Y học An Độ cũng ra đời rất sớm. Những thành tựu khoa học giúp con người khám phá, cải tạo tự nhiên và là cơ sở hình thành thế giới quan triết học duy vật và những tư tưởng biện chứng tự phát.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Văn hóa-nghệ thuật: Những công trình kiến trúc độc đáo cùng với những thành tựu văn hóa rực rỡ thời cổ đại vừa có ý nghĩa triết học, tôn giáo vừa biểu hiện tinh thần, ý chí, tình cảm… của người An Độ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tất cả những đặc điểm lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội cùng với sự phát triển rực rỡ của văn hóa, khoa học An Độ cổ đại là những tiền đề lý luận và thực tiễn phong phú làm nẩy sinh và phát triển những tư tưởng triết học thời cổ đại.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;line-height:normal"><b><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"">2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRONG KINH UPANISHAD<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tư tưởng triết học An Độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên niên kỷ thứ II đầu thiên niên kỷ thứ I TCN bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo; thờ vật tổ - totemisme và tín ngưỡng vật linh animisme. Những tư tưởng triết học An Độ thực sự xuất hiện thời Upanishad (thế kỷ X-VI TCN). Đầu thế kỷ X TCN, đạo Rig-Véda, hình thức đầu tiên của An Độ giáo, một thứ tôn giáo có tính chất đa thần, tự nhiên dựa trên tư tưởng triết lý của thánh kinh Véda, sau đóđạo Bàlamôn dựa trên triết lý của Upanishad và chế độ đẳng cấp, tôn thờ thần tối cao, toàn năng - Brahma, sáng tạo và chi phối vũ trụ ra đời. Những kinh Upanishap: là những kinh sách bình chú tôn giáo - triết học, giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của tư tưởng thần thoại, tôn giáo Véda, trong đó nêu lên những lập luận khái quát về "đấng sáng tạo tối cao", về "tinh thần thế giới vô ngã" Brahman và bản chất tâm linh con người.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Trong kinh Upanishad, những nguyên lý trừu tượng khái quát giải thích căn nguyên và bản chất của vũ trụ bằng một "đấng sáng tạo" duy nhất, bằng "tinh thần thế giới vô ngã", tuyệt đối, tối cao. Tư tưởng ấy được tìm thấy trong các bài thánh kinh Rig-Véda nói về khởi nguyên của vũ trụ gọi là Nasadiya. Triết lý An Độ đã vạch ra cái chung, cái bản chất với nguyên lý trừu tượng để giải thích về căn nguyên của vũ trụ. Đó cũng là xu hướng tất yếu của tư tưởng triết học An Độ về sau này. Trong đó ba vị thần: Brahma (sáng tạo), thần Shiva (Hủy diệt) và Vishu (Bảo vệ) như trong kinh Upanishad, trong Bhagavad-Gita. Ba vị thần này thể hiện sự thống nhất của vũ trụ theo một qui trình: sáng tạo-bảo tồn-hủy diệt và ngược lại.<a style="mso-footnote-id:ftn1" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/TRIET%20HOC%20AN%20DO%20CO%20DAI.doc#_ftn1" name="_ftnref1" title=""><span class="MsoFootnoteReference">1</span></a> Tóm lại, tư tưởng triết học trong kinh Upanishad - một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh Véda. Nó là những lời bình giải tôn giáo triết học cổ An Độ về các lẽ thiết yếu, ý nghĩa triết lý sâu sa của các bài kinh, các nghi lễ cũng như các bản thần thoại Véda được biên soạn qua nhiều thế kỷ, bởi các tông phái, các đạo sĩ trong những hoàn cảnh, địa phương khác nhau.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Triết gia Schopenhauer cho rằng" Khắp thế giới không có gì ích lợi, nâng cao tâm hồn con người bằng các Upanishad. Nó an ủi đời sống của tôi, nó sẽ an ủi tôi khi tôi chết". Theo đó, chúng ta nhận thấy một điều rằng: Upanishad là tác phẩm triết lý và tâm lý cổ xưa nhất không chỉ có ý nghĩa sâu xa nhất đối với triết học An Độ cổ đại mà còn có một giá trị lớn lao đối với nhân loại. Do đó, nó luôn được kế thừa và bảo tồn trong nền triết học An Độ, là một bộ phận quan trọng, tinh hoa trong tư tưởng nhân loại.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Upanishad có nghĩa là ngồi trang nghiêm cùng giảng giải lý thuyết cao siêu, huyền bí với thầy. "Shad": ngồi, "Upa": gần, "Ni": trang nghiêm. Upanishad được viết dưới hình thức hội thoại giữa các ông thầy với trò chứ không trình bày theo hệ thống các quan điểm triết học chặt chẽ trong một trường phái nhất định. Upanishad có tới hơn 200 bài kinh. Mười bài đầu người ta cho là cổ xưa nhất có nguồn gốc từ kinh Véda được viết vào khoảng thế kỷ thứ X-VI TCN. Sự xuất hiện của Upanishad được coi là "bước nhảy" hoàn toàn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo sang tư duy triết học.<a style="mso-footnote-id: ftn2" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/TRIET%20HOC%20AN%20DO%20CO%20DAI.doc#_ftn2" name="_ftnref2" title=""><span class="MsoFootnoteReference">2</span></a><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Upanishad cho rằng: nhận thức của con người chia thành hai trình độ: Hạ trí (aparâ - vidây), và Thượng trí (parâ - vidây). Hạ trí phản ánh sự vật, hiện tượng riêng lẻ, có hình dạng, thanh sắc đa dạng… bao gồm các tri thức khoa học, nghệ thuật. Hạ trí cũng có vai trò và công dụng của nó đối với nhận thức, là phương tiện cần thiết đưa con người hiểu biết thượng trí. Còn thượng trí là trình độ vượt qua cái thế giới hữu hình, hữu hạn, thường xuyên biến đổi để nhận thức thực tại tuyệt đối, duy nhất, bất diệt (aksara), vô hình và bản chất của tất cả những cái đang tồn tại.<a style="mso-footnote-id:ftn3" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/TRIET%20HOC%20AN%20DO%20CO%20DAI.doc#_ftn3" name="_ftnref3" title=""><span class="MsoFootnoteReference">3</span></a><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Nội dung căn bản trong các Upanishad chứa đựng những câu hỏi về bản nguyên tồn tại của thế giới và đặc biệt là hình ảnh, sự sống của con người trong đó. Upanishad đã đưa ra cách lý giải bản nguyên của thế giới này là "tinh thần vũ trụ tối cao" Brahman, là thực thể duy nhất, có trước nhất, tồn tại vĩnh cửu, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và nhập về với nó khi chết đi. Trong Chândogya Upanishad III, 14,1 lý giải: Linh hồn con người (Atman) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của "tinh thần tối cao". Thể xác chỉ là vỏ bọc của linh hồn, là nơi trú ngụ, hiện thân của tinh thần tối cao, tuyệt đối, bất tử Brahman. Upanishad thừa nhận một điều:" toàn bộ vũ trụ là Brahman, toàn thể vũ trụ tiềm ẩn trong lòng ta, đó là Brahman". Trong vũ trụ từ cái vô cùng lớn đến cái vô cùng nhỏ đều là biểu hiện của một cái tối cao, tuyệt đối, duy nhất Brahman. Đó là bài học quan trọng đầu tiên của các đệ tử khi đến với Upanishad. Upanishad luôn khẳng định một điều rằng: trí tuệ con người không phải là vô ích. Nhưng trước cái bao la, cao siêu của vũ trụ thì trí tuệ có một địa vị rất khiêm tốn. Tuy nhiên, nó cũng giúp chúng ta nhận biết sự vật, hiện tượng và các mối liên quan giữa chúng.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Atman (linh hồn thế giới) không phải là cái có thể nhận thức hết thông qua học hỏi. Bởi ta nhận thấy bản thể cái "ngã" của ta không phải là thể chất, không phải là tinh thần, cũng không phải là cá nhân. Nhưng nó cũng sâu thẳm, vô hình, vô thanh ở trong nội tâm ta. Đó là Atman - giai đoạn thứ nhất của nhận thức. Còn giai đoạn thứ hai là Brahman: linh hồn của vũ trụ, bản thể của thế giới là vô hình, vô sắc, vô thanh. Nó xâm nhập tất cả, không có cá tính, nhưng có trung tính. Brahman là linh hồn bất diệt, không bao giờ chết. Nó là linh hồn của mọi vật cũng như Atman là linh hồn của mọi linh hồn; nó là sức mạnh duy nhất vượt ra khỏi, vừa ở trên vừa ở dưới mọi sức mạnh và mọi vị thần. Giai đoạn thứ ba quan trọng nhất: Atman và Brahman chỉ là một. Thiên - Nhân đồng nhất. Một vị tôn sư đã diễn đạt ý đó trong ngụ ngôn bất hủ dưới đây:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">"Đem lại cho ta một trái sung<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Thưa tôn sư, đây<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Bửa nó ra<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Thưa tôn sư, con bửa rồi đây<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Con thấy gì?<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Thưa tôn sư, con thấy nhiều hột nhỏ<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Cắt một hột đi<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Thưa tôn sư, con cắt rồi đây<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Con thấy gì?<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Thưa tôn sư, con chẳng thấy gì cả<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Đúng vậy, đấy, con, chính từ cái bản thể tế vi đó, phải, chính từ cái bản thể tế vi đó mà phát sinh ra cây sung lớn. Con tin thầy đi, chính cái bản thể tế vi đó là linh hồn của cả vũ trụ. Nó chính là cái Thực thể. Chính là Atman: Tat tavam asi - chính là con đấy, Shewetaketu ạ"<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">"Thưa tôn sư, con có cần phải hiểu thêm gì về điều đó nữa không?"<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">"Thôi đấy nhiêu thôi"<a style="mso-footnote-id:ftn4" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/TRIET%20HOC%20AN%20DO%20CO%20DAI.doc#_ftn4" name="_ftnref4" title=""><span class="MsoFootnoteReference">4</span></a><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Đoạn biện luận về Atman Brahman và sự tổng hợp Atman và Brahman được các Upanishad lặp đi lặp lại lý thuyết này để ghi sâu vào đầu óc của các tín đồ. Chính thuyết này là tinh tuý của Upanishad. Đành rằng trong các Upanishad còn nhiều thuyết khác nữa. Tóm lại, dẫu quanh co, rắc rối như thế nào đi nữa thì chung qui lại cái bản ngã( Atman) là linh hồn. Linh hồn ấy cũng đồng nhất của linh hồn vũ trụ, do đó linh hồn con người cũng sáng tạo ra thế giới.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Trong Upanishad quan niệm, linh hồn (Atman) tồn tại trong thể xác trần tục với những ham muốn, dục vọng và hành động của con người nhằm thỏa mãn những ham muốn trong đời sống trần gian đã gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và kiếp sau, gọi là nghiệp báo Karma. Vì vậy, linh hồn cứ bị giam hãm trong thể xác không nhận ra và không trở về đồng nhất với Brahman. Do vậy, muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của nghiệp báo, luân hồi, thoát khỏi sự chi phối của đời sống ham muốn dục vọng… để trở về với Brahman thì con người phải dốc lòng tu luyện hành động và tu luyện tri thức. Bằng nhận thức trực giác, thực nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản của mình. Lúc đó, linh hồn bất tử mới đồng nhất với "linh hồn vũ trụ tối cao" và bắt đầu siêu thoát (moksa).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tóm lại, từ khi hình thành và phát triển triết học suy cho cùng xoay quanh hai vấn đề lớn là trả lời câu hỏi về sự tồn tại của vũ trụ-con người và mối quan hệ giữa linh hồn, thể xác và vũ trụ. Upanishad là một cách trả lời về cái gì là thực tại cao nhất, là căn nguyên của tất cả khi nhận thức về nó, người ta sẽ nhận thức được mọi cái còn lại và có thể giải thoát được linh hồn khỏi sự lo âu khổ não của đời sống trần tục và sự ràng buộc của thế giới biến ảo, vô thường. Đó chính là tinh thần vũ trụ tối cao Brahman duy nhất và bất diệt.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;line-height:normal"><b><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman"">3. Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ</span></b><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Với nội dung triết lý phong phú như vậy, kinh Upanishad trở thành nguồn gốc của hết thảy các quan điểm và hệ thống triết học An Độ sau này.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Tư tưởng triết học của Upanishad được đa số các trường phái triết học duy tâm sau này kế thừa. Những trường phái này tìm thấy trong đó uy thế tối cao của mình - cái uy thế mà họ cho là không có nguồn gốc từ hiện thực, mà là sự linh báo thần linh.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Ơ Upanishad mới bắt đầu có những câu hỏi và những lời giải đáp mang tính triết học. Đó là những vấn đề căn bản của triết học sau này: về con người với sự tồn tại của linh hồn, thể xác, về bản nguyên của vũ trụ… Sự ra đời của kinh Upanishad vì thế thực sự trở thành một bước "nhảy vọt" từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo sang thế giới quan triết học. Kinh Upanishad thể hiện cách nhìn nhận, quan niệm về thế giới, con người, thần linh, linh hồn… Quan trọng nhất là Upanishad đã trả lời được cái thực tại cao nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ nhận thức được cái còn lại và giải thoát linh hồn khỏi sự ràng buộc của đời sống trần tục.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Trong kinh Upanishad thể hiện một quan niệm duy tâm tôn giáo: Thiên - Nhân đồng nhất mà về sau các tư tưởng triết học cổ đại An Độ kế thừa. Đó là "tinh thần tối cao", duy nhất, tuyệt đối, bất diệt, vĩnh viễn Brahman - Linh hồn của vũ trụ. Vũ trụ bao la như vậy đã vượt quá tầm hiểu biết của con người. Con người với những ham muốn trần tục, bị kiềm hãm trong thể xác tội lỗi rất khó siêu thoát. Bởi lẽ, con người không dễ dàng từ bỏ những mong ước, ham muốn trần tục của mình nên luôn luân hồi trong vòng đau khổ. Chỉ khi nào con người nhận biết được mình là một thực thể bé nhỏ tồn tại trong tinh thần vũ trụ bao la Brahman và từ bỏ những dục vọng, những ham muốn tội lỗi thì mới trở về với Brahman và siêu thoát. Triết lý đó ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng triết học An Độ cổ đại trong Bàlamôn, Hinđu giáo.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Triết lý duy tâm tôn giáo Upanishad đã đóng vai trò là cơ sở lý luận cho đạo Bàlamôn cũng như đạo Hindu ở An Độ cổ đại. Upnishad cùng với triết lý Véda và đạo Bàlamôn đã trở thành hệ thống tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần ở An Độ cổ đại.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Suy cho cùng, kinh Upanishad có nội dung duy tâm sâu sắc và biện minh cho học thuyết duy tâm cổ đại. Đó cũng là một cách nhìn nhận về thế giới, vũ trụ và con người - những vấn đề kinh điển, đầu tiên và cơ bản của triết học. Thế giới thần linh trong kinh Upanishad dần mờ nhạt. Những nguyên lý trừu tượng, khái quát, giải thích căn nguyên và bản chất của vũ trụ bằng một đấng sáng tạo duy nhất, bằng tinh thần thế giới vô ngã. Từ thế giới đa thần, kinh Upanishad đã thống nhất trong tinh thần tuyệt đối Brahman. Như vậy, tư tưởng triết học An Độ cổ đại đã dần khám phá ra cái chung, cái bản chất của sự vật hiện tượng đa dạng phong phú ẩn đằng sau hiện thực. Thế giới hiện thực vì thế thống nhất với tinh thần vũ trụ tối cao và con người. Con người và vũ trụ, thiên nhiên có sự giao hòa, đồng nhất với nhau. Đó là tinh thần cao nhất của kinh Upanishad. Tinh thần đó thấm nhầm trong lịch sử triết học An Độ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:18.0pt;line-height:normal"><b><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;line-height:normal"><b><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;line-height:normal"><b><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">TÀI LIỆU THAM KHẢO<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;line-height:normal"><b><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:36.0pt;text-indent:-18.0pt;line-height:normal;mso-list:l0 level1 lfo1; tab-stops:list 36.0pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">1.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Bộ giáo dục và đào tạo, <b><i>Triết học Mác - Lênin</i></b>, (tập I), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:36.0pt;text-indent:-18.0pt;line-height:normal;mso-list:l0 level1 lfo1; tab-stops:list 36.0pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">2.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Bộ giáo dục và đào tạo, <b><i>Triết học </i></b>(tập I), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,2001.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:36.0pt;text-indent:-18.0pt;line-height:normal;mso-list:l0 level1 lfo1; tab-stops:list 36.0pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">3.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">GS. Nguyễn Gia Phu, <b><i>Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>,</i></b> ĐHTH Tp. HCM, 1996.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:36.0pt;text-indent:-18.0pt;line-height:normal;mso-list:l0 level1 lfo1; tab-stops:list 36.0pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">4.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Will Durant - Nguyễn Hiến Lê (dịch), <b><i>Lịch sử văn minh An Độ</i></b>, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2003 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt; font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span style="font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <div style="mso-element:footnote-list"><!--[if !supportFootnotes]--><br /> <hr align="left" size="1" width="33%"> <!--[endif]--> <div style="mso-element:footnote" id="ftn1"> <p class="MsoFootnoteText" style="text-align:justify"><a style="mso-footnote-id: ftn1" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/TRIET%20HOC%20AN%20DO%20CO%20DAI.doc#_ftnref1" name="_ftn1" title=""><span class="MsoFootnoteReference">1</span></a> B<span style="font-family:"Times New Roman"">ộ</span> giáo d<span style="font-family:"Times New Roman"">ụ</span>c và đào t<span style="font-family: "Times New Roman"">ạ</span>o, Tri<span style="font-family:"Times New Roman"">ế</span>t h<span style="font-family:"Times New Roman"">ọ</span>c (t<span style="font-family:"Times New Roman"">ậ</span>p I), NXB Chính tr<span style="font-family:"Times New Roman"">ị</span> qu<span style="font-family:"Times New Roman"">ố</span>c gia, Hà N<span style="font-family:"Times New Roman"">ộ</span>i, 2001, tr 25-29.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn2"> <p class="MsoFootnoteText" style="text-align:justify"><a style="mso-footnote-id: ftn2" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/TRIET%20HOC%20AN%20DO%20CO%20DAI.doc#_ftnref2" name="_ftn2" title=""><span class="MsoFootnoteReference">2</span></a> B<span style="font-family:"Times New Roman"">ộ</span> giáo d<span style="font-family:"Times New Roman"">ụ</span>c và đào t<span style="font-family: "Times New Roman"">ạ</span>o, Sách đã d<span style="font-family:"Times New Roman"">ẫ</span>n, tr 38</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn3"> <p class="MsoFootnoteText" style="text-align:justify"><a style="mso-footnote-id: ftn3" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/TRIET%20HOC%20AN%20DO%20CO%20DAI.doc#_ftnref3" name="_ftn3" title=""><span class="MsoFootnoteReference">3</span></a> B<span style="font-family:"Times New Roman"">ộ</span> giáo d<span style="font-family:"Times New Roman"">ụ</span>c và đào t<span style="font-family: "Times New Roman"">ạ</span>o, Sách đã d<span style="font-family:"Times New Roman"">ẫ</span>n, tr 38</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn4"> <p class="MsoFootnoteText" style="text-align:justify"><a style="mso-footnote-id: ftn4" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/TAI%20LIEU/TRIET%20HOC%20AN%20DO%20CO%20DAI.doc#_ftnref4" name="_ftn4" title=""><span class="MsoFootnoteReference">4</span></a> Will Durant - Nguy<span style="font-family:"Times New Roman"">ễ</span>n Hi<span style="font-family:"Times New Roman"">ế</span>n Lê (d<span style="font-family: "Times New Roman"">ị</span>ch), L<span style="font-family:"Times New Roman"">ị</span>ch s<span style="font-family:"Times New Roman"">ữ</span> v<span style="font-family: "Times New Roman"">ă</span>n minh An <span style="font-family:"Times New Roman"">Độ</span>, NXB V<span style="font-family:"Times New Roman"">ă</span>n hóa thông tin, Hà N<span style="font-family:"Times New Roman"">ộ</span>i, 2003, tr 66-67.</p> </div></div>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-41225686343405065182011-04-20T08:13:00.000-07:002011-04-20T08:15:36.307-07:00VAN HOA SONG NUOC O VIET NAM<p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-indent:0cm;line-height:120%"><b><span style="font-family:"Times New Roman"">I. GIỚI THIỆU SÔNG NƯỚC VIỆT NAM<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Đất nước Việt Nam có một nguồn tài nguyên thiên vô cùng phong phú: rừng vàng, biển bạc, ruộng lúa phì nhiêu, cây cối xanh tươi bốn mùa đơm hoa kết trái. Con người Việt Nam có một lòng yêu quê hương đất nước thật nồng nàn tha thiết; chính từ tình yêu quê hương tha thiết ấy đã hình thành trong tâm hồn người dân Việt một tình cảm gắn bó sâu đậm với thiên nhiên, sống hòa mình vào thiên nhiên tươi đẹp muôn màu muôn vẻ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết nắng ẩm mưa nhiều nên đất nước Việt Nam có một hệ thống sông ngòi đa dạng, chằng chịt, được phân bố rải rác khắp nơi. Hầu như miền nào, vùng nào cũng có sông nước, kênh rạch. Những con sông thơ mộng, hiền hòa vẫn hàng ngày, hàng giờ gắn liền với cuộc sống bình dị của người dân, mang dòng nước tắm mát cho đời. Những con sông mà tên tuổi đã theo người Việt Nam vào những trang sử thắng giặc ngoại xâm hào hùng và oanh liệt. Những con sông đã tạo nên nguồn cảm hứng cho những áng thơ văn bất hủ trong nền văn thơ nước nhà.<span style="color:black;background:aqua;mso-highlight:aqua"><o:p></o:p></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Hình ảnh sông nước hiện diện ở khắp mọi nơi trên mảnh đất Việt Nam. Mãi tận vùng đồi núi phía Bắc là con sông Kỳ Cùng, con sông bắt nguồn từ miền Đông Bắc nước ta, chảy ngược lên phía Bắc đổ vào sông Tây Giang ở Trung Quốc; con sông Lục Nam bắt nguồn từ Trung Quốc là con sông lớn nhất khu vực này. Tuy nhiên, ở vùng đồng bằng Bắc bộ, con sông lớn nhất là sông Hồng, nó bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn, gần hồ Đại Lý (Vân Nam - Trung Quốc) chảy vào nước ta ở vùng Hà Khẩu (Lào Cai), lưu lượng sông rất lớn (từ 700m³/s đến 28.000 m³/s), hàng năm chuyển tải một khối lượng phù sa lớn (130 triệu tấn) lấp dần vịnh Biển Đông để tạo nên một đồng bằng rộng lớn, màu mỡ (hơn 15.000km²). Cùng với sông Hồng, sông Thái Bình cũng là một con sông lớn, bù đắp phù sa cho miền đồng bằng Bắc Bộ. Sông Đà, thường vẫn được coi là nhánh của sông Hồng, nhưng trong thực tế, hằng năm sông này cung cấp đến gần một nửa tổng lượng nước của hệ thống sông Hồng hợp lại. Khả năng cung cấp năng lượng thủy điện cho nhiều vùng rộng lớn ở miền Bắc do trữ năng lý thuyết của toàn bộ khu vực có thể đạt đến 59,30 tỷ Kwh. Ngoài ra, còn một số con sông là phụ lưu của sông Hồng như sông Lô, sông Gâm, sông Chảy, sông Thao, sông Đáy.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Sông Bạch Đằng hiểm yếu mà hùng vĩ, chảy giữa hai huyện Hưng Yên (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng), cách Vịnh Hạ Long khoảng 40km. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Xuôi một chút về miền Bắc Trung Bộ, con sông Mã bắt nguồn từ Tuần Giáo và Pu Sam chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và đổ ra Biển Đông. Cùng với sông Chu, phù sa của sông Mã đã tạo nên đồng bằng Thanh Hóa. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Sông Cả (hay sông Lam) cũng góp phần tạo nên những đồng bằng nhỏ ở Nghệ An.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Chảy hiền hòa trong thành phố Huế, vùng đất kinh kỳ xưa, là con sông Hương thơ mộng. Sông Hương với các phụ lưu của nó là sông Bồ, Hữu Trạch và Tả Trạch uốn khúc qua đồng bằng Huế để chảy ra phá Thuận An, đồng bằng này nằm kéo dài dọc theo một dãy đầm và phá dài hơn 70km, rộng hơn 10km và sâu chừng 10m.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Đà Nẵng có con sông Hàn, sông Thu Bồn; Quảng Ngãi có con sông Trà Khúc, Trà Bồng; Phú Yên có sông Đà Rằng; sông Cái ở Nha Trang, sông Trà Dục chảy xuống Ba Ngòi (Cam Ranh), sông Lũy ở Phan Rí… Tất cả các con sông ở miền Trung đều ngắn, rất khó khăn cho việc lưu thông.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Tây Nguyên có sông Aydun và sông Ba, sông Sêrêbôc…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Miền Đông Nam bộ có hệ thống sông Đồng Nai, có một mạng lưới sông nhánh khá rậm rạp, trong đó các nhánh chính là sông La Ngà ở tả ngạn, sông Bé, sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ ở hữu ngạn. Do bắt nguồn từ những hướng khác nhau nên tạo cho hệ thống sông một lưu vực rộng lớn. Bản thân sông Đồng Nai lại bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên sau chỗ hợp lưu của hai sông Đa Đưng và Đa Nhim. Tổng lượng nước mặt lên đến 30 tỷ m³/năm.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Đồng bằng Tây Nam Bộ là vùng đồng bằng rộng lớn nhất nước ta được bồi đắp bởi phù sa của con sông Cửu Long (sông Mê Kông). Bắt nguồn từ Campuchia, sông Cửu Long chia ra làm hai nhánh chính: sông<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tiền và sông Hậu tạo nên những vùng đất đai màu mỡ và trù phú.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Trên đây chỉ mới liệt kê ra tên của một số con sông nổi tiếng và quan trọng trong hệ thống sông ngòi có đến 2.860 con sông có chiều dài từ 10km trở lên ở Việt Nam. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Hệ thống sông ngòi chằng chịt với nhiều sông lớn này đã góp phần tạo nên cho Việt Nam một nguồn sống, một nguồn kinh tế dồi dào. Hơn thế nữa, hệ thống sông ngòi trải đều trên khắp miền đất nước đã tạo nên một bản sắc văn hóa rất riêng cho Việt Nam, bản sắc văn hóa của cư dân văn minh lúa nước, của trong lịch sử.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent2" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;text-indent:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman";text-decoration:none;text-underline:none">II. TÁC ĐỘNG CỦA SÔNG NƯỚC TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN VIỆT NAM<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Đối với người dân Việt Nam, sông nước có những lợi ích vô cùng quan trọng trong đời sống hàng ngày cũng như trong sự phát triển văn hóa, kinh tế.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Nhiều dòng sông là nguồn cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và đời sống hàng ngày của người dân.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Ở các công trình thủy lợi, các con sông là nguồn nước tưới tiêu quan trọng cho cây cối, ruộng đồng, bảo đảm lương thực cho đời sống của người dân.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Sông nước là nguồn cung cấp năng lượng quan trọng cho các công trình thủy điện.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Sông nước còn là nơi cung cấp nguồn thủy hải sản phong phú. Hàng năm, các con sông, các vùng biển ở Việt Nam cung cấp hàng vạn tấn cá tôm phục vụ cho xuất khẩu ra nước ngoài và cho nhu cầu thực phẩm của người dân.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Sông nước còn là huyết mạch giao thông quan trọng cho nhu cầu đi lại của người dân. Sông nước còn là đầu mối thông thương trong nước cũng như ngoài nước. Các cảng sông, cảng biển được thiết lập để phục vụ cho nhu cầu giao lưu, buôn bán giữa các vùng, là nơi giao thương với các quốc gia khác.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Việt Nam có bờ biển chạy dọc theo suốt chiều dài của đất nước, là nguồn cung cấp muối, nguồn cung cấp khoáng sản phục vụ cho phát triển kinh tế, phục vụ cho nhu cầu thiết yếu trong đời sống của người dân.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Sự hình thành của các vùng đồng bằng châu thổ là do phù sa của các dòng sông bồi đắp, là “món quà của các dòng sông”. Hàng năm phù sa các con sông Hồng và sông Cửu Long đã bồi đắp để hình thành thêm các vùng châu thổ rộng lớn. (Mỗi năm, phù sa sông Cửu Long bồi đắp thêm ra hàng trăm mét).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Bên cạnh việc mang lại những lợi ích thiết thực trong đời sống như trên, hàng năm, vào mùa mưa bão, các con sông dâng nước gây lũ lụt làm thiệt hại rất nhiều về người và của.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-indent:0cm;line-height:120%"><b><span style="font-family:"Times New Roman"">III. CÁCH THỨC ỨNG XỬ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỐI VỚI SÔNG NƯỚC<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Con người Việt Nam vốn có tinh thần cần cù, chịu thương, chịu khó và một trí thông minh tuyệt vời. Chính bản chất ưu việt này đã giúp con người Việt Nam có được những phương thức ứng xử rất đa dạng, rất riêng biệt đối với thế giới tự nhiên. <i style="mso-bidi-font-style:normal"><o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Với trí thông minh của mình, ngay từ thời xa xưa trong lịch sử, ông cha ta đã nắm bắt được các quy luật của giới tự nhiên, dựa trên các quy luật này bắt tự nhiên phục vụ cho cuộc sống của chính mình. Những sáng kiến ấy được áp dụng trong mọi hoàn cảnh và mọi thời gian. Điều này đã được minh chứng một cách hùng hồn trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc qua hai trận chiến thắng lẫy lừng trên sông Bạch Đằng. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Lần thứ nhất là vào năm 938, dưới sự chỉ huy tài ba của Ngô Quyền, với sự đồng lòng góp sức của toàn dân, những chiếc cọc nhọn đã được chôn xuống lòng sông Bạch Đằng, nắm bắt được quy luật lên xuống của thủy triều dụ chiến thuyền địch rơi vào thế trận bày sẵn của quân ta làm nên trận chiến thắng lẫy lừng mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ cho dân tộc. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Lần thứ hai là vào năm 1288, khi quân Nguyên Mông thế mạnh như thác lũ, mang vó ngựa trường chinh với mưu đồ chinh phạt toàn thế giới, đang chiến thắng như chẻ tre từ Âu sang Á, mang đạo quân hùng mạnh ấy sang thôn tính nước ta. Ngờ đâu, gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của quân và dân ta dưới tài chỉ huy của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, trận Bạch Đằng lần thứ hai đã dìm tinh thần và khí thế của đạo quân Nguyên Mông xuống tận đáy sông sâu. Chiến thắng liệt oanh này đã đưa tên Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn vào hàng ngũ những tướng chỉ huy tài ba nhất thế giới qua mọi thời đại.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Không phải chỉ biết dùng sức nước để đánh giặc, dân tộc Việt Nam còn biết lợi dụng sức mạnh của các sông nước phục vụ cho đời sống sản xuất và sinh hoạt hàng ngày. Những con sông lớn có dòng nước chảy xiết, những dòng thác lớn là nơi thuận tiện để thiết lập các nhà máy thủy điện, cung cấp năng lượng, mang lại nguồn sáng văn minh cho con người. Nhân dân ta đã xây dựng hai nhà máy thủy điện năng suất cao là Nhà máy thủy điện sông Đà trên lưu vực sông Đà và Nhà máy thủy điện Trị An trên sông Đồng Nai cũng chính là từ nắm bắt được quy luật của tự nhiên, nắm bắt được sức mạnh của sông nước. Đã có rất nhiều nhà máy thủy điện tiếp tục được xây dựng để phục vụ cho đời sống của nhân dân và cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà như thủy điện Thác Bà, Thác Mơ, Đa Nhim…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Ở vùng đồi núi phía Bắc, những dòng điện thu được từ dòng suối uốn khúc quanh co như ở ngay đồng bằng, làm thắp cháy những bóng điện không chỉ trong thị trấn nhỏ đẹp mà còn cả trong các làng bản bao quanh, làm hoạt động các máy bơm nước khi hạn hán đe dọa các thửa ruộng nằm trên các bậc thềm cao và các máy nông nghiệp đơn giản khác. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Ở những vùng sông nước bị nhiễm mặn, nhiễm phèn, những vùng thường xuyên bị khô hạn, người ta xây dựng những công trình thủy lợi ngăn ngừa lụt ở các con sông lớn, đem nước vào những ruộng cao, tháo nước vào những vùng đồng thấp, thau chua rửa mặn tạo nguồn nước ngọt cung cấp nguồn nước tưới tiêu phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Với địa hình sông nước dày đặc rải rác khắp mọi nơi trên đất nước, người dân Việt Nam phải đối đầu với những hiểm họa do thiên tai gây ra. Hàng năm, thiên tai đã đã gây ra thiệt hại nhiều về người và của, trong đó thiên tai do nước gây ra là lớn nhất. Có đến trên 70% dân số của Việt Nam có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi thiên tai do nước gây ra. Vào những năm trời mưa bão lớn cộng với sự dâng cao của thủy triều từ các con sông liên tiếp gây ra các trận lũ lụt nặng nề. Lũ lụt cuốn trôi nhà cửa, làm chết người và súc vật, có thể làm tràn nước mặng vào đồng ruộng. Để khắc phục và đối phó với hiểm họa thiên tai do lũ lụt gây ra người dân Việt Nam ở các miền khác nhau lại có những cách đối phó và thích ứng khác nhau.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, nhân dân ta đã tiến hành đắp đê phòng chống lũ lụt. Đê điều là một công trình hết sức công phu, được đắp bằng tay, tốn biết bao công sức, của cải của nhân dân phải trải qua thời gian dài mấy trăm năm mới được như ngày hôm nay.. Với hơn 3000 km đê sông, 1500 km đê biển, sau nhiều lần tu bổ, hệ thống đê đồng bằng sông Hồng có chiều cao từ 6m-8m, nhiều nơi đến 11m và là hệ thống đê điều có quy mô lớn trên thế giới. Đến mùa lũ, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ nằm dưới mức lũ từ 2m-4m, với các cơn lũ đặc biệt lớn thì từ 4-6m. Sự phát triển kinh tế xã hội của đồng bằng Trung du Bắc Bộ được bảo vệ bởi hệ thống đê điều.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Miền Trung cũng phải đối mặt gay gắt với bão lũ, hạn hán, gây thiệt hại ở cả đất liền và ngoài biển.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, hàng năm lũ lụt cũng gây thiệt hại lớn về người và của.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Hơn 20 năm qua, đồng bằng sông Cửu Long từ chung sống với lũ đến chủ động thích nghi, đi từ khắc phục thiên tai trong mùa khô hạn để chủ động cao hơn trong mùa lũ..<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Phương tiện đi lại phổ biến và chủ yếu ở Việt Nam từ ngàn xưa là giao thông đường thủy. Giao thông đường thủy tuy khó khăn phức tạp và nguy hiểm hơn giao thông đường bộ (tục ngữ Việt Nam có những câu như: Ngày đàng không bằng gang nước; Đi mười bước xa hơn ba bước lội….), nhưng nó lại là phương tiện đi lại phổ biến vì Việt Nam có địa hình sông nước. Ngày xưa người ta còn làm những con sông đào nối liền các phà và các sông lớn với nhau. Việt Nam lại có bờ biển rất dài nằm trong khu vực gió mùa, tất cả những nhân tố đó tạo điều kiện thuận tiện cho giao thông đường thủy Việt Nam phát triển. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các đô thị Việt Nam trong lịch sử đều là những cảng sông, cảng biển: Việt Trì, Hà Nội trên sông Hồng; Thanh Hóa trên sông Mã; Vinh trên sông Cả; Huế trên sông Hương; Đà Nẵng ở cửa sông Hàn; TP. Hồ Chí Minh trên sông Sài Gòn; Cần Thơ trên sông Hậu; rồi Vân Đồn, Phố Hiến, Hội An xưa và Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Phan Rang, Phan Thiết, Vũng Tàu nay đều là những cảng biển.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Trong khi ở Trung Hoa gốc du mục với những bình nguyên rộng lớn, cái sang trọng của vua chúa thể hiện ở những cỗ xe tam mã, tứ mã thì ở phương Nam sông nước, thuyền rồng là biểu tượng của quyền uy. Ở Việt Nam ngay cả khi ông táo bay lên trời cũng cưỡi trên lưng cá chép; con rồng tung hoành ngang dọc bốn bể thì cũng có nguồn gốc là con thuồng luồng dưới biển mà thôi.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Phương tiện giao thông và chuyên chở trên sông nước Việt Nam do vậy mà hết sức phong phú: thuyền, ghe, xuồng, bè, mảng, phà, tàu… Con thuyền gắn bó với sinh hoạt, đời sống, phong tục, lễ hội của người dân vùng sông nước đồng bằng Bắc Bộ từ xưa đến nay. Thuyền rồng để vua dùng được gọi là “thuyền ngự”. Thuyền rồng trong lễ hội dân gian mang ý nghĩa linh thiêng, trang trọng. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Thuyền còn có rất nhiều loại: thuyền thúng, thuyền thoi, thuyền mành, thuyền lươn, thuyền đinh, thuyền cóc, thuyền chài, thuyền rồng, thuyền độc mộc, thuyền tam bản… Từ thời Đông Sơn, người Việt đã đóng những con thuyền có hình dáng đa dạng, sức chở lớn, có loại bọc đồng, vượt biển đi tới các nước Đông Nam Á. Theo sách Tấn Thư thì từ thế kỷ thứ III, ở Giao Chỉ đã có những con thuyền đi trên biển có thể chở từ 600-700 người hoặc một số lượng lớn hàng hóa. Năm 1407, sau khi xâm lược Đại Việt và đánh bại nhà Hồ, quân Minh đã thu về 8865 chiếc thuyền; Trương Phụ cho lùng bắt được 7700 thợ giỏi Việt Nam thuộc nhiều người khác nhau đưa về Trung Hoa, trong đó có nhiều thợ đóng thuyền giỏi, họ đều bị đưa về làm việc trong các xưởng đóng thuyền lớn của nhà Minh. Triều đình lại hạ chiếu sai tướng Hoàng Phúc tìm bắt thêm; Hoàng Phúc đã cho lính đi lùng sục khắp nơi bắt thêm được hàng ngàn thợ đóng thuyền và năm 1413 đã đưa số này về Yên Kinh. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Thời Lê, những con thuyền hạng nặng dài khoảng 26-30m, rộng từ 3m6-5m, có từ 34-50 mái chèo, trọng tải khoảng 35-50 tấn. Hồi ký của Alexandre de Rhodes ghi lại rằng theo sự đánh giá của người Hà Lan thời đó, các thuyền chiến của chúa Trịnh và chúa Nguyễn có thể đánh bại các thuyền lớn của Hà Lan từng được phương Tây coi là “chủ nhân của An Độ Dương”. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Theo lời của J. Barrow, Hội viên Hội khoa học Hoàng gia Anh, người đã đến Đàng Trong cuối thế kỷ XVIII, thì “có một ngành đặc biệt trong các nghề mà xứ Đàng Trong hiện nay có thể tự hào được, đó là kỹ thuật đóng thuyền biển. Thuyền của họ rất đẹp, thường dài từ 50 - 80pieds (1pieds = 0.3m). Những người chèo mặt nhìn về phía trước chứ không ngoảnh về sau như người phương Tây… Năm 1820, Đại tá hải quân Mỹ White đã nhận xét: “Người Việt Nam quả là những nhà đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của với một kỹ thuật hết sức chính xác (Viện sử học 1979:214-218. Ghe thuyền được xem như con người, nhiều nơi ở Việt Nam có tục vẽ mắt thuyền, người ta tin rằng con mắt ấy sẽ giúp cho thuyền tránh khỏi sự tấn công của các loài quái vật, thuồng luồng trên biển làm hại, giúp cho ngư dân tìm được những nơi nhiều tôm cá, giúp cho bạn hàng tìm được bến bờ nhiều tài lộc.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Ghe</span></i></b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;font-family:"Times New Roman""> là tất cả những phương tiện di chuyển phổ biến trên các vùng sông nước Nam Bộ, thường có mui, trọng tải trên hai mươi lăm giạ lúa trở lên (từ 500kg đến hàng trăm tấn).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Các loại ghe có thể kể ra như sau: Ghe chài với trọng tải nặng, thường để chở lúa, chở đá; ghe cà dom: lườn ghe thon, mũi ghe nhọn vót lên; ghe tam bản: mũi ghe bầu tròn, bụng ghe bè ra khá vững vàng khi đi trên sông. Có hai loại ghe tam bản: một loại lớn, trọng tải nặng như các loại ghe trên, một loại tam bản nhỏ dùng làm phương tiện di chuyển, đi lại từ nhà ra chợ búa hoặc chuyên dùng để làm đò đưa rước khách sang sông. Đặc biệt loại ghe tam bản nhỏ nay người ta ít làm mui, chỉ khi nào người nông dân dùng nó làm phương tiện đi cắt lúa mướn, hoặc buôn bán lặt vặt mới làm mui bằng dừa nước để che nắng che mưa. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Ngoài ra, ngày xưa những nhà phú hộ, điền chủ thường có những chiếc ghe gọi là ghe hầu, đóng theo hình dáng như ghe tam bản, nhưng có mui làm bằng loại cây thao lao, có cửa sổ như những cánh cửa sổ của căn nhà ở trên đất liền, được sơn phết rất đẹp.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Còn một loại ghe nữa, gọi là ghe lườn, trước đây rất thông dụng, nhưng thời gian sau này vì để tiết kiệm cây gỗ cho nên rất ít khi được dùng đến. Loại ghe này thường làm bằng một cây sao lớn, những người thợ dùng búa đục móc lấy ruột làm thành hình dáng chiếc ghe chứ không ráp các miếng be lại như những loại ghe thường. Ở vùng Sóc Trăng hàng năm có tổ chức đua loại ghe này, người ta thường gọi là đua ghe ngo, không có mui. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Ngoài ra có thể kể tên một số loại ghe thông dụng khác: ghe bầu, ghe cửa, ghe lồng, ghe giàn, ghe be, ghe bè, ghe chài, ghe lưới, ghe đò…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Xuồng là loại phương tiện chở nhẹ, có trọng tải từ năm giạ lúa tới 25 giạ lúa (khoảng từ 100 - 500kg). Đặc biệt, xuồng được thiết kế không có mui. Có thể kể tên một số loại xuồng thông dụng: xuồng cuôi là loại xuồng mình hơi bầu, sức chở khá, di chuyển vững; xuồng câu mình thon dài, mũi xuồng nhọn vót, bơi hoặc chống lướt nhanh trên mặt nước; xuồng ba lá là xuồng đóng có ba lá be: một lá be làm đáy xuồng và hai lá be làm hông. Xuồng tam bản khác xuồng ba lá là đáy xuồng tam bản cong còn xuồng ba lá đáy bằng. Đối với người dân vùng sông nước miền Tây Nam Bộ, chiếc xuồng đã gắn bó với cuộc đời họ từ lúc sinh ra cho đến khi lớn lên, biết đi lại, học hành, lúc se duyên nên vợ nên chồng cho đến lúc tuổi già, răng long đầu bạc. Chiếc xuồng vùng sông nước thủy chung với con người như tấm áo mảnh khăn.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Có thể phân biệt cách thức di chuyển giữa xuồng và ghe như sau: Ghe chài dùng tàu kéo hoặc ủi vì trọng tải quá lớn. Các loại ghe khác thường đặt máy bên trong ghe hoặc bên ngoài ghe để di chuyển. Riêng ghe tam bản nhỏ di chuyển trên sông rạch gần hơn, những người đưa đò thường chèo bằng hai chèo hai bên gần lái ghe. Chèo ghe bắt buộc phải đứng. Có loại chỉ có bánh lái, người chèo ghe dùng chân để lái ghe cho ngay. Có loại ghe không có bánh lái lớn, chỉ có bánh lái nước, nghĩa là bánh lái ngầm khuất dưới nước, người chéo ghe phải dùng chèo vừa chèo vừa lái. Nếu không rành, chèo dễ lủi hoặc cứ quay vòng tròn đi không tới được.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Còn xuồng thì chỉ có thể dùng cây dầm để bơi, chứ không gọi là chèo xuồng được. Bơi xuồng thì tư thế ngồi. Cây dầm hình thức như cây chèo nhưng nhỏ hơn nhiều, vừa tay người cầm. Tất cả dầm hoặc chèo đều làm từ loại cây sao hoặc cây thao lao cho nhẹ nhàng.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Còn có loại xuồng đục hay ghe đục là những chiếc xuồng hoặc ghe này người ta đục những lỗ lù để nước sông ra vô tự nhiên, dùng rộng cá, chở cá đi xa mà không bị chết. Dĩ nhiên người ta phải làm hai cái bửng ở hai đầu để nước không chảy luôn tuồng làm cho ghe dễ bị chìm. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Ở Nam Bộ, ngoài ghe, xuồng, ở các vùng có nhiều mương nhỏ lại có loại phương tiện di chuyển gọi là “chẹt”. Chẹt có kích thước nhỏ gọn dễ di chuyển qua các khúc mương nhỏ. Thường bề ngang mỗi chiếc khoảng 0.5m, có độ dài từ 1m-1.5m. Loại ván gỗ làm chẹt cũng là loại rẻ tiền, thường làm từ gỗ cây mù u có sẵn trong vườn. Cây chèo của chẹt thường làm bằng gỗ sao để có độ chắc, bền và đẩy chẹt đi được nhanh.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Sông ngòi nhiều khiến cho giao thông đường bộ càng thêm khó khăn, bởi vậy trong nhân dân đã hình thành cả một nghệ thuật bắc cầu. Trên đất Việt Nam, đi đến đâu ta cũng có thể bắt gặp những cây cầu bắc qua sông ngòi, kênh rạch làm bằng đủ các loại chất liệu khác nhau: cầu tre, cầu gỗ, cầu đá… Ở những vùng miền núi có loại “cầu mây” bắc qua khe núi, vực thẳm, chơi vơi trên cao như mây bay. “Cầu ngói” có mái che lợp ngói, có thể ung dung đi qua cầu như đi dạo mát, trên cầu có thể có cả ghế để nằm, ngồi. “Cầu chùa” không chỉ có mái che, ghế nghỉ mà còn có cả chùa trên cầu cho người đi qua ghé lại viếng Phật. Ngoài nhũng loại cầu được bắc cố định, người Việt Nam còn biết làm cầu di động bằng tre gỗ (cầu phao), hoặc bằng thuyền ghép lại (cầu thuyền). Nằm vắt ngang trên những dòng sông, các kênh rạch ở vùng Tây Nam Bộ là những chiếc cầu ván, cầu khỉ. Cầu ván là những cây cầu có trụ là những thân cây gỗ, mặt cầu gồm nhiều thanh ván nhỏ đóng đinh để ghép lại với nhau. Cầu khỉ là những cây cầu mà người ta phải đi qua trên một thân cây độc nhất, thân cầu có thể làm bằng cây dừa, cây tre hoặc một thân cây gỗ tràm, bạch đàn… Đi qua cầu người ta có cảm giác chênh vênh, giống như làm xiếc trên dây. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Cầu ván và cầu khỉ đã ăn sâu vào máu thịt của người dân miền sông nước Nam Bộ. Từ khi mới chào đời, những đứa trẻ đã được mẹ ru bằng câu hát:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">“Ví dầu cầu ván đóng đinh,<o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi…”<o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Do điều kiện sống, và những tập quán đã ăn sâu vào máu thịt có thể thấy tính cách sống khác nhau giữa người dân ở hai miền. Miền Bắc thì ăn chắc, mặc bền; miền Nam thì tạm bợ, làm đến đâu ăn đến đó. Điều này cũng đã thể hiện rõ nét qua cấu trúc bắc cầu của người dân ở hai miền.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Những người sống bằng nghề sông nước (chài lưới, chở đò, buôn bán trên sông) thường lấy ngay thuyền bè làm nhà ở: đó là các nhà thuyền, nhà bè; ở những vùng hay bị ngập lụt, quanh năm sống trong sông nước nhiều gia đình quần tụ thành những làng nổi, xóm chài. Những làng nổi gồm hàng trăm nhà bè nuôi cá ở kề nhau trải dài trên cả một khúc sông. Có nhà dài trên 30m, ngang trên 10m, đáy sâu 5m bằng gỗ sao, bọc lưới inox, trần lợp simili hoa văn rất đẹp.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Ngay ở Thành phố Hồ Chí Minh, cách đây khoảng 10 năm, dọc theo các kênh rạch là những khu nhà sàn nửa trên cạn, nửa dưới nước, sàn làm bằng ván, các trụ cột bằng bêtông hay những cọc gỗ cắm sâu dưới nước.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Cuộc sống trên sông nước cũng dạy cho con người những sáng kiến để kiếm sống bằng chính những sản vật có trong lòng sông nước như tôm, cá, ếch, nhái, rắn, rùa…; đó là sáng kiến chế tạo ra các loại dụng cụ đánh bắt thủy hải sản rất đa dạng. Lưới đánh cá là loại dụng cụ phổ biến nhất cho dù người dân đó sống ở nơi nào: vùng biển hay sông nước, kênh rạch. Chài là dụng cụ đánh bắt cá, tôm trên những dòng sông, những con kênh nhỏ. Chài có cấu tạo bằng lưới, hình dạng giống như những chiếc ô (dù), phía dưới có những cục chì nặng để khi quăng chài ra lưới phải bung ra tròn, đều và chìm xuống nhanh. Khi kéo chài lên cá tôm sẽ mắc vào lưới. Vó có hình dạng như chài nhưng to hơn nhiều, có cây trụ có thể nâng lên hạ xuống trên mặt sông. Thường người ta hay đặt vó ngay con sông trước cửa nhà, tôm cá bơi ngang sẽ mắc vào lưới vó. Loại dụng cụ đánh bắt đơn giản nhất và cũng thường được sử dùng nhất là những chiếc cần câu. Chỉ với một chiếc cần tre hoặc trúc, một sợi dây cước, một chiếc lưỡi câu, trẻ con vùng sông nước có thể kiếm sống hàng ngày bằng những chiến lợi phẩm thu được là những con cá đồng béo ngậy, những chú ếch da căng bóng. Ngoài ra còn các loại dụng cụ bắt cá thông dụng như: lợp, nò, đó; những cái trúm đặt lươn…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Chợ nổi trên sông là một nét văn hóa đặc trưng của những vùng sông nước Nam Bộ. Các chợ nổi rất nổi tiếng như chợ nổi Cái Răng, Phụng Hiệp ở Cần Thơ; chợ nổi Long Xuyên ở An Giang. Trên chợ nổi, khung cảnh mua bán diễn ra với hàng trăm ghe thuyền tấp nập, ken cứng nhau. Người ta dùng một chiếc sào dài, treo mặt hàng muốn bán lên chiếc sào ấy để làm hiệu. Chợ trên mặt đất có bán thứ gì thì chợ nổi có bán thứ ấy. Cái ồn ào náo nhiệt của chợ nổi không thua gì ở chợ trên mặt đất, cũng những tiếng mời chào trả giá… kèm theo những nụ cười mền sông nước hồn hậu làm mát lòng người mua.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Nếu như ở vùng sông nước Tây Nam Bộ, đi thuyền trên sông nước nghe đờn ca tài tử là một hình thức giải trí trên sông mang đậm chất Nam Bộ thì ở miền Bắc, nét văn hóa đặc trưng của những vùng sông nước là loại hình nghệ thuật múa rối nước. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Múa rối thì hầu như dân tộc nào cũng có, còn múa rối nước thì trên thế giới chỉ có duy nhất Việt Nam có. Nghệ thuật múa rối nước xuất hiện từ thời Lý (1010-1225) Dấu vết múa rối nước còn ghi lại nhiều nơi. Vùng đồng bằng Bắc Bộ có nhiều ao hồ. Mặt nước của những ao hồ đã trở thành sân khấu cho rối nước. Ghế ngồi của khán giả là thảm cỏ xung quanh hồ, ở các làng quê, múa rối nước thường được diễn vào những dịp đón năm mới hoặc trong các lễ hội.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Mỗi con rối là một tác phẩm điêu khắc dân gian. Con rối tạo bằng gỗ, bên ngoài phủ một lớp sơn, ngâm nước không thấm. Nghệ nhân khi biểu diễn phải ngâm mình trong nước để điều khiển con rối. Nhạc đệm là bộ gõ gồm trống, mõ, thanh la… Nhân vật tiêu biển nhất là chú Tễu, thân hình tròn trĩnh, nụ cười hóm hỉnh lạc quan. Mở màn, chú Tễu xuất hiện vui vẻ, nghịch ngợm làm nhiệm vụ giáo đầu dẫn chuyện. Trong kho tàng múa rối nước, có 30 tiết mục cổ truyền và hàng trăm tiết mục mới xây dựng đã làm say lòng khán giả trong nước và quốc tế.<o:p></o:p></span></p> <h3 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman";text-decoration: none;text-underline:none">IV. KẾT LUẬN<o:p></o:p></span></h3> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Không chỉ giữ một vị trí hết sức quan trọng về khía cạnh giá trị kinh tế, vật chất hay trong những thói quen sinh hoạt hàng ngày mà sông nước còn đóng một vai trò to lớn về mặt văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam từ bao nhiêu đời nay. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Hình ảnh sông nước ăn sâu và tâm khảm đến mức mọi mặt sinh hoạt của đời sống con người đều lấy con thuyền và sông nước làm chuẩn mực và đối tượng so sánh trong hàng loạt cách nói dân gian (ca dao, thành ngữ, tục ngữ).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Chẳng hạn như khi bàn về ý chí và nghị lực trong cuộc sống thì có các câu: “<i>Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”</i>; <i>“Chết trong hơn sống đục</i>”… <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Khi nói về những kinh nghiệm trong làm ăn thì ông cha ta có những câu như: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">“<i>Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”</i>; <i>“Bồi ở, lở đi”</i>; <i>“Bắc cầu mà noi, không ai bắc cầu mà lội”</i>; <i>“Chết sông chết suối, không ai chết đuối đọi đèn</i>”… <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Khi nói đến tiết kiệm thì: “<i>Buôn tầu buôn bè không bằng ăn dè hà tiện…</i>” <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Về việc chọn nơi cư trú thuận lợi: “<i>Nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền</i>”.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Để nhắc đến việc sinh nở khó nhọc của người phụ nữ: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">“<i>Đàn ông đi biển có đôi,<o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">đàn bà vượt cạn mồ côi một mình</span></i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">”… <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Nói về sự khôn ngoan, nham hiểm của con người thì: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">“<i>Đố ai ăn xuống vực sâu, <o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">mà đo miệng cá uốn câu cho vừa”<o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Hay: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- “Dò sông dò biển dễ dò<o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">đố ai lấy thước mà đo lòng người”<o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><i><span style="font-size:10.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- “Chắp tay vái lạy con sào, <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">nông sâu đã biết, thấp cao đã từng</span></i><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">”… <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Trong quan hệ vợ chồng và tình yêu nam nữ thì có những câu như: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; font-family:"Times New Roman"">- “<i>Thuyền theo lái, gái theo chồng; <o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height: 120%;font-family:"Times New Roman"">- “Thuyền về có nhớ bến chăng, <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height: 120%;font-family:"Times New Roman"">Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”<o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height: 120%;font-family:"Times New Roman"">- “ Thuyền anh mắc cạn lên đây, <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height: 120%;font-family:"Times New Roman"">mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền” <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height: 120%;font-family:"Times New Roman"">- “Chiếc thuyền kia nói có, <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height: 120%;font-family:"Times New Roman"">Chiếc ghe nọ nói không, <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height: 120%;font-family:"Times New Roman"">Phải chi miếu ở gần sông, <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height: 120%;font-family:"Times New Roman"">em thề một tiếng kẻo lòng anh nghi</span></i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">”…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent3" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người Việt Nam cũng thường dùng những lời nói: <i>“Nhìn nhau đắm đuối”, “chìm đắm trong suy tư”, “bơi trong khó khăn”, “thời gian trôi nhanh”,”ăn nói trôi chảy”, “Hồ sơ bị ngâm lâu”, “thân phận bọt bèo”, “trông sạch nước cản”, “suối tóc”, “mặt trời lặn”, “làn sóng đấu tranh”, “nước sơn”, “nước thép”… <o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent3" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Đo thời gian, người Việt thường nói: “<i>đã bao nhiêu nước chảy, bèo trôi</i>… Nói về sự vất vả của đường xá xa xôi: “<i>lặn lội đến thăm nhau</i>”, Đi nhờ xe của ai một đoạn gọi là “<i>quá giang</i>”; Loại xe khách liên tỉnh, người Nam Bộ gọi là <i>xe đò</i> - tức là ngay cả đi trên bộ hẳn hoi, người Việt vẫn luôn nghĩ và nói theo cách của người đi trên sông nước.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Người Việt Nam từ ăn, nói, đi lại đều ít nhiều có liên quan đến sông nước; thậm chí ngay cả quan tài để chôn người chết thời Đông Sơn cũng được làm theo hình con thuyền (mộ cổ Việt Kê - Hải Phòng). Rồi đến khi chết về “thế giới bên kia” cũng được người Việt Nam hình dung là nằm ở một vùng sông nước (về nơi chín suối) và linh hồn của người chết phải đi đến đó bằng thuyền (tục chèo đò đưa linh)…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman"">Trên đây là những minh chứng cho thấy sự gắn bó keo sơn giữa người dân Việt Nam đối với sông nước. Con người Việt Nam với bản chất cần cù, chịu thương, chịu khó, với trí tuệ sẵn có của mình đã thích ứng hòa nhập tuyệt vời với thiên nhiên của đất nước mình, bắt thiên nhiên phục vụ cho cuộc sống của chính mình, biến cái không thể thành cái có thể, biến cái vô hình thành cái hữu hình chứng minh cho toàn thể nhân loại thấy được những nét văn hóa hay, đẹp, rất phong phú mà cũng rất đa dạng, rất riêng và rất Việt Nam. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;text-indent:18.0pt; line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language:AR-SA"><br /> </span></b> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;text-indent:18.0pt; line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <h4><span style="font-family:"Times New Roman"">TÀI LIỆU THAM KHẢO<o:p></o:p></span></h4> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;text-indent:18.0pt; line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent:-18.0pt;line-height:120%; mso-list:l2 level1 lfo3;tab-stops:list 36.0pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">1.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;font-family:"Times New Roman"">Trần Ngọc Thêm, <i>Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam</i>, TP. Hồ Chí Minh, 2001.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent:-18.0pt;line-height:120%; mso-list:l2 level1 lfo3;tab-stops:list 36.0pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">2.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;font-family:"Times New Roman"">Đào Duy Anh, <i>Việt Nam văn hóa sử cương</i>, Hội nhà văn, 2000.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent:-18.0pt;line-height:120%; mso-list:l2 level1 lfo3;tab-stops:list 36.0pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">3.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;font-family:"Times New Roman"">Chu Xuân Diên, <i>Cơ sở văn hóa Việt Nam</i>, TP. Hồ Chí Minh, 1999.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent:-18.0pt;line-height:120%; mso-list:l2 level1 lfo3;tab-stops:list 36.0pt"><!--[if !supportLists]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">4.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span><!--[endif]--><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;font-family:"Times New Roman"">Phạm Bá Nhiễu, “Nhớ xuồng ghe lũ miền Tây”, tạp chí <i>Quê Hương</i>, 2002. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:18.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:18.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:18.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family: "Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span style="font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-46751834297416683262011-04-20T08:12:00.000-07:002011-04-20T08:13:40.106-07:00VAI TRO XA HOI CUA TON GIAO<p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt;line-height:130%"><o:p> </o:p></p> <h1 align="center" style="text-align:center"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">VAI TRÒ Xà HỘI CỦA TÔN GIÁO<o:p></o:p></span></h1> <p class="MsoNormal"><o:p> </o:p></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của con người, đặc biệt trên lĩnh vực văn hóa, tinh thần. Tôn giáo góp phần vào việc cố kết, thống nhất cộng đồng dân tộc bắt đầu từ các hình thức tín ngưỡng sơ khai (Tôtem giáo) đến các tôn giáo lớn về sau này. Ở phương Tây cổ điển cũng như phương Đông huyền bí, ý thức tôn giáo luôn tạo ra một lối sống riêng, một cách ứng xử khác nhau của các dân tộc trên thế giới. Sự ảnh hưởng của tôn giáo vào đời sống xã hội là không chối cãi được. Sự ảnh hưởng đó đôi khi là trở lực kìm hãm sự phát triển của xã hội. Nhưng nó góp phần tạo nên những nền văn minh, những giá trị văn hóa khác nhau, (như nền văn minh Hồi giáo, văn minh Chính thống giáo, Kitô giáo, Nho giáo, Phật giáo)... Do vậy, tôn giáo tạo nên những dấu ấn riêng trong phong tục, tập quán, cách ứng xử vào văn học, nghệ thuật của cư dân chịu ảnh hưởng.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Tôn giáo đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị – xã hội. Đặc biệt, dưới thời Trung cổ, ở phương Tây đạo Kitô đóng một vai trò đặc biệt trong đời sống tinh thần, kinh tế, chính trị, xã hội. Mọi vấn đề liên quan đến con người, xã hội đều thuộc về Chúa. Kitô giáo chi phối tất cả các hoạt động của con người và xã hội. Giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo cho những mục đích chính trị – xã hội khác. Bởi vậy dưới thời phong kiến, châu Âu sống trong “Đêm trường Trung cổ”. Kitô giáo vì thế có một ý nghĩa to lớn trong đời sống chính trị – xã hội phương Tây. Còn ở các nước chịu ảnh Nho giáo như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>... thì nó trở thành ý thức hệ căn bản, chi phối mạnh mẽ mọi mặt của đời sống xã hội. Tóm lại, tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong đời sống chính trị – hội của mọi thời đại.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Tuy nhiên, đối với mỗi cá nhân, từng con người trong xã hội, tôn giáo có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi trong thực tế khi con người gặp nguy nan, tai biến con người được tôn giáo an ủi và bảo đảm hy vọng. khi con người mắc những tội lỗi, sai lầm, tôn giáo bày cho con người sám hối để tâm được yên tĩnh. Với niềm tin được thần linh phù hộ che chở, con người cảm thấy an toàn.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Tóm lại, tôn giáo có vai trò văn hóa khá rõ rệt trong đời sống xã hội.<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Trong tôn giáo, cái thiện vẫn là cái chủ yếu, ta có thể thấy ở bất kỳ tôn giáo nào cũng đều có những lời khuyên răn tốt đẹp. Tín ngưỡng tôn giáo vì thế trở thành một nhu cầu quan trọng của một bộ phận nhân dân. Trong tương lai, tôn giáo thu hẹp hơn vai trò xã hội do sự phát triển của khoa học kỷ thuật ngày càng mạnh mẽ. Niềm tin của con người vào thần thánh dần dần nhường chỗ cho niềm tin của con người vào thế giới thực tế, vào khoa học kỷ thuật. Tuy vậy, tôn giáo vẫn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong cộng đồng, xã hội và con người.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><b><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" align="center" style="text-align:center"><b><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">CHỨC NĂNG Xà HỘI CỦA TÔN GIÁO<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><b><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><b><i><span style="font-size: 12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Chức năng xã hội chủ yếu, đặc thù của tôn giáo là: đền bù hư ảo</span></i></b><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">. Con người trong xã luôn tiềm ẩn hoặc hiển hiện những nỗi bất lực, yếu đuối nhất định. Do vậy, để đền bù lại sự bất lực yếu đối đó, con người cần đến một chỗ dựa vững chắc, một niềm an ủi nhất định để động viên, khích lệ họ tiến lên. Do vậy, con người cần đến tôn giáo. Bởi trong mối quan hệ với thế giới tự nhiên có những điều vượt qua giới hạn hiểu biết của con người. Thực tế đó, khiến con người cảm thấy bất lực trước mối quan hệ này. Cho nên, trong bất kỳ một xã hội nào ở trong những điều kiện lịch sử khác nhau tôn giáo đã và luôn đóng vai trò là yếu tố đền bù hư ảo cho sự bất lực yếu ớt của con người, an ủi, khuyến khích, động viên họ hướng vào những lực lượng siêu nhiên, do mình tưởng tượng ra để giải quyết sự yếu kém, bất lực của mình trước những hiện tượng tự nhiên và xã hội. Tôn giáo trở thành nguồn động viên, an ủi con người một cách rất hiệu quả. Nó có thể giúp con người lãng quên thế giới đầy những khó khăn, sự lo âu, nỗi sợ sệt trên trần thế để tìm đến một sự giải thoát trong thế giới hư hư - thực thực của tôn giáo. Tuy nhiên, chức năng này cũng tạo ra một tác dụng tiêu cực khác là làm cho con người xa rời cuộc đấu tranh của thế giới trần tục, tách quần chúng khỏi cuộc đấu tranh năng động, phức tạp, lâu dài, gian khổ của thế giới trần thế. Tóm lại, với chức năng đền bù hư ảo, tôn giáo có một ý nghĩa to lớn trong đời sống của con người.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><b><i><span style="font-size: 12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Chức năng thứ hai: có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là chức năng điều</span></i></b><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman""> <b><i>chỉnh</i></b>. Bởi lẽ, tôn giáo tạo ra một hệ thống chuẩn mực và giá trị. Điều đó giúp cho việc điều chỉnh hành vi, cách ứng xử, nói năng của con người trong cộng đồng xã hội. Ngoài ra, nó định hướng con người trong cách đánh giá, nhìn nhận mối quan hệ đặc biệt giữa con người với giới tự nhiên, với siêu nhiên. Điều này hình thành nên thế giới quan của con người trong quan hệ với tự nhiên lẫn xã hội. Con người đặt trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội thông qua tôn giáo sẽ tự điều chỉnh mình cho phù hợp. Cho nên, tôn giáo giúp cho việc tạo ra những thang bậc giá trị và chuẩn mực trong xã hội. Bởi lẽ, suy cho cùng tôn giáo đề cao tính thiện, nhân văn, căn bản của con người. Nó vừa là thước đo giá trị vừa bảo vệ con người tránh sự lệch chuẩn của xã hội. Tôn giáo giữ cho con người khỏi những biểu hiện tha hóa của xã hội. Bởi họ được giáo dục lòng tin về những đấng siêu nhiên nào đó rất linh thiêng luôn ở bên cạnh cuộc sống và theo dõi những hành động của mình. Cho nên, tôn giáo cho con người lòng tin về tình yêu thương, sự chở che bao bọc của đấng linh thiêng ở xung quanh hoặc trên cao họ. Cho nên con người muốn tạo ra được sự liên kết với thần linh cũng như liên kết với cộng đồng xã hội thì phải luôn giữ mình trong sạch. Vì thế chức năng liên kết của tôn giáo tạo sự thanh tẩy cho tâm hồn, lối sống, hành vi của con người. Mặt khác với chức năng điều chỉnh, tôn giáo hạn chế nỗi đau, điều lo lắng của con người bằng cách hướng họ tới những chân trời mới. Niềm tin không lý giải hết của tôn giáo tạo cho con người có khả năng tự điều chỉnh suy nghĩ, cách tư duy của mình trước những vấn đề nan giải của bản thân, cộng đồng xã hội. Chính điều này đã làm nổi bật chức năng điều chỉnh của tôn giáo.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><b><i><span style="font-size: 12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Chức năng thứ ba của tôn giáo là liên kết</span></i></b><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%; font-family:"Times New Roman"">. Tôn giáo không chỉ có ý nghĩa về mặt tâm linh cho một con người, một tập thể nhất định. Nó còn có một mối liên hệ đặc biệt với hệ thống chính trị - xã hội. Trong quá khứ và hiện tại, tôn giáo luôn có chức năng quan trọng đó. Theo từng thời kỳ lịch sử từng quốc gia, khu vực nhất định, mỗi nơi chọn cho mình một niềm tin, một tôn giáo nhất định vừa đóng vai trò định hướng niềm tin của cá nhân, cộng đồng vừa liên hệ với hệ thống chính trị - xã hội. Mặt khác, tôn giáo có khả năng liên kết cá nhân, cộng đồng chặt chẽ hơn đối với những con người cùng một niềm tin tôn giáo. Sự liên kết đó thể hiện cụ thể trong mối quan tâm, giúp đở lẫn nhau trong những dịp lễ lộc, ngày tết, tang ma, cưới xin…Những người có cùng niềm tin tôn giáo còn giúp đở, an ủi nhau trong những biến động, hoạn nạn, đau khổ…Chính điều này làm cho cuộc sống của con người càng thêm gắn bó với nhau hơn và tràn đầy tính nhân văn, nhân bản. Tôn giáo chân chính hướng con người đến điều thiện vì thế tính liên kết của tôn giáo tạo ra những giá trị căn bản của con người trong mối liên hệ cá nhân, cộng đồng, xã hội.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Tóm lại, tôn giáo có chức năng, vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội lẫn đời sống tâm linh của con người trong cộng đồng, quốc gia - dân tộc. Mặc dù nó là một "thế giới quan lộn ngược", nhưng nó là nơi nương náu tâm linh của con người trong mọi thời đại. Vì thế, tôn giáo là một hiện tượng xã hội - văn hóa - đạo đức được phổ biến ở các nước trên thế giới và tồn tại từ xa xưa cho đến ngày nay trong lịch sử. Việc phân tích, đánh giá vai trò, chức năng của tôn giáo luôn là vấn đề phức tạp, xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng có một thực tế là khi gặp bất trắc, khó khăn, gian nguy, tai nạn thì tôn giáo trở thành niềm an ủi, hy vọng của con người. Mặt khác khi con người vấp phải sai lầm, phạm tội lỗi thì tôn giáo bày cho con người cách sám hối. Tôn giáo che chở, phù hộ cho con người để họ cảm thấy an toàn trước mọi biến loạn của cuộc sống. Cho nên tôn giáo luôn đóng một vai trò, chức năng vô cùng quan trọng của đời sống con người trong cộng đồng xã hội.<span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText"><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%;font-family: "Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" align="center" style="text-align:center"><b><u><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">TÓM TẮT<o:p></o:p></span></u></b></p> <p class="MsoBodyText"><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%;font-family: "Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Cuối thế kỷ XVIII, vua Louis XVI của vương triều Buôcbông không có nhiều tài cán như các vị vua trước. Thêm vào đó, hoàng hậu Antoanet (vợ vua - công chúa nước Áo) lại tham chính. Triều đình sống vô cùng xa hoa, hoang phí cho nên số nợ lên đến 4,5 tỷ fran, nên ngân hàng không cho vay lãi nữa. Cuộc khủng hoảng tài chính đã đưa nhà vua vào cảnh cùng quẫn. Cuối cùng nhà vua phải triệu tập hội nghị 3 đẳng cấp (khoảng 170 năm chưa họp) vào mùa xuân năm 1789 để giải quyết các vấn đề tài chính của triều đình, nhưng đẳng cấp thứ ba không muốn điều đó.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Vì thế, ngày 17/06/1789, đẳng cấp thứ 3 tuyên bố họ là Quốc dân hội nghị, đại biểu cho toàn dân. Nhân dân <st1:city st="on"><st1:place st="on">Paris</st1:place></st1:city> ủng hộ họ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Ngày 20/06/1789, nhà vua đóng cửa hội trường không cho đại biểu đẳng cấp thứ 3 họp. Nhưng đẳng cấp thứ 3 tuyên bố sẽ không giải tán khi không soạn thảo xong hiến pháp. Cuối cung 2nhà vua phải đồng ý cho 3 đẳng cấp họp chung.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Ngày 9/7/1789 Quốc dân hội nghị đổi tên là Quốc hội lập hiến. Nhà vua chuẩn bị đàn áp, nhưng nhân dân cũng đã chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Từ tối 12/7/1789 đã nổ ra cuộc tổng khởi mở màn cho cuộc Đại Cách mạng Pháp.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Cuộc cách mạng tư sản Pháp là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử, chia thành 3 giai đoạn chủ yếu sau:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><b><u><span style="font-size: 12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Giai đoạn I</span></u></b><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">: <b><i><u>14/7/1789 - 10/8/1792, giai đoạn cầm quyền của phái Lập hiến.</u></i><o:p></o:p></b></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Sau ngày 12/7/1789 nhân dân <st1:city st="on"><st1:place st="on">Paris</st1:place></st1:city> đã chiếm các kho vũ khí, thành lập một uỷ ban lãnh đạo và theo lệnh của uỷ ban nhân dân đã rèn đúc vũ khí thô sơ. Ủy ban vệ quốc được thành lập.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Ngày 14/7/1789, nhân dân đã chiếm ngục Basti, <st1:city st="on"><st1:place st="on">Paris</st1:place></st1:city> cũng lọt vào tay nghĩa quân. Giai cấp tư sản đã nắm được chính quyền, dù vẫn bảo tồn sự trị vì của vua Louis 16. Đây là giai đoạn Lập hiến. Trong giai đoạn này chính quyền đã làm được những việc sau:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">+ Thương lượng với nhà vua để thành lập chính phủ Lập hiến.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">+ Công bố Pháp lệnh tháng 8 vào ngày 4 & 11 tháng 8; qui định đại biểu quí tộc trong hội nghị lập hiến phải từ bỏ các đặc quyền phong kiến khác.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">+ Ngày 26/8/1789 Hội nghị Lập hiến đã thông qua "Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền", "Tự do, bình đẳng, bác ái".<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">+ Chính phủ đã thực hiện sự thay đổi về hành chính, tháng 1/1790, nước Pháp chia làm 83 quận, hệ thống hành chính thống nhất, thị trường mở rộng, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Tháng 1/1791, vua định chạy trốn nhưng bị phát hiện và bắt về <st1:city st="on"><st1:place st="on">Paris</st1:place></st1:city>. Nhân dân phẩn nộ đòi đưa nhà vua ra xét xử. Nhưng chính phủ Lập hiến dùng binh lính đàn áp họ, bảo vệ nhà vua. Vì thế, chính quyền cách mạng đã lộ rõ tính phản động của nó.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">+ Quốc hội lập hiến đã soạn thảo xong bản Hiến Pháp. Vua Louis 16 đã thông qua Hiến Pháp vào tháng 9/1791, nhằm khẳng định chính thể mới của nước Pháp và củng cố quyền lợi của giai cấp tư sản. Tuy nhiên, Hiến pháp này còn rất nhiều mặt hạn chế của nó.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Ngày 30/9/1791, Quốc hội lập hiến giải tán, Quốc hội lập pháp được thành lập gồm 766 đại biểu, trong đó chỉ có 3 nông dân, 4 thợ thủ công, còn tuyệt đại bộ phận là người của phái quân chủ lập hiến. (Nhiều nhà dân chủ của Quốc hội lập hiến trước đó không được quyền tham gia Quốc hội lập pháp). Đây là giai đoạn mà <b><i><u>phái hữu</u></i></b> và <b><i>phái giữa</i></b> khống chế Quốc hội. Còn <b><i>phái tả</i></b> chia thành hai nhóm chủ yếu: Ghigôngđanh & Giacôbanh. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Đây là giai đoạn Quốc hội lập pháp điều hành công việc trong nước. Nền quân chủ lập hiến.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Tuy nhiên, đây là thời kỳ mà các lực lượng phản động trong và ngoài nước điên cuồng chống phá cách mạng. Bên ngoài Áo - Phổ liên minh với phong kiến Pháp lưu vong chuẩn bị đánh Pháp. Nhân đó, vua Louis 16 muốn mượn thế lực của bên ngoài để đàn áp cách mạng, khôi phục ngai vàng. Hoàng hậu bí mật đưa kế hoạch tác chiến cho Áo nên tình hình cáng phức tạp.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Nhân dân và phái dân chủ cấp tiến yêu cầu kháng chiến. Quần chúng đã xây dựng công xã Paris vào tháng 6/1792. Quần chúng nhân dân làm áp lực. Hội nghị Lập hiến tuyên bố "Tổ quốc lâm nguy" và kêu gọi nhân dân cầm vũ khí bảo vệ tổ quốc. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Phái dân chủ tích cực hoạt động lật đổ nhà vua thành lập nền cộng hòa. Ngày 25 tháng 7 công tước Áo tuyên bố nhà vua bị xúc phạm y sẽ huỷ diệt Paris. Lời tuyên bố đó khiến nhân dân căm giận. Họ yêu cầu phế truất nhà vua, triệu tập Hội nghị quốc ước và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Ngày 9/8/1792, nhân dân Paris kéo vào hoàng cung. Dưới sức mạnh của cuộc khởi nghĩa của quần chúng nhân dân, cách mạng đã chuyển sang giai đoạn mới<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><b><i><u><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Giai đoạn II: 10/8/1792 - 2/6/1793, thành lập nền Cộng hòa, chính quyền của phái Girondins.<o:p></o:p></span></u></i></b></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Dưới sức mạnh của quần chúng nhân dân trong cuộc khởi nghĩa ngày 10/8/1792, Quốc hội lập pháp buộc phải phế truất nhà vua, triệu tập Hội nghị Quốc ước, kết thúc nền quân chủ lập hiến, thủ tiêu hiến Pháp 1791.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Phái Gicôbanh đã kiên quyết chống ngoại xâm, xây dựng quân đội, đúc vũ khí, xây dựng phòng tuyến quanh Paris. Ngày 2/9/1792 quân Phổ đánh Vecđoon, Công xã kêu gọi thêm người tình nguyện chiến đấu. Từ 2 - 5/9/1792, quân cách mạng tiêu diệt bạn phản động trong nước, sau đó tiên thẳng ra ngoài biên cương, đánh tan quân Phổ ở trận Vanni, đuổi quân thù ra khỏi bở cõi ở mặt trận phía đông của mình.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Ngày 21/9/1792, hội nghị Quốc ước khai mạc phiên họp đầu tiên, chính thức tuyên bố phế truất vua. Trong hội nghị Quốc ước có nhiều phe phái, nên cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục, đẩy cách mạng tiến lên một cách gay gắt. (Phái hữu: Girondins, phái tả: Giacôbanh (phái Núi). Phái Đầm lầy, đông đảo nhất, nhưng nghiêng ngả giữa hai bên. Trong đó, phái hữu sợ đẩy cách mạng tiến lên sẽ sinh ra nguy hiểm. Phái tả muốn tiến lên. Phái đầm lầy nghiên ngả hai bên. Cuối cùng phái Giacôbanh vẫn là phái làm cách mạng kiên quyết nhất.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Tiêu điểm của cuộc đấu tranh là việc xử lý nhà vua. Kết quả, nhà vua bị kết án tử hình và đưa lên máy chém<span style="mso-spacerun:yes"> </span>ngày 21/1/1793. sau đó Hoàng hậu cũng bị xét xử. Phái Girondins ngày càng bảo thủ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Cuối cùng phái Giacôbanh và phái Girondins vì mâu thuẫn nhau trong việc giải quyết giá cả hàng hóa trong nước nên phái Girondins tức giận, khủng bố những người cách mạng. Nhân dân căm phẩn, vì không lật đổ phái này thì cách mạng có nguy cơ bị tiêu diệt. Vì thế cách mạng tư sản Pháp chuyển sang một giai đoạn khác đưa phái Giacôbanh lên nắm chính quyền, kết thúc giai đoạn II của cuộc cách mạng.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><b><i><u><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Giai đoạn III: Nền chuyên chính Jacobins: 3/6/1793 - 27/7/1794</span></u></i></b><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%;font-family:"Times New Roman""><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Phái Jacôbanh bước lên địa vị lãnh đạo cách mạng trong điều kiện đất nước vô cùng khó khăn. Tình hình trong nước vô cùng phức tạp. Bên ngoài nước Pháp đã bị các thế lực thù địch bao vây cả 6 mặt. Quân Anh (p.Bắc, p.Tây và p.Nam); tại đây họ đã ủng hộ các thế lực phong kiến đưa con của Louis 16 lên làm vua ở Tulông là Louis 17 để được quyền lợi ở cảng này. Còn phía Đông Bắc là quân Hà Lan. Quân Phổ và quân Áo ở phía Đông. Biên giới phía Nam bị quân Tây Ban Nha đe dọa.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Phái Giacôbanh đã thi hành những chính sách quyết liệt giải quyết những vấn đề mấu chốt của cách mạng mới của nguy của nước Pháp, bảo vệ nền Cộng hòa tư sản.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">+ Giải quyết vấn đề ruộng đất của nông dân<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">+ Ngày 24/6/1793, Hội nghị Quốc ước thông qua Hiến pháp mới<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">+ Phát lệnh Tổng động viên vào ngày 23/8/1793 để lập lực lượng vũ trang cách mạng. Ngày 10/10/1793 hội nghị Quốc ước đã ban hành sắc lệnh thành lập chính phủ lâm thời, xác lập nền chuyên chính Giacôbanh.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Từ tháng 9 - 12/1793 quân cách mạng đã đẩy dần quân thù ra biên giới. Nhiều người đã lập được được chiến công lừng lẫy như đại úy trẻ tuổi Napoleon Bonaparte trong trận Tulông. Nền độc lập được giữ vững, chế độ cộng hòa tư sản được bảo vệ, nền chuyên chính Giacôbanh ở đỉnh cao. Đó cũng chính là điểm chấm dứt nền thống trị của nó. Nền chuyên chính Giacôbanh tan vỡ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman"">Sau khi giai cấp tư sản hoàn toàn nắm quyền lực thì lợi ích của họ được đặt lên hàng đầu, tìm mọi cách ngăn chặn sự phát triển của cách mạng. Do vậy, ngay khi tin thắng trận thì ngày 27/7/1794, phái Tecmiđo phái cộng hòa tư sản đã làm cuộc chính biến, lật đổ phái Giacôbanh lên nắm chính quyền 15/10/1794.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText"><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%;font-family: "Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span><b><span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></b></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:36.0pt"><b><span style="font-size:12.0pt; line-height:130%;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyText"><b><span style="font-size:12.0pt;line-height:130%; font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;line-height:130%"><o:p> </o:p></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-21235075659494054152011-04-20T08:09:00.000-07:002011-04-20T08:12:06.757-07:00TIN NGUONG THO CUNG TO TIEN CUA GIA DINH VIET NAM<h1 style="text-align:justify;line-height:130%"><span style="font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></h1> <h1 align="center" style="margin-left:0cm;text-align:center;text-indent:0cm; line-height:130%"><span style="font-family:"Times New Roman"">TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN Ở VIỆT <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">NAM</st1:place></st1:country-region><o:p></o:p></span></h1> <h1 style="margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:0cm;line-height:130%"><span style="font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></h1> <h1 style="margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:0cm;line-height:130%"><span style="font-family:"Times New Roman"">I NGUỒN GỐC CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN<o:p></o:p></span></h1> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;line-height:130%"><b><span style="font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 130%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên chủ yếu thể hiện một cách rõ nét ở người Việt (Kinh) từ Bắc vào <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> thông qua những nghi lễ, thiết chế tương đối qui củ, chặt chẽ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 130%"><span style="font-family:"Times New Roman"">Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tiếp nối tín ngưỡng Tô tem giáo. Tô tem giáo ra đời trong xã hội Thị tộc. Đó là một xã hội sơ khai. Mỗi tổ chức Thị tộc có những hình thức thờ cúng riêng trong khuôn khổ thờ cúng các vật thiêng Tổ tiên.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Trong xã hội Thị tộc với một trình độ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và nhận thức về thế giới còn rất sơ khai, chưa đầy đủ, nên tín ngưỡng - tôn giáo đóng một vai trò thiết yếu. Nhưng trong buổi bình minh sơ khởi của lịch sử, con người chịu sự chi phối mạnh mẽ của tự nhiên. Họ tin tưởng vào các thế lực thần bí, siêu nhiên trong sự chi phối cuộc sống đang diễn ra nơi trần thế của mình. Do vậy, họ thần thánh các thế lực siêu nhiên, tự nhiên. Trong sự lựa chọn và trao gởi niềm tin chủ yếu họ dựa vào các thế lực tự nhiên (thần mưa, thần sấm, thần sông, thần núi, thần mây, thần biển…). Trong sự tôn thờ, tín ngưỡng các thế lực siêu nhiên mạnh mẽ đó thì con người trong thời kỳ này cũng thờ cúng các sự vật xung quanh, gần gũi với mình như : cá, chim, bò, các loại cây… Đây là hình thức tín ngưỡng Tô tem giáo. Tóm lại, sự thần thánh hoá các sự<span style="mso-spacerun:yes"> </span>vật - hiện tượng trong tự nhiên là hình thức tín ngưỡng sơ khai đầu tiên của con người. Con người nhận thấy sự cần thiết phải tôn thờ các sự vật - hiện tượng tự nhiên, tạo ra mối liên hệ đầu tiên giữa con người với thế giới tự nhiên.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Mặt khác, khi trong các Thị tộc có người chết đi, con người còn nhận thấy một mối liên hệ khác giữa người sống với người chết. Theo quan niệm của họ thì con người sau khi chết thể xác mất đi nhưng linh hồn vẫn bất tử. Linh hồn vẫn tiếp tục một cuộc sống khác ở thế giới bên kia, ở nơi chín suối. Nó vẫn tồn tại những nhu cầu như người còn sống trên trần thế. Do đó, người ta chôn theo người chết những đồ tùy táng (chia theo thứ bậc, địa vị trong xã hội) để họ dùng ở thế giới khác. Càng về sau thì các hình thức, nghi lễ tống tiễn người chết về chốn suối vàng càng phong phú, đa dạng tùy vào phong tục, tập quán của từng vùng. Nhưng cốt lõi của những nghi thức này là thể hiện lòng thành kính, tình yêu thương, quý trọng của người sống đối với người đã khuất. "<b><i>Từ ý niệm trên đây, mối liên hệ giữa người sống và người chết được tiếp tục duy trì, nhất là đối với cha mẹ ông bà qua đời, thì việc thờ cúng dần dần trở thành một tín ngưỡng - tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên"<a style="mso-footnote-id:ftn1" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn1" name="_ftnref1" title=""><span class="MsoFootnoteReference">1</span></a>.</i></b><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tóm lại, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên có nguồn gốc từ tín ngưỡng thờ cúng vật thiêng, sùng bái các hiện tượng siêu nhiên, tạo ra mối liên hệ giữa con người với thế giới tự nhiên. Còn trong thế giới của loài người<b> </b>bên cạnh sự sống cũng xuất hiện mầm móng của bệnh tật, tai nạn, chết chóc… nhưng con người thì bao giờ cũng mong muốn được lưu giữ người thân bên cạnh mình. Do đó, tục thờ cúng Tổ tiên ra đời như là một cách thức nhắc nhở sự có mặt của người đã khuất bên cạnh người thân của mình. Ơ người Việt nó đã nâng lên thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và nó có sức sống lâu đời cho tới ngày nay.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Khi bước vào xã hội phụ quyền, đặc biệt là thời kỳ phong kiến, người đàn ông đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong các hoạt động kinh tế và trong mọi sinh hoạt gia đình. Vì thế, quyền gia trưởng thuộc về người đàn ông. Ơ gia đình người đàn ông đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong các công việc thờ cúng, tế tự… cũng như là trụ cột của kinh tế của gia đình. Con cái mang dòng họ cha và đặc biệt những người con trai kế tục sự nghiệp của cha. Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên xác lập theo dòng họ cha bắt đầu từ đấy. Trong thời kỳ phong kiến, thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng họ thuộc về người con trưởng, trưởng tộc (con trưởng của dòng trưởng). Họ có vai trò, quyền lực to lớn trong gia đình, dòng tộc. Chính họ là những người quan trọng kế tục việc thực hiện các nghi lễ thờ cúng Tổ tiên trong gia đình, dòng họ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Với một nền kinh tế thuần nông như nước ta từ bao đời nay, quan niệm về gia đình, dòng họ và các thang bậc giá trị không có sự thay đổi. Người đàn ông trong các xã hội trước đó luôn có một gánh nặng kinh tế chủ yếu trong gia đình và việc nối dõi tông đường. Đặc biệt người con trưởng phải lo các công việc tang ma, thờ tự, hôn nhân, lễ lộc… trong gia đình. Đó vừa là trách nhiệm vừa thể hiện quyền lực của người đàn ông trong gia đình.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Gia đình, làng xóm người Việt là nơi cất giữ<span style="mso-spacerun:yes"> </span>kỹ càng truyền thống. Con người trong gia đình, dòng tộc không ai vượt qua cái ngưỡng cửa của <b><i>"sự<span style="mso-spacerun:yes"> </span>chết vào</i></b> <b><i>phần kia của đền thờ, vào trong cung thánh. Nhưng người này cũng như kẻ kia đều luôn trú ngụ dưới cùng một mái nhà. Các mối dây đã liên kết họ trong cuộc sống không bị cái chết tháo cởi…các mối dây này trở thành vững mạnh hơnvà trường cửu như việc thờ cúng Tổ tiên. Phải công nhận rằng gia đình, hiểu như thế mang một phẩm giá đặc biệt, một vẻ cao cả khiến người ta cảm kích…</i></b>"<a style="mso-footnote-id:ftn2" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn2" name="_ftnref2" title=""><span class="MsoFootnoteReference">2</span></a>. Xã hội Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> phát triển một nền nông nghiệp lạc hậu, nhưng bù lại con người trong xã hội đó thường rất coi trọng tình nghĩa; không chỉ đối với người sống mà còn đối với cả người đã khuất. Vì thế tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên được kế tục bền vững. Bởi "<b><i>Sự hiện diện của Tổ tiên giữa gia đình như thế chẳng phải là một tình trạng hoàn toàn thụ động đâu… các Tổ tiên sau khi đã được dâng cúng đầy đủ những gì thiết yếu vào các dịp lễ lạc, họ sẽ an lòng và bày tỏ sự hiện diện của mình bằng cách đổ tràn<span style="mso-spacerun:yes"> </span>ân lộc cho con cháu. Ngược lại, nếu<span style="mso-spacerun:yes"> </span>họ chọn chỗ chôn cất không được tốt, hoặc quên cúng lễ cần thiết hay tỏ ra dè sẻn, thì các ngài sẽ báo thù hay trừng phạt những kẻ có tội và khi ấy phải dời hài cốt, cúng lễ, đền tội đối với các vị tổ tiên không được mãn nguyện, thể theo các chỉ dẫn của các thầy địa</i></b> <b><i>lý hay thầy</i></b> <b><i>phù</i></b> <b><i>thủy</i></b>"<a style="mso-footnote-id:ftn3" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn3" name="_ftnref3" title=""><span class="MsoFootnoteReference">3</span></a>. Tổ tiên chính là mối dây liên kết gia đình, dòng họ. Vì thế tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên đã hình thành và lưu giữ<span style="mso-spacerun:yes"> </span>lâu bền như thế từ đời này sang đời khác.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Mặt khác từ khi nước ta tiếp thu Nho giáo của Trung Hoa với việc đề cao chữ hiếu thì việc phụng thờ cha mẹ, thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng họ thông qua những qui định về lễ thức ngày càng chặt chẽ. Dưới sự ảnh hưởng của Nho giáo trong xã hội phong kiến, vai trò người đàn ông trong gia đình vô cùng quan trọng. Người đàn ông không những có tiếng nói, trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội mà đối với gia đình họ cũng phải gánh lấy trách nhiệm nặng nề với tư cách là trụ cột của gia đình; đặc biệt trong việc phụng dưỡng, hiếu để với ông bà, cha mẹ khi còn sống mà còn có nghĩa vụ thờ phụng khi họ mất đi. Chế độ phong kiến đã ban cho người đàn<span style="mso-spacerun:yes"> </span>ông rất nhiều quyền hành ngoài xã hội và trong gia đình. Tuy nhiên trách nhiệm của họ cũng hết sức lớn lao. Dưới chế độ phong kiến ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa, đặc biệt là việc đề cao hiếu nghĩa, người đàn ông có một phận sự vô cùng lớn lao đối với việc chăm lo cho cuộc sống vật chất của gia đình, hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ và thờ tự Tổ tiên. Tư tưởng hiếu đạo của Nho gia rất phù hợp với đạo lý truyền thống từ bao đời nay của người Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>. Cho nên, qua hàng bao thế kỷ, tư tưởng này vẫn tồn tại và thấm nhuần trong mỗi người con đất nước. Nó không chỉ là một bổn phận đơn thuần mà còn là một thứ tình cảm thiêng liêng không gì thay thế được. Thờ cúng Tổ tiên trong gia đình, dòng họ trở thành một sứ mạng thiêng liêng của thế hệ sau đối với thế hệ trước đã khuất và truyền lại cho con cháu đời sau.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Con người Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> rất trọng tình nghĩa. Vì thế từ khi Nho giáo du nhập vào nước ta với việc chữ hiếu được đề cao như vậy càng khiến cho việc thờ cúng Tổ tiên ngày càng thể chế hóa. Đặc biệt "Suốt thời Lê cho đến thời Nguyễn, đều có lệ khen thưởng những người con hiếu nghĩa "cha mẹ sống lấy lễ mà thờ, cha mẹ chết lấy lễ mà táng". Ơ nhà Nguyễn việc tang lễ và thờ cúng Tổ tiên qui định như là một luật tục khá chi tiết đầy đủ, được tác giả Hồ Sĩ Tân chép thành sách "Thọ<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Mai Gia Lễ" lưu truyền đến ngày nay"<a style="mso-footnote-id:ftn4" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn4" name="_ftnref4" title=""><span class="MsoFootnoteReference">4</span></a>.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><b><span style="font-family:"Times New Roman"">II BẢN CHẤT VÀ MỘT SỐ NGHI LỄ CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN</span></b><span style="font-family:"Times New Roman""><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><b><span style="font-family:"Times New Roman"">II BẢN CHẤT CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Ở Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên có nguồn gốc từ xa xưa. Nhưng xét về bản chất nó có những biểu hiện cụ thể như sau:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Theo tác giả Toan Anh thì tín ngưỡng "<b><i>Thờ phụng Tổ tiên không phải là một thứ tôn giáo, mà là lòng thành kính và biết ơn của con người đối với người đã khuất</i></b>"<a style="mso-footnote-id:ftn5" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn5" name="_ftnref5" title=""><span class="MsoFootnoteReference">5</span></a>. Còn các công trình nghiên cứu của tác giả Đặng Nghiêm Vạn thì cho rằng: "Thờ cúng Tổ tiên là tôn giáo chính thống của người Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>…"<a style="mso-footnote-id:ftn6" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn6" name="_ftnref6" title=""><span class="MsoFootnoteReference">6</span></a>. Ơ một công trình "<b><i>Về tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay</i></b>" ông lại viết "Đạo thờ cúng Tổ tiên được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ thờ những người có công sinh dưỡng đã khuất, những người cùng huyết thống, mà còn thờ những người có công với cộng đồng làng xã, đất nước". Ngoài ra tác giả Đặng Nghiêm Vạn trong công trình này cũng đề cập sâu hơn về qui mô, biểu hiện của đạo thờ cúng Tổ tiên: "Đạo thờ thần thành hoàng, dòng họ gia đình thờ tổ tiên. Đạo thờ tổ tiên cũng có thể coi là thờ thần bản mệnh, thần bảo vệ đất nước, quê hương gia tộc".<a style="mso-footnote-id:ftn7" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn7" name="_ftnref7" title=""><span class="MsoFootnoteReference">7</span></a> Còn tác giả Nguyễn Đổng Chi trong công trình: Nông thôn Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> trong lịch sử - Tín ngưỡng thì nhận xét, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên "gần giống như một thứ tôn giáo"<a style="mso-footnote-id:ftn8" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn8" name="_ftnref8" title=""><span class="MsoFootnoteReference">8</span></a>. Riêng tác giả Lê Minh thì khẳng định thêm "thờ cúng Tổ tiên ở người Việt không chỉ được biểu hiện ở hai cấp nước và nhà, mà còn thấy sự thờ cúng tổ tiên của cộng đồng làng xã…những tổ tiên trung gian này cũng hết sức quan trọng"<a style="mso-footnote-id:ftn9" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn9" name="_ftnref9" title=""><span class="MsoFootnoteReference">9</span></a>. Tóm lại tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên cho đến hiện tại vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên những khia cạnh mà các nhà nghiên cứu đã đề cập đến đó là sự gợi mở đặc biệt quan trong cho chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Trước hết chúng tôi thống nhất với tác giả Nguyễn Đăng duy ở một số vấn đề về thờ cúng Tổ tiên. Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên không phải là một tôn giáo.. Bởi mặc dù nó có những nghi lễ cụ thể nhưng không có những tín điều, giáo lý chặt chẽ cũng như những biểu hiện của việc thờ cúng mỗi nơi có những biến tấu khác nhau từ Bắc vào <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>. Mục đích cuối cùng của việc thờ cúng Tổ tiên không phải là tìm một cứu cánh cho sự chết mà nó thể hiện một sự tin kính, thương yêu của người đang sống đối với người đã chết và hy vọng người chết đi sẽ phù hộ, ban phước lành cho người trong gia đình, dòng họ. Nó "bao hàm một khía cạnh khác là tìm về cội nguồn"<a style="mso-footnote-id:ftn10" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn10" name="_ftnref10" title=""><span class="MsoFootnoteReference">1</span></a><span class="MsoFootnoteReference">0</span>. Do vậy, thờ cúng tổ tiên xét về bản chất nó là một tín ngưỡng, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ bao đời nay. Nó không phải là một tôn giáo như nhiều tác giả trong và ngoài nước nhận xét. Bởi ngoài tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên ra thì ở nước ta còn có tín ngưỡng thờ Thần , thờ Mẫu có qui mô rộng lớn hơn nhiều, biểu hiện ở trong làng, ngoài ngõ,và trên bình diện đất nước. Còn thờ cúng Tổ tiên là chủ yếu thờ những người đã khuất trong gia đình, dòng tộc cùng một huyết thống. Người ta làm tang ma, cúng tế, kỵ, giỗ… người thân từ ngày qua đời và nghi lễ đó chỉ giới hạn trong những người cùng họ hàng, huyết quản chứ không mở rộng ra khỏi gia đình, không vượt qua lũy tre làng, vượt qua không gian của ngôi từ đường của dòng họ, nhà thờ tự hay nhà riêng của người quá cố. Tổ tiên theo nghĩa cụ thể của nó là những người đã sinh ra thế hệ con cháu có cùng dòng họ, cùng dòng máu. Chứ không có tổ tiên sinh ra cả một làng, một ấp, một xã… Nói tóm lại bản chất của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên trong cả nước (ở người Việt) đều mang chung ba khía cạnh sau đây:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">"Thờ cúng những người trong cùng dòng họ, máu mủ đã khuất, theo từng đơn vị gia đình, gia tộc…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Nó mang tính chất là một hình thái tín ngưỡng, thờ tự, cúng lễ, cầu mong linh hồn ông bà Tổ tiên "phù hộ" cho hiện thực cuộc sống của con cháu.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Nó cộng thêm khía cạnh uống nước nhớ nguồn. "Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"<a style="mso-footnote-id:ftn11" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn11" name="_ftnref11" title=""><span class="MsoFootnoteReference">11</span></a>.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Còn ở làng kông hề có tổ tiên sinh ra cả làng. Có chăng đó là những người khai làng, lập ấp,<span style="mso-spacerun:yes"> </span>những ông tổ các ngành nghề thủ công… thì sự thờ cúng ghi nhớ công ơn của họ không mang tính chất như việc thờ cúng Tổ tiên của dòng họ. Việc thờ cúng đó diễn ra ở đền, miếu và những vị có công trạng lớn như vậy với dân làng thường được phong thần (Thần làng). Họ có thể là những con người thật từng sinh sống ở một đơn vị làng xã theo một dòng họ nhất định. Nhưng trong làng còn tồn tại nhiều họ khác. Sự không cùng huyết thống như vậy của cư dân trong làng xã với những người có công với làng thì rất được tôn kính, thờ phụng nhưng họ không thể là tổ tiên của cả làng. Cho nên, xét tận cùng cái lý đó thì tục thờ Thần<span style="mso-spacerun:yes"> </span>làng không thuộc tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên. Nó ở mức độ rộng lớn hơn một gia tộc, một dòng họ với những nghi lễ đặc trưng riêng biệt mang tính chất hội hè, đình đám của cộng đồng ở một làng xã nhất định.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Tuy nhiên, cư dân sống trên đất nước Việt Nam là "Con rồng cháu tiên", được sinh ra từ một bọc trứng. Với truyền thuyết người con trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ lên ngôi vua Hùng, dựng ra nhà nước Văn Lang thì có lẻ vấn đề tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên phải chăng nên xét lại một lần nữa về bản chất của nó?! Bởi lẽ chúng ta có ngày giỗ Tổ Hùng Vương mùng<span style="mso-spacerun:yes"> </span>10 tháng 03 âm lịch hàng năm. Trong ngày đó cả dân tộc đều hướng về miền đất của các vua Hùng để dâng lễ, cúng tế như một cách tri ân, nhớ về nguồn cội của mình. Bởi chính họ là Tổ tiên của dân tộc ta.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Ơ đây vấn đề đặt ra không có gì mâu thuẫn với những gì chúng ta đã đề cập ở trên. Bởi chúng ta thống nhất một điều tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên<span style="mso-spacerun:yes"> </span>thuộc về một gia tộc, một dòng họ nhất định. Như vậy việc thờ cúng, giỗ chạp, nghi lễ chỉ diễn ra trong khuôn khổ những người cùng một huyết thống. Điều đó hoàn toàn có ý nghĩa thiêng liêng. Nhưng trong cuộc sống của mỗi con người, điều thiêng liêng không chỉ diễn ra trong mỗi gia đình, dòng họ của mình, trong nhà…Nó còn là sự biểu hiện của một thứ tình cảm thiêng liêng đối với quốc gia - dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một nguồn gốc, cội rễ của mình. Và do vậy, thờ cúng Tổ tiên ở góc độ này được nâng lên tính chất quốc gia, dân tộc.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Như vậy, vấn đề nảy sinh là tại sao việc thờ cúng Thần làng, những vị có công khai sinh lập ấp, những ông tổ của các ngành nghề thủ công…không phải tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên; trong khi đó việc thờ cúng các vua Hùng ngày mùng 10 tháng 03 hàng năm lại được xem là dịp giỗ Tổ của cả nước. Điều đó có thể hiểu ở góc độ văn hóa truyền thống như là một cách tìm về cội nguồn (uống nước nhớ nguồn). Theo lời Bác Hồ dạy "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải giữ lấy nước". Việc cả dân tộc cùng hướng về nguồn cội với tinh thần đoàn kết đồng bào bảo vệ và xây dựng đất nước là nghĩa vụ tình cảm thiêng liêng của bất cứ một quốc gia - dân tộc nào trên thế giới. Cho nên, ngày giỗ các vua Hùng mang ý nghĩa thiêng liêng của cả một dân tộc. Mỗi một dân tộc tự nhận mình thuộc về một nguồn gốc nhất định, cũng như chúng ta tự hào mình là con rồng cháu tiên vậy. Cho nên ngày mùng 10 tháng 03 như là ngày đặc biệt của dân tộc<span style="mso-spacerun:yes"> </span>- con cháu của các vua Hùng, cùng hội tụ về đây để dâng hương tưởng niệm đến công đức của các vị đã khai sinh ra quốc gia - dân tộc. Chúng ta phải luôn ghi nhớ đến điều này và tự hào vì nó. Còn việc thờ Thành hoàng… thường thuộc về một làng xã nhất định. Những ngày lễ bái Thành hoàng thường gắn với hội hè, đình đám. Thành hoàng không phải người sinh ra cả làng hay cả dân tộc. Người ta tôn thờ các vị ấy cũng với một ý nghĩa thiêng liêng thuộc về một đơn vị làng xóm nhất định. Nhưng các vị này không phải là Tổ tiên của một làng nào đó. Cho nên chúng ta mặc dù tự hào từ cái bọc trăm trứng của mẹ Au<span style="mso-spacerun:yes"> </span>cơ sinh ra nhưng không thể suy luận theo một logic rằng: từ cùng một tổ tiên đó mà con người sống trên lãnh thổ Việt Nam đều cùng một họ. Bởi lẽ, chúng ta đành rằng có cùng một nguồn cội, nhưng cũng chính từ đó những dòng họ khác nhau được sinh ra. Con người nào sống trên lãnh thổ đó đều thuộc về một gia đình, dòng họ nhất định. Cho nên người Việt Nam bên cạnh niềm tự hào về nguồn gốc rồng tiên của mình thì còn phải có tránh nhiệm, bổ phận thiêng liêng với dòng họ sinh ra mình. Như vậy, bên cạnh ý thực về một nòi giống cao quý thì con người Việt Nam có một ý thức cao độ về tính chất dòng họ, gia đình riêng tư của mình. Điều này đối với chúng ta đặc biệt quan trọng. Bởi chính nơi đó chúng ta được trực tiếp sinh ra và lớn lên. Vì thế, chúng ta phải có bổn phận đối với thế hệ sinh thành ra mình. Một trong những cách biểu hiện của bổn phận con cái đó là thương yêu, chăm sóc, hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà khi còn sống và thực hiện phận sự thờ cúng Tổ tiên khi đã khuất. Cho nên, trong gia đình, dòng họ việc thờ cúng Tổ tiên có ý nghĩa quan trọng nhất. Còn tưởng nhớ cội nguồn trong ngày giỗ Tổ Hùng Vương đó là một điều hết sức thiêng liêng của mỗi người con trên đất nước này.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><b><span style="font-family:"Times New Roman"">II NHỮNG NGHI<span style="mso-spacerun:yes"> </span>LỄ CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN<span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Thờ cúng tiên bắt đầu từ khi ông bà, cha mẹ qua đời cho đến hết năm đời con cháu kỵ giỗ mang tính chất kỷ niệm.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Trước tiên nó bắt đầu từ nghi thức tang lễ khi ông bà, cha mẹ qua đời. Mỗi cộng đồng tộc người sống trên lãnh thổ Việt Nam đều có những quan niệm và những nghi thức riêng về tang lễ. Đối với người Việt (Kinh) tang lễ bắt nguồn từ quan niệm của Phật giáo, Nho giáo và cả Đạo giáo. Cúng lễ bắt đầu khi quan tài còn quàn trong nhà(tính từ lúc thi hài được khâm liệm trong áo quan đã lập bàn thờ thờ hồn bạch người chết, sau đó là lễ phục hồn, lễ chúc thực, lễ đưa tang - đưa linh hồn người chết an toàn về thế giới bên kia). Sau khi mai táng xong thì người ta đưa hồn bạch về lập bàn thờ người mới chết bên cạnh bàn thờ Tổ tiên; phía trên treo bức đại tự viết trên vải với những dòng chữ khác nhau tùy vào vị trí người chết trong gia đình (cha, mẹ, chồng, vợ). Sau đó người việt bắt đầu lịch lễ cúng người chết: lễ cúng cơm hàng ngày, cúng cơm 3 ngày (cúng mở cửa mả), cúng tuần 7 ngày, phải cúng đủ 7 tuần (49 ngày). Cúng 49 ngày để giải toả phần tiểu vũ trụ đã hình thành nên thể xác con người bao gồm có hồn có vía (theo quan niệm của phương Đông người đàn ông có 3hồn 7vía còn người phụ nữ có 3hồn 9vía), để linh hồn đầu thai kiếp khác. Sau khi người chết đi cúng đủ 100 ngày thì thôi không phải cúng cơm hàng ngày nữa. Bởi người ta quan niệm lúc này linh hồn đã có thể tự lập ở thế giới bên kia. Người thân mất đúng một năm thì thực hiện cúng giỗ lần đầu tiên và khi giỗ 3 năm thì con cháu được đoạn tang. Người chết chuyển sang làm người ở kiếp khác trong vòng luân hồi. Sau khi hêt thời gian cúng người chết thì bạch hồn người chết hóa đi, tên cúng cơm được viết vào bài vị, nhập vào hàng bài vị thờ cúng Tổ tiên, nhằm nhắc nhở con cháu nhớ ngày kỵ của ông bà, cha mẹ. Quá trình chịu tang trong 3 năm là để con cháu suy ngẫm, tưởng nhớ một cách chân thành nhất công ơn cao cả của ông bà, cha mẹ đã sinh dưỡng cho mỗi thành viên trong gia đình khôn lớn nên người. Do đó, họ càng ý thức sâu sắc hơn trách nhiệm thờ cúng Tổ tiên để họ được an ủi linh hồn, thỏa lòng nơi chín suối. Vì thế nghi lễ thờ cúng Tổ tiên vì thế càng có ý nghĩa quan trọng, thiêng liêng hơn. Cúng giỗ Tổ tiên thuộc về trách nhiệm của người con trai cả dòng đích. Nếu trong gia đình người cha đã<span style="mso-spacerun:yes"> </span>mất thì con trưởng sẽ kế tục thờ cúng Tổ tiên. Còn nếu người con trưởng cũng mất sớm mà người con trai kế tự còn nhỏ thì "việc thờ cúng Tổ tiên sẽ thuộc về người mẹ trong gia đình. Nhưng nếu người con trai cả chết không có con trai kế tự, mà chỉ có con gái thì người vợ mất quyền thừa kế thờ tự cúng giỗ Tổ tiên nhà chồng. Trong trường hợp này, quyền thứa kế thuộc về các con trai của người em thứ nhất hoặc người em thứ hai"<a style="mso-footnote-id:ftn12" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftn12" name="_ftnref12" title=""><span class="MsoFootnoteReference">12</span></a>. Tuy trách nhiệm thờ cúng Tổ tiên chủ yếu thuộc về con cả dòng đích nhưng tất cả con cháu trong gia đình, dòng họ đều phải có bổn phận cùng tham gia vào ngày kỵ, giỗ Tổ tiên.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Việc thờ cúng Tổ tiên quan trọng nhất vào ngày kỵ giỗ, đúng vào ngày ông bà, cha mẹ qua đời. Theo tục lệ, vào ngày giỗ, các con cháu góp giỗ, tụ hội về nhà người con trưởng dòng đích, phụ nữ thì lo công đoạn chuẩn bị thức ăn; đàn ông, con trai thì dọn bàn, sắp xếp cổ bàn cúng gia tiên. Sau đó, con cháu cùng hưởng lễ ăn uống cùng nhau và cùng với khách mời trong buổi kỵ giỗ ông bà, cha mẹ. Trong ngày hôm đó con cháu tụ họp lại bàn lễ vật lên bàn thờ cúng gia tiên và cùng nhau ăn uống cổ lễ, nhắc nhở lại những kỷ niệm với người đã khuất. Tất cả những việc làm đó của con cháu thể hiện sự tưởng nhớ, lòng thành kính thương yêu của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Điều đó làm dấy lên lòng hiếu thảo của con cháu đối với cha mẹ, tổ tiên. Tổ tiên vì thế luôn hiển hiện trong cuộc sống của con cháu trong gia đình không chỉ trong ngày kỵ giỗ mà còn trong các ngày lễ tết trong năm, đặc biệt là ngày tết cổ truyền của dân tộc. Nói tóm lại, trong tâm thức của người Việt thì tổ tiên luôn luôn hiển hiện trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người trong hiện taị.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman"">Bàn thờ gia tiên được thiết chế theo những qui định chặt chẽ. Trong ngôi nhà thì gian giữa là quan trọng nhất, đặt bàn thờ gia tiên. Bàn thờ gia tiên là nơi hết sức thiêng liêng và nó được bố trí theo một trật tự nhất định. Nơi cao nhất của bàn thờ gọi là giường hành, trên đó đặt cổ ngai, trong ngai đặt bài vị Thủy tổ hoặc Tiên tổ chi chủ. Tiếp xuống đặt bài vị kỵ ông - kỵ bà, cụ ông - cụ bà, ông - bà, cha - mẹ. Ngoài ra chỗ đặt bài vị có thể có những bài vị nhỏ thờ nhựng người chết trẻ chưa lập gia đình. Tiếp xuống đặt<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Còn các gian khác thì cũng phải theo trật tự bố trí chặt chẽ. Tất cả mọi hoạt động của con cháu trong nhà đều diễn ra trước mắt Tổ tiên. Tổ tiên vì thế hàng ngày, hàng đời sống bên cạnh con cháu, theo dõi, dẫn dắt con cháu mọi công việc làm ăn hoạt động của con cháu trong nhà. Ơ những dòng họ lớn quan lại giàu có ngày xưa thì việc thờ cúng tổ tiên không kém việc thờ Thần hoàng. Ngôi nhà gỗ đại khoa được dựng lên để làm nhà từ đường thờ cúng tổ tiên.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent"><span style="font-family:"Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="text-indent:0cm"><span style="font-family: "Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span><span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;line-height:130%"><b><span style="font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal"><span style="font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <div style="mso-element:footnote-list"><!--[if !supportFootnotes]--><br /> <hr align="left" size="1" width="33%"> <!--[endif]--> <div style="mso-element:footnote" id="ftn1"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn1" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref1" name="_ftn1" title=""><span class="MsoFootnoteReference">1</span></a> Nguy<span style="font-family:"Times New Roman"">ễ</span>n <span style="font-family:"Times New Roman"">Đă</span>ng Duy, Các hình thái tín ng<span style="font-family:"Times New Roman"">ưỡ</span>ng tôn giáo <span style="font-family:"Times New Roman"">ở</span> Vi<span style="font-family:"Times New Roman"">ệ</span>t Nam, NXB V<span style="font-family:"Times New Roman"">ă</span>n hóa - Thông tin, Hà N<span style="font-family:"Times New Roman"">ộ</span>i, N<span style="font-family: "Times New Roman"">ă</span>m 2001,Tr 28.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn2"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn2" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref2" name="_ftn2" title=""><span class="MsoFootnoteReference">2</span></a> Léopold Cadìere, V<span style="font-family:"Times New Roman"">ề</span> v<span style="font-family:"Times New Roman"">ă</span>n hóa và tín ng<span style="font-family:"Times New Roman"">ưỡ</span>ng truy<span style="font-family: "Times New Roman"">ề</span>n th<span style="font-family:"Times New Roman"">ố</span>ng ng<span style="font-family:"Times New Roman"">ườ</span>i Vi<span style="font-family:"Times New Roman"">ệ</span>t, NXB V<span style="font-family: "Times New Roman"">ă</span>n hóa - Thông tin, Hà N<span style="font-family: "Times New Roman"">ộ</span>i, N<span style="font-family:"Times New Roman"">ă</span>m 1997, tr 40.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn3"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn3" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref3" name="_ftn3" title=""><span class="MsoFootnoteReference">3</span></a> Léopold<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Cadìere, Sđd,…, Tr 44.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn4"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn4" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref4" name="_ftn4" title=""><span class="MsoFootnoteReference">4</span></a> Nguy<span style="font-family:"Times New Roman"">ễ</span>n <span style="font-family:"Times New Roman"">Đă</span>ng Duy, Sđd,.., Tr 31.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn5"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn5" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref5" name="_ftn5" title=""><span class="MsoFootnoteReference">5</span></a> Toan Anh, N<span style="font-family:"Times New Roman"">ế</span>p c<span style="font-family:"Times New Roman"">ũ</span> tín ng<span style="font-family:"Times New Roman"">ưỡ</span>ng Vi<span style="font-family:"Times New Roman"">ệ</span>t Nam, NXB Tp. H<span style="font-family:"Times New Roman"">ồ</span> Chí Minh, N<span style="font-family:"Times New Roman"">ă</span>m 1992.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn6"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn6" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref6" name="_ftn6" title=""><span class="MsoFootnoteReference">6</span></a> <span style="font-family:"Times New Roman"">Đặ</span>ng Nghiêm V<span style="font-family:"Times New Roman"">ạ</span>n, <span style="font-family:"Times New Roman"">Đ</span>i<span style="font-family:"Times New Roman"">ể</span>m qua tình hình tôn giáo hi<span style="font-family:"Times New Roman"">ệ</span>n nay, NXB KHXH, Hà N<span style="font-family:"Times New Roman"">ộ</span>i, N<span style="font-family: "Times New Roman"">ă</span>m 1994.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn7"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn7" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref7" name="_ftn7" title=""><span class="MsoFootnoteReference">7</span></a> <span style="font-family:"Times New Roman"">Đặ</span>ng Nghiêm V<span style="font-family:"Times New Roman"">ạ</span>n ch<span style="font-family: "Times New Roman"">ủ</span> biên, V<span style="font-family:"Times New Roman"">ề</span> tôn giáo tín ng<span style="font-family:"Times New Roman"">ưỡ</span>ng <span style="font-family:"Times New Roman"">ở</span> Vi<span style="font-family:"Times New Roman"">ệ</span>t Nam hi<span style="font-family:"Times New Roman"">ệ</span>n nay, NXB KHXH, Hà N<span style="font-family:"Times New Roman"">ộ</span>i, 1994, Ttr 315, tr 317. </p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn8"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn8" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref8" name="_ftn8" title=""><span class="MsoFootnoteReference">8</span></a> Nguy<span style="font-family:"Times New Roman"">ễ</span>n <span style="font-family:"Times New Roman"">Đổ</span>ng Chi, Nông thôn Vi<span style="font-family:"Times New Roman"">ệ</span>t Nam trong l<span style="font-family:"Times New Roman"">ị</span>ch s<span style="font-family:"Times New Roman"">ử</span> - Tín ng<span style="font-family: "Times New Roman"">ưỡ</span>ng, NXB KHXH, Hà N<span style="font-family:"Times New Roman"">ộ</span>i, 1978.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn9"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn9" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref9" name="_ftn9" title=""><span class="MsoFootnoteReference">9</span></a> Lê Minh (ch<span style="font-family:"Times New Roman"">ủ</span> biên), Th<span style="font-family: "Times New Roman"">ự</span>c tr<span style="font-family:"Times New Roman"">ạ</span>ng v<span style="font-family:"Times New Roman"">ă</span>n hóa gia đình Vi<span style="font-family:"Times New Roman"">ệ</span>t Nam, NXB Lao đ<span style="font-family:"Times New Roman"">ộ</span>ng, Hà N<span style="font-family: "Times New Roman"">ộ</span>i, N<span style="font-family:"Times New Roman"">ă</span>m 1994, Tr 300.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn10"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn10" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref10" name="_ftn10" title=""><span class="MsoFootnoteReference">10</span></a> Nguy<span style="font-family:"Times New Roman"">ễ</span>n <span style="font-family:"Times New Roman"">Đă</span>ng Duy, Sđd…, Tr 32.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn11"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn11" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref11" name="_ftn11" title=""><span class="MsoFootnoteReference">11</span></a> Nguy<span style="font-family:"Times New Roman"">ễ</span>n <span style="font-family:"Times New Roman"">Đă</span>ng Duy, Sđd…, Tr 38-39.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn12"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn12" href="file:///E:/HUYNH%20DUC%20THIEN/NEW%20FILES/TIN%20NGUONG%20THO%20CUNG%20TO%20TIEN.doc#_ftnref12" name="_ftn12" title=""><span class="MsoFootnoteReference">12</span></a> Nguy<span style="font-family:"Times New Roman"">ễ</span>n <span style="font-family:"Times New Roman"">Đă</span>ng Duy, Sđd…, Tr 56.</p> </div></div>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-85664383306545736232011-04-20T08:08:00.000-07:002011-04-20T08:09:47.200-07:00DANH MUC SACH TIENG VIET LUU TRU TAI THU VIEN QUOC GIA PHAP<p class="MsoNormal"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:19.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Danh mục sách lưu trữ tại thư viện quốc gia Pháp<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:19.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"><o:p> </o:p></span></b></p> <table border="0" cellspacing="0" cellpadding="0" style="border-collapse:collapse; mso-table-layout-alt:fixed;mso-yfti-tbllook:480;mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <tbody><tr style="mso-yfti-irow:0;mso-yfti-firstrow:yes"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="mso-bidi-language:HE">Tên sách<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="mso-bidi-language:HE">Tác giả<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="mso-bidi-language:HE">Năm xb<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="mso-bidi-language:HE">Nhà in<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="mso-bidi-language:HE">Code<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:1"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Alê xù truyện<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1919<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. De la Mission<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 293<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:2"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Alphabet syllabaire et exercice de lecture en quocngu…. <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1910<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. De la Mission Catholique<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. Piece.2154<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:3"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Âm chất văn diễn ca, cảm ứng, cứu khổ (diễn ra văn quốc ngữ)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Phan Trang Dức<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1922<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. De l’union Nguyễn Văn Của<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 590<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:4"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Âm chất văn diễn ca, sau có cảm ứng diễn ca giản luận với công quá cách <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Trần Đằng Huy<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1917<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. F.H. Shneider<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8oYa. 476<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:5"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Ân tìh thi vịnh<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Ed. Par Huỳnh Kim Danh<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1912<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. Huỳnh Kim Danh<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8oYa. 484<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:6"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">An Nam Phật học hội Điều lệ và quy tắc<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">AN Phật học hội<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1932<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. Mirador<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o021. 969<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:7"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Appendix ad dictionarium latino-anamiticum = Conchin-chinese vocabulary = vocabulary cochinchinoise = tự vị an nam<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1838<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">X. 4656<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:8"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Vocabulaire francaise annamite<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Aubaret (Gabriel)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1861<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. De la Mission Catholique<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">X. 20520<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:9"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bá nhẫn ca : Nói về sự làm người phái nhẫn <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Huỳnh Thúc Mậu<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1916<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. F.H. Shneidere<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o. R. 30070<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:10"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bác Dương kinh<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Cao Văn Lỏi<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1919<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. De l’union dNguyễn Văn Của<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o 021. 434<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:11"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bạch viên tôn các thơ <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Đặng Lễ Nghi<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1911<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. Phát toán<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 127<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:12"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bạch viên tôn các truyện<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Huỳnh Kiim Danh<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1911<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. F. H. Shneider<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 117<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:13"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bạch xà diễn nghĩa <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Đinh văn Đấu dịch<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1017<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. Huỳnh Kim Danh, et F.H. Shneider<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Y2. 24564<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:14"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bạch xà thanh xà diễn nghĩa. <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Cao Hải Để<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1915<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp., Nguyenẽ Văn Viết<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Y2 Piece. 2666<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:15"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài ca ân tình<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Huỳn văn Ngà dịch<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1916<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8oYa. 425<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:16"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài ca bát tài tử<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1913<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 220<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:17"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài ca cải lương<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Nguyễn Thường Ký dịch<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1922<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">`<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 600<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:18"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài ca Lục vân tiên mới đặt. <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Ed. Par Đặng thanh kim<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1913<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 241<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:19"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài ca Lục vân tiên theo lối kiêm thời : cuốn thứ nhất. <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Trad. Par Trần tựu thành<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1923<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">`<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. 626<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:20"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài ca mới thập nhị tài tử<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1914<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Phát Toán<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 546<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:21"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài ca nhị thập tứ hiếu<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Trad. Par Huỳn Văn Ngà<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1916<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. J. Viết<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8oYa 422<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:22"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài ca Sáu trọng toàn bổn <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Huỳnh V., Liêng<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1916<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. J. Viết<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya Piece 208<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:23"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài ca tình nhân, cữu tài tử tiếp theo<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Nguyễn Đăng Giai dịch<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1916<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. <st1:place st="on">Union</st1:place><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece 210<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:24"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài ca tứ<span style="mso-spacerun:yes"> </span>tài tử<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">ĐẶng Nhiều Hơn<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1915<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. De l’union<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 206<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:25"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài gẫm dọn ra theo cách kiểu ong thanh A. de Ligorio <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1924<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. De la Mission<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">D. 74855<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:26"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài giảng khen trường kỳ chùa Giác Lâm <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1922<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Fol Ya. Piece. 2<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:27"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài Giang <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1920<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">`<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. 569 (2)<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:28"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài Hịch con quạ <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Trương Vĩnh Ký chép ra quốc ngũ và giải nghĩa<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1883<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya Piece. 61<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:29"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài ông địa và tiên nương : hát đối đáp theo cuộc múa bông<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Lê Xuân Sắc trad.<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1915<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. Saigonaise L. Roỷe<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 194<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece 195<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:30"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bài thơ và lời evang đọc ngày chúa lễ cả trong năm<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1906<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. De la Mission<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">D. 73417<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:31"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bản đờn kiềm<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Trad. Nguyễn Tùng Bá<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1913<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. De l’Union<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 343<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:32"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Dictionnaire francaise – annamite <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Barbier (Victor)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1924<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. D’Extreme orient<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. 17462<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:33"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Exercice gradue pour servir a l’etude de la langue annamite<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Barbier (Victor)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1926<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. D’Extreme Orient<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. Piece. 2769<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:34"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Lex expression comparatives dans la langue annamite <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Barbier (Victor)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1925<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. Piece. 2746<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:35"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Grammaire annamite <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Barbier (Victor)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1925<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. 17467<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:36"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Nouveau vocabulaire francaise – tonkinoise et tonkinoise – francaise <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Beauregard (Crepin B. de)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1925<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. 17501<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:37"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Premier lecón d’annamite ….<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Berjot (j.)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1907<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. Piece. 1832<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:38"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bích câu kỳ ngộ <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Lê Kim Giang<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Hà Nội, Phu Vân<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1922<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 578<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:39"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Biên phận tà chính<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><st1:place st="on"><st1:city st="on"><span style="mso-bidi-language:HE">Bangkok</span></st1:city></st1:place><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1844<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X011. 1794<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:40"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Biên phận tà chính. Mặc tưởng thần công<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1842<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X011. 1750<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:41"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bình sanh lãnh yến toàn ca : tho tứ tài tử<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Trần Phong sắc<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1924<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. Du centre<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. 625<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:42"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Premiere lecture francaise a l’usage des elevé des ecole cantonais<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Blaquiere (H.)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1907<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. 13 176 (1-2)<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:43"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bội phu quả báo : tuồng hát cải lương <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Phạm Công Bính<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1924<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. 637<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:44"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Lexique francaise annamite<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bolliet (Mme W)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1917<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. 15 779<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:45"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Manuel de conversation franco-tonkinoise <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bon (Cố Bản) et Dronet (cố Ân)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1889<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. 13859<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:46"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bổn dạy chầu nhưng <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1911<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">D. 89012<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:47"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bổn dạy chữ mẫu ABCD…. Cùng phép đánh vần<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1884<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG, imp. De la Mission<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. Piece. 1114<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:48"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bổn dạy đánh vần tiếng lang sa<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1892<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. Piece 990<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:49"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bổn dạy đánh vần tiếng Lang Sa<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1906<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG. Imp. De la Mission<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. Piece 1790<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:50"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bổn dạy tiếng Latinh<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1869, SG. <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X011. 1734<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:51"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bổn dạy về sự ái mộ nguyện gẫm cùng về sự tĩnh tâm<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1918<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">D. 74 791<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:52"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bốn mươi bảy điều giáo hoá triều Lê<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Trần Trọng Kim<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">HN. 1928<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Trung Bắc Tân Văn<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. 748<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:53"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Dictionnaire annamite francaise<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bonet (jean)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><st1:place st="on"><st1:city st="on"><span style="mso-bidi-language:HE">Paris</span></st1:city></st1:place><span style="mso-bidi-language:HE">, 1899<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">4o X. 1726<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:54"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bóng cầu mời : Hội Bác tiên<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Đinh lễ nghi<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG. 1915<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Imp. De l’Union<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 188<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:55"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Tam Quốc tuồng<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1913<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya Piece 234<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:56"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Sãi Vãi<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Cheon…<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1886<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya 39<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:57"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Manuel franco-annamite de conversation usuelle<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG. 1906<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. 13 175<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:58"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Methode de lecture franco-annamite<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Boscq<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1910<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. 14. 664<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:59"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Morale et lecon de chose en quoc ngu<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Boscq (Jean C. )<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1898<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o R. 15 534<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:60"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Gương thế sự : ngụ ngôn văn tập <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bùi Huy cường<span style="mso-spacerun:yes"> </span>(Nam Hương)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1924<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">thuỵ ký, Hn<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 629<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:61"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Nhời con trẻ : bài tập đọc và bài học thuộc lòng<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bùi Huy Cường<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>1923<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Thanh niên ấn quán<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 586<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:62"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Sách họ quốc ngữ vỡ lòng<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bùi Kim tiến (<st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> thanh)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1923<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Nghiêm Hàm ấn quán<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X. Piece. 2711<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:63"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bướm hoa truyện<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">kNguyễn Hữu tình<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1922<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">HN. Vĩnh thành công ty in<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 597<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:64"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bìa ca Giang nam Phụng cầu<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1915<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG. Imp. De l’Union<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. 424<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:65"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Ca hát các ngày lễ trong năm (catholique)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1842<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X011. 1744<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:66"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Ca ngợi đức chúa bà Maria<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1907<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. 282<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:67"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Ca ngợi đức chúa Giê xu<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1888<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. 128<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:68"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Ca từ diễn nghĩa <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Trương Minh Ký<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1896<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. 153<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:69"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Tình non nước <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Cấn Vũ Ích<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1924<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">HN. Thuỵ Ký<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. 365<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:70"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Ơn nước nợ nhà<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Cao Hải Để<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1924<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG. Imp. Du Centre<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Y2 25162<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:71"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Bác kiết nội gia<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Cao Văn Lợi<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1919<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o 021. 435<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:72"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Sách tiếng thổ<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Cao Xuân Thiện<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1923<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">HN<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">4oX. Piece. 294<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:73"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Câu hát góp <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Huỳnh Tịnh Của<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1897<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 40/72/115<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:74"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Câu hát huê tình<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Thiên Hương<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1911<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Sg<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 112<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:75"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Câu hát kiêm thời <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Đặng lễ nghi<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1915<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">GS<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece191<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:76"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Câu hát và hò góp<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Đặng Tấn Tài<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1915<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece 196<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:77"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Cháng nhái kiễn tiên<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Đặng Lễ Nghi<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1910<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. 356<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:78"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Chánh tà : vãn. lục súc tranh công<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1889<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 25<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:79"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Tấm gương trinh bạch <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Châu minh Tạo<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1925<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8oR. Piece. 16399<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:80"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Cours de langue annamite<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Chéon (Jean Nicolas dit A.)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1904<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">HN, imp. Shneider<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">4o X. 785<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:81"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Recueil de formules sino-annamite<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Chéon<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1905<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">HN. Shneider<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o X011. 1735<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:82"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Chí hiếu thành tiên<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Đặng Lễ Nghi<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1913<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 362<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:83"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Chiêu quân cống hồ<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Đặng Lễ Nghi<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1917<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Ya. Piece. 364<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:84"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Chữ chung tình<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Mai Phương dịch<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1924<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Hải Phòng<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Y2. Piece. 2677<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:85"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Chú lái buôn thành Venise (Shakespeare)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Nguyễn Hảo Vĩnh dịch<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1920<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG. <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o Y2 24923<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:86"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Chung Vô Diệm<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Nguyễn Hữu Sanh<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1910<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">SG. Shneidẻ<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">8o O2 1. 341<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:87"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Chyenẹ đời xưa (chuyện Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>) <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Abel dé Michel<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">1888<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE">Z. renan. 8 887<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:88;mso-yfti-lastrow:yes"> <td width="367" valign="top" style="width:275.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="180" valign="top" style="width:135.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> <td width="132" valign="top" style="width:99.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> </td> </tr> </tbody></table> <p class="MsoNormal"><span lang="HE" dir="RTL" style="mso-bidi-language:HE"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><o:p> </o:p></p> <p class="MsoNormal"><o:p> </o:p></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-29412211150600210472011-04-20T08:05:00.000-07:002011-04-20T08:08:31.460-07:0060 NAM KINH TE VIET NAM (1945 - 2005)<p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US">Đặng Phong<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:6.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><span style="font-family: "Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family: Arial;mso-ansi-language:EN-US">BÀI HỌC VỀ CHỮ DÂN, RÚT TỈA TỪ CHẶNG ĐƯỜNG 60 NĂM KINH TẾ VIỆT <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">NAM</st1:place></st1:country-region><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:6.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><i><span style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:EN-US">(Tham luận tại hội thảo khoa học kỷ niệm 60 năm cách mang tháng Tám tại Hà nội, ngày 15 tháng 8 năm 2005)<o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US"><span style="mso-tab-count:1"> </span>Kể từ ngày thành lập nước Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> dân chủ cộng hoà đến nay, nền kinh tế VN đã trải qua một chạng đường 60 năm. Trong 60 năm đó, đã hiện diện 3-4 thế hệ Việt nam. Thế hệ của tôi, ngót 70 tuổi, có lẽ là thế hệ được nếm trải nhieu thứ<span style="mso-spacerun:yes"> </span>“ mùi vị” nhất của chặng đường đó.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Từ năm 1995 tôi may mắn được nhà nước giao biên soạn bộ “Lịch sử 60 năm Kinh tế VN 1945-2005”. Đến nay chúng tôi đã tiến hành công việc được đúng 10 năm. Hai 2 tập đầu đã được xuất bản. Còn tập cuối cùng thì cũng đã gần xong bản thảo.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Hôm nay tôi xin thử rút tỉa từ lịch sử đó một bài học mà tôi tâm đắc nhất từ chặng đường 60 năm qua của nền kinh tế VN. Đó là bài học về chữ DÂN.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Nội dung của<span style="mso-spacerun:yes"> </span>bài học này<span style="mso-spacerun:yes"> </span>thì không phải là một phát hiện gì mới . Hầu như ai cũng biết cả rồi. Vấn đề chỉ là: thử kiểm điểm lại xem trong 60 năm qua ta đã thuộc bài đến đâu và ta đã vận dụng thế nào. </span><span style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal; mso-bidi-font-style:normal"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Nhìn lại chặng đường đã qua, nghiệm thấy rằng lúc nào và ở đâu chúng ta trân trọng chữ Dân trong các chính sách và biện pháp kinh tế thì ta thành công lớn, thậm chí có thể làm nên những kỳ tích. Còn ở đâu và lúc nào mà chữ Dân bị sao nhãng, thậm chí bị trà đạp, thì kinh tế ách tắc, đời sống khó khăn, xã hội không yên...<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Như sau cách mạng, trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc, không có súng, không có tiền, không có gạo, không có chữ..., nhưng nhờ<span style="mso-spacerun:yes"> </span>dân mà ta có phong trào nhường cơm xẻ áo, tấc đất tấc vàng, có Quỹ độc lập, có Tuần lễ vàng, có hũ gạo cứu đói, ta đã chống đói thành công, ta đã xoá được nạn mù chữ, ta chế tạo và<span style="mso-spacerun:yes"> </span>mua sắm được vũ khí, ta giữ vững được nền độc lập. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Rồi trong suốt 8 năm kháng chiến gian khổ, cũng nhờ chữ Dân mà bộ đội, cơ quan có cơn ăn, áo mặc, có chỗ ở. Mà bản thân bộ đội, cán bộ, dân công...thì cũng là từ dân mà ra.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Để kiểm nghiêm chân lý này, cũng phải kể rằng đã có lúc do ta ấu trĩ nên đã vi phạm chữ Dân. Ví như năm 1949, ta học tập kinh nghiệm về chủ nghĩa cộng sản thời chiến của Liên Xô mà áp dụng chính sách “hoá giá” trong toàn vùng kháng chiến. Chuyện đó ứng nghiệm lắm. Chính vị bộ trưởng thảo ra chủ trương đó trên đường đi công tác suốt từ Việt Bắc đến khu III gần 2 ngày không có gì ăn, vì chợ không ai họp, hàng quán đóng cửa hết... Một tuần sau đó, chính Chủ tịch HCM đã ký lệnh bãi bỏ chủ trương này, thì chợ lại họp, hàng quán lại mở, đời sống lại bình thường trở lại...<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Trong 20 năm kháng chiến chống Mỹ, ta đã dựa vào dân để gây những phong trào Thanh niên 3 sẵn sàng, Phụ nữ 3 đảm đang, Vừa sản xuất vừa chiến đấu, Củng cố hậu phương lớn,Chi viện cho tiền tuyến lớn... Về sự nghiệp lớn lao này, khó nói cho hết nội dung được, nhưng một nhân tố quyết định của mọi thành công của sự nghiệp đó cũng vẫn là chữ Dân.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Ta lại so với chính quyền miền <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region> thời đó, với các ông Ngô đình Diệm, Nguyễn văn Thiệu... Xét về năng lực của những chính khách, thì có lẽ họ cũng không đến nỗi kém cỏi lắm. Đã thế, họ lại được chi viện tới mức mà tính ra con số thì chưa có một nước nào trên thế giới được chi viện nhiều đến thế (160 tỷ $). Nhưng ỷ thế Mỹ, họ đã trà đạp lên nhân dân, coi dân như rơm như rác, tự cho mình cái quyền làm những việc như tát nước bắt cá, dồn dân, ủi làng, đốt phá, bắt bớ, tù đầy vô tội vạ, thậm chí định giam cầm toàn thể nhân dân trong những ấp chiến lược để cô lập cách mạng. Nhưng càng làm thế thì càng mất dân. Rút cuộc tuy họ có gần như đủ các thứ, nhưng lại thiếu một thứ, đó là lòng dân, vì lòng dân quả vẫn cứ là “dân cụ Hồ”. Cá vẫn không bắt được, mà nước thì vẫn cứ “ chảy về chỗ trũng”. Bởi vậy họ không thể không thua, không thể không sụp đổ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, chúng ta đã có nhiều thành tựu lớn lao trong việc khắc phục những hậu quả của hai chục năm chiến tranh khốc liệt, mau chóng khôi phục kinh tế. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tuy nhiên có một hậu quả nữa của chiến tranh mà chúng ta đã không khắc phục được kịp thời. Đó là: chiến thắng vĩ đại đã để lại ở nơi này nơi khác bệnh kiêu ngạo, chủ quan duy ý chí, tự coi ý mình đương nhiên phải là và đã là ý dân, nên đã tuỳ tiện đề ra và áp đặt nhiều biện pháp không hẳn là đã hợp lòng dân. Có thể là<span style="mso-spacerun:yes"> </span>những biện pháp đó có động cơ cao đẹp. Nhưng nếu vì chủ quan, vì không chịu hiểu thực tế mà định đoạt sai, nếu dân chưa thuận, thì có khi những ý tưởng cao đẹp lại cho ta kết quả ngược lại. Ví như việc vội vàng áp đặt thể chế hợp tác xã trên phạm vi cả nước, ví như việc xây dựng vội vàng những pháo đài kinh tế, tưởng rằng cứ muốn là có thể tuỳ tiện sắp đặt lại giang sơn, ví như việc áp dụng giá mua và bán một cách chủ quan, xa rời thực tế, rồi bắt dân phải theo, đến nỗi bán không được, mua không được, sản xuất không được, tiêu dùng không được, ví như việc ngăn sông cấm chợ và khám xét tràn lan... đều đã gây nhiều phản ứng trong dân. Dân phản ứng thì chính sách không thực hiện được, kinh tế đình đốn, lưu thông ách tắc, đời sống khó khăn... Điều đáng lưu ý là sự phản ứng của dân được thể hiện trên rất nhiều hình thức khác nhau. Có khi là chấp hành thụ động. Có khi là phá rào và làm lén. Có khi là phê bình không chính thức bằng ca dao, bằng truyện tiếu lâm... Đây là thời kỳ có lẽ có nhiều ca dao và tiếu lâm nhất. Nó phản ánh khá đúng tư duy và những phản ứng của dân. Trước những phản ứng đó, thay vì mỗi người hoạch định chính sách phải suy ngẫm lại mình, thì lại chủ quan quy kết cho trình độ giác ngộ thấp của dân, có khi còn quy cho bàn tay địch… Khó có thể chỉ đơn giản coi đó là những chuyện do các thế lực phản cách mạng tung ra, vì nếu đó là của địch thì nó khó lòng được nhân dân truyền khẩu nhanh chóng và rộng rãi đến như vậy. Nếu chúng ta biết lắng nghe và tiếp thu thì có thể sớm điều chỉnh những biện pháp cho thích hợp hơn và có thể khắc phục sớm hơn những sai lầm. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Đó chính là một bài học. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Bài học này ứng nghiệm ngay trong thời kỳ đổi mới. Chúng ta biết, công cuộc đổi mới ở nước ta bắt nguồn từ hàng loạt mũi đột phá. Cách đột phá thì vô cùng phong phú. Nhưng ở đâu cũng có một động cơ chung và mục tiêu chung là: chữ dân. Hơn 5 năm qua, để viết về giai đoạn này, tôi đã có may mắn được gặp và phỏng vấn gần như tất các các vị bí thư và chủ tịch các tỉnh có đột phá, gần như tất các giám đốc và bí thư đảng uỷ của các xí nghiệp có đột phá. Đến đâu tôi cũng đặt một câu hỏi: Các đồng chí làm như vậy là có tham khảo một lý thuyết kinh tế nào không, có một chuyên gia kinh tế nào giúp không? Tất cả đều trả lơi gần như hoàn toàn giống nhau: Không! Duy nhất chỉ vì: Do gần dân, thấy dân cực quá, thấy có nhiều cơ chế không hợp ý dân, thấy có nhiều nguyện vọng và sáng kiến mới trong dân nên quyết tâm tháo gỡ. Có một vị lãnh đạo tỉnh nói với tôi, mà tôi thiết ngĩ đó là tâm trạng chung, tình thế chung của mọi cuộc phjas rào: “<i style="mso-bidi-font-style: normal">Chúng tôi đứng trước một sự lựa chọn thật nghiệt ngã: Thà chúng tôi bị kỷ luật về tội làm trái quy định, nhưng dân no, còn hơn là được giữ nguyên chức tước mà để<span style="mso-spacerun:yes"> </span>dân đói”.</i><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Đó chính là sức mạnh của chữ Dân. Đó cũng chính là động cơ dẫn đến phá rào. Có nơi thì làm lén rồi báo cáo sau. Có nơi thì vừa làm vừa báo cáo. Có nơi thì báo cáo 1, làm 2, 3... Nhưng tất cả các báo cáo đó đều có một luận cứ cơ bản gần như bất khả kháng là: vì thấy khổ cho dân quá, vì dân kêu, vì dân đòi, vì dân không chịu.Có<span style="mso-spacerun:yes"> </span>thể nói chữ Dân là linh hồn của mọi cuộc phá rào. Vì thế nó mới thành công. Vì thế nó mới không dân tới “đại loạn”, mà lại dẫn tới đổi mới. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Nhưng xin chớ vì thế mà hiểu rằng như vậy có nghĩa là chỉ ở địa phương mới có chữ dân, còn ở trung ương thì không có. Cách hiểu này<span style="mso-spacerun:yes"> </span>chính là một suy luận rất sai của một số nhà nghiên cứu kinh tế nước ngoài về con đường đổi mới của VN. Thực tế là ở trung ương chữ dân cũng không nhỏ. Không ít bộ óc ở cấp cao đã trăn trở tìm giải pháp tháo gỡ và đồng tình với các cơ sở. Ngay cả những vị lãnh đạo đã từng lên án gay gắt những cuộc phá rào, đến khi thấu hiểu thực tế, đã vỡ nhẽ ra rằng trong những mũi đột phá quả là có chữ dân. Từ đó họ đã sẵn sàng chuyển từ phê phán sang đồng thuận. Con đường ngoạn mục này là phổ biến đối với hầu hết các mũi đột phá. Chữ Dân chính là điểm gặp giữa trung ưong và địa phương trên con đường đó.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Có thể nói công cuộc đổi mới ở VN là con đường đi từ sự thấu hiểu ý dân đến chỗ lựa chọn giải pháp vì dân, do đó được lòng dân và tìm thấy sức mạnh ở dân. Và điều này cũng ứng nghiệm ngay: từ ngày đổi mới bỗng thấy thưa vắng hẳn những ca dao phê bình và truyện tiếu lâm đả kích. Đó há chẳng phải là một trong những thước đo về “hàm lượng” của chữ Dân trong đường lối và chính sách của chúng ta?<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Trong những giai đoạn sắp tới, trong sự nghiếp đổi mới và phát triển của chúng ta, có thể tuỳ tình hình của từng giai đoạn mà ta có những thay đổi về các mục tiêu cụ thể, về bước đi và về nhịp độ phát triển, về cơ cấu kinh tế, về phương hướng đầu tư, về thể chế kinh tế, nhưng ở đâu và bao giờ thì chữ dân vẫn là cốt lõi. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Đó chính là một bài học có giá trị tuyệt đối và muôn thuở. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span></span><i style="mso-bidi-font-style: normal"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family: "Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language: HE;mso-bidi-font-weight:normal">Trong bài học</span></i><i style="mso-bidi-font-style: normal"><span lang="FR" style="font-family:Arial;mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE;mso-bidi-font-weight:normal"> </span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE;mso-bidi-font-weight:normal">lớn về chữ dân, có một</span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="FR" style="font-family:Arial;mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-ansi-language: FR;mso-bidi-language:HE;mso-bidi-font-weight:normal"> ‘’ </span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE;mso-bidi-font-weight:normal">bài học tham khảo bắt buộc’’, đó<span style="mso-spacerun:yes"> </span>là bài học về đại đoàn kết dân tộc</span></i><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE;mso-bidi-font-weight:normal; mso-bidi-font-style:normal">.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE; mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal">Đại đoàn kết chính là sự thể hiện chữ dân trong đời sống chính trị, xã hội và kinh tế. Dân tất không thế chỉ là một hay một vài giai cấp xã hội nào, mà là dân tộc VN. Đại đoàn kết trong kinh tế có nghĩa là tận dụng, là thừa nhận mọi thành phần kinh tế nào ích nước lợi nhà, bất cứ ai có thể góp phần tạo ra sự phát triển đều được trân trọng và khuyến khích.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE; mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Nhìn lại lịch sử 60 năm qua, chúng ta nghiệm ra rất rõ rằng khi nào ta thực hiện đúng và thực hiện tốt tư tưởng này thì ta khai thác được thêm rất nhiều sức mạnh, ta<span style="mso-spacerun:yes"> </span>thêm bạn bớt thù, kinh tế phát triển,mọi người phấn khởi, xã hội đồng thuận và đi lên. Khi nào chúng ta lấy ý chí chủ quan mà thiên lệch về riêng một vài thành phần nào đó, lấy tình cảm riêng mà cảnh giác và kỳ thị những thành phần kinh tế khác, thì chính là ta làm tê liệt một phần của cơ thể, ta xa rời cuộc sống, kinh tế không theo ý ta, cuộc sống cũng không theo ý ta.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:FR"><span style="mso-tab-count:1"> </span>Nhớ lại những ngày đầu lập quốc, t</span><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-style:normal">ư tưởng đại đoàn kết<i style="mso-bidi-font-style:normal"> </i></span><span lang="FR" style="font-family: "Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family: Arial;mso-ansi-language:FR">của Chủ<span style="mso-spacerun:yes"> </span>tịch Hồ Chí Minh đã được thực hiện trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, bất cứ ai có thể tăng gia sản xuất, có thể góp công, góp của, góp nhân, tài, vật lực cho sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc đều được Chính Phủ khuyến khích và trân trọng. Chính nhờ tư tưởng đó mà có Tuần lễ vàng, có Quỹ độc lập, có phong trào nhường cơm sẻ áo, có phong trào Mùa đông binh sĩ…Cũng nhờ tư tưởng đó mà hầu như toàn dân Việt Nam, kể cả những quan lại cũ, những nhà tư sản, những thân hào thân sĩ đã cùng với cả nước dấn thân cho sự nghiệp cách mạng và kháng chiến. Đã nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng Chính phủ này không phải là của riêng một thành phần giai cấp nào, mà là của toàn thể nhân dân. Ngay từ năm 1945, để cứu đói, phải làm rất nhiều việc. Trong đó có việc trong yếu là đắp đê. Đắp đê thì không chỉ cần có tiền bac và nhân công, mà phải dùng các nhà thầu khoán, vì họ mới có chuyên môn về lĩnh vực náy. Cũng đã có ý kiến cho răng thầu khoán là bóc lột, cách mạng không thể dùng những kẻ bóc lột. Chủ tich HCM đến thăm nơi đắp đê và tuyên bố thẳng: <i>“ Lúc này không phải là lúc xét nét chuyện đó. Lúc này đắp đê là yêu nước, là cứu dân”.</i> Rồi đến năm 1947, một lần trả lời phỏng vấn của báo chí, Chủ tich HCM nói: <i>“Chúng tôi không chủ trương đấu tranh giai cấp. </i></span><i><span style="font-family: "Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family: Arial;mso-ansi-language:EN-US">Trái lại chúng tôi chủ trương làm cho tư bản VN phát triển. Đồng thời chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản của các nước khác thật thà cộng tác với chúng tôi…”( Toàn tập, T 5, tr 170). </span></i><span style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:EN-US">Nhờ tinh thần đoàn kết đó, nhờ khắc phục tư tưởng biệt phái, kỳ thị giai cấp, nên cách mạng và kháng chiến đã tập hợp được mọi thành phần xã hội, cô lập kẻ thù, biến sức mạnh vượt trội của kẻ thù về vũ khí thành<span style="mso-spacerun:yes"> </span>sự thất thế về chính trị và xã hội …<span style="mso-tab-count:1"> </span></span><span style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal; mso-bidi-font-style:normal"> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-tab-count:1"> </span>Trong sự nghiệp kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sự giúp đỡ quốc tế có </span><b><span lang="VI" style="font-family: "Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family: Arial;mso-bidi-font-style:normal">ý</span></b><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"> nghĩa vô cùng to lớn. Thành quả này cũng chính là kết quả rực rỡ của tư tưởng đại đoàn kết.Năm 1947, khi trả lời báo chí về chính sách đối ngoại, Chủ tịch HCM đã trả lời: <i style="mso-bidi-font-style:normal">“ Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” ( Tập 5, tr.220)<o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span></span></i><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:EN-US;mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal">Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ngay trong thế giới XHCN đã có nhiều mâu thuẫn, nhưng VN vẫn kiên trì thái độ doàn kết quốc tế nên hầu hết các nước bạn của chúng ta dù có nhiều bất đồng với nhau vẫn<span style="mso-spacerun:yes"> </span>nhất trí với nhau trong việc giúp Việt Nam. Đặc biệt phong trào phản chiến ở các nước phương Tây, nhất là tại chính nước Mỹ, đã có tác dụng to lớn trong việc kiềm chế sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt <st1:country-region st="on"><st1:place st="on">Nam</st1:place></st1:country-region>.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE; mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal">Trong khi đó, chính quyền VN Cộng hoà ở miền Nam đã vi phạm nghiêm trong tinh thần đoàn kết đân tộc. Ngô đình Diệm một mực khước từ tổng tuyển cử. Đã vậy lại luôn luôn hô hào Bắc tiến. Còn trong phần lãnh thổ miền Nam, họ tự gọi mình là chính phủ Quốc gia. Nhưng trong thực tế thì quốc gia chỉ là vật tế thần cho một nhóm chính trị hạn hẹp của họ. Trong chính phủ Ngô đình Diệm, thì đó là gia đình họ Ngô và những thành phần công giáo chống cộng. Phật giáo bị trà đạp tàn bạo. Các giáo phái khác được đối thoại bằng xe tăng và đại bác. Trong chính phủ Nguyễn Văn Thiệu thì cái quốc gia đó chỉ là một nhóm những tướng tá và chính khách tham nhũng và tư lợi, họ liên tục chống đối nhau và đảo chính nhau. Mỹ bao năm ao ước có một ai đó đoàn kết và tập hợp được các lực lượng ở miền Nam, nhưng cho đến khi miền Nam sụp đổ cũng vẫn chưa có ai đảm đương được việc đó. Mất đoàn kết là món ăn hàng ngày của chính quyền Nam VN. Trong những chuyến đi làm việc ở hải ngoại, tôi hay được nghe các chính khách của miền Nam cũ phàn nàn về chuyện miền Nam mất vào tay Cộng sản. Đồng thời họ cũng rất thẳng thắn kể tội nhau về những chuyện tham nhũng, đấu đá cùng những thối nát của chính trường. Rất lạ là họ vẫn chưa liên kết được hai chuyện nhân quả này với nhau.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE; mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Còn ở miền Bắc thì đương nhiên khối đại đoàn kết dân tộc đã tạo nên sức mạnh vô địch của sự nghiệp kháng chiến cứu nước. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE; mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal">Tuy nhiên cũng có một số giai đoạn lịch sử không ngắn, tư tưởng Đại đoàn kết này đã bị xao nhãng. Việc tiến hành cải tạo bàng cách xoá sổ một cách đơn giản và tuỳ tiện những nhà kinh doanh tư nhân ở miền Bắc cuối thập kỷ 50 và những việc làm tương tự ở miền Nam cuối thập kỷ 70 quả là đã không mang laị kết quả như mong muốn. Một mặt thì như vậy là đã sao nhãng tình nghĩa đối với những người đã thực sự đóng góp cho kháng chiến. Mặt khác nó đã triệt tiêu đi một nguồn lực kinh tế quan trọng rất cần cho sự phục hồi và chấn hưng kinh tế sau chiến tranh. Đồng thời nó cũng không đem lại lợi ích cho chính những thành phần cơ bản, vì nó không làm cho kinh tế thêm ổn định và phát triển,gược lại, lâm vào tình trạng của nền kinh tế thiếu hụt. Mà đã ở trong nền kinh tế thiếu hụt, thì chính những thành phần cơ bản lại là nạn nhân trước tiên của sự thiếu hụt đó.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE; mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Rất đáng mừng là từ Hội nghị TƯ lần thứ 6<span style="mso-spacerun:yes"> </span>vào tháng 9 năm 1979 chúng ta đã sớm thấy thấm đòn và đã có những bước chuyển biến mạnh về tư tưởng kinh tế. Đó là chủ trương <i style="mso-bidi-font-style:normal">bung ra và cởi trói cho sản xuất</i></span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="FR" style="font-family:Arial; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language: HE;mso-bidi-font-weight:normal">. </span></i><span lang="FR" style="font-family: "Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family: Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE;mso-bidi-font-weight:normal; mso-bidi-font-style:normal">Chủ trương này chính là kích thích tố quyết định cho những mũi đột phá tiếp theo để đi tới công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế, mà một trong những nội dung cơ bản là thừa nhận mô hình kinh tế nhiều thành phần, cũng tức là chính thức phủ nhận sự kỳ thị đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Hiện chưa thể đo và cũng khó đo được vai trò của chủ trương này trong sự tăng trưởng ngoạn mục những năm qua. Nhưng chắc chắn là việc khôi phục lại tinh thần đại đoàn kết trong kinh tế đã góp một phần không nhỏ trong nhưng thành tựu vừa qua. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE; mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal">Trên bình diện quốc tế, nếu trước đây chúng ta đã nhờ khối đoàn kết quốc tế mà giành được thắng lợi trong chiến tranh, thì trong thời kỳ đổi mới và phát triển, nhờ khôi phục tư tưởng Hồ chí Minh </span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal">“ Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, </span></i><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal; mso-bidi-font-style:normal">với lời tuyên bố muốn </span><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE; mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal">làm bạn với mọi nước trên thế giới, chúng ta đã khắc phục được tình thế một mình một chợ, chúng ta đã tận dụng được ngoại lực để phát huy thêm nội lực. Cũng từ đó chúng ta lại được sống trong tình thân ái và trọng nể của bạn bè khắp năm châu.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:6.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span lang="FR" style="font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-language:HE; mso-bidi-font-weight:normal;mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tưởng đó cũng là một bài học lớn nữa.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="VI"><o:p> </o:p></span></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-22349474683434822462011-04-20T08:03:00.000-07:002011-04-20T08:05:03.051-07:00TIM HIEU VE KINH TE VIET NAM 2001-2005<h1 align="center" style="margin-left:0cm;text-align:center;text-indent:0cm; mso-list:none;tab-stops:36.0pt"><a name="_Toc128378387"><span class="Heading1Char"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">KINH TẾ VIỆT </span></span></a><st1:country-region st="on"><st1:place st="on"><span style="mso-bookmark:_Toc128378387"><span class="Heading1Char"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">NAM</span></span></span></st1:place></st1:country-region><span style="mso-bookmark:_Toc128378387"><span class="Heading1Char"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"> NĂM 2001-2005</span></span></span><span class="Heading1Char"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"><o:p></o:p></span></span></h1> <h1 align="center" style="margin-left:0cm;text-align:center;text-indent:0cm; mso-list:none;tab-stops:36.0pt"><span class="Heading1Char"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">VÀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI 2006-2010<o:p></o:p></span></span></h1> <p class="MsoNormal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="right" style="text-align:right"><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><b>TS.</b> <b style="mso-bidi-font-weight:normal">Đinh Văn Ân</b><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="right" style="text-align:right"><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-bidi-font-style:italic">Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; mso-bidi-font-style:italic"><o:p> </o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-fareast-language:EN-US"><o:p> </o:p></span></p> <h1 style="mso-list:none"><a name="_Toc128378388"></a><a name="_Toc127947372"><span style="mso-bookmark:_Toc128378388"><span class="Heading1Char"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">1. TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT </span></span></span></a><st1:country-region st="on"><st1:place st="on"><span style="mso-bookmark:_Toc128378388"><span style="mso-bookmark:_Toc127947372"><span class="Heading1Char"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">NAM</span></span></span></span></st1:place></st1:country-region><span style="mso-bookmark:_Toc128378388"><span style="mso-bookmark:_Toc127947372"><span class="Heading1Char"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"> NĂM 2005<o:p></o:p></span></span></span></span></h1> <h2 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 0cm;text-indent:0cm;line-height:120%;mso-list:none;tab-stops:36.0pt"><span style="mso-bookmark:_Toc128378388"><span style="mso-bookmark:_Toc127947372"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning: 14.0pt;font-style:normal">1.1. Tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế</span></b></span></span><span style="mso-bookmark:_Toc128378388"><span style="mso-bookmark:_Toc127947372"></span></span><a style="mso-footnote-id:ftn1" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftn1" name="_ftnref1" title=""><span style="mso-bookmark:_Toc128378388"><span style="mso-bookmark:_Toc127947372"><b><sup><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:EN-GB;font-style:normal"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><sup><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language: EN-GB;mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language:AR-SA;mso-no-proof:yes">[1]</span></sup><!--[endif]--></span></span></sup></b></span></span></a><span style="mso-bookmark:_Toc127947372"></span><span style="mso-bookmark:_Toc128378388"></span><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning: 14.0pt;font-style:normal"><o:p></o:p></span></b></h2> <h3 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 36.0pt;line-height:120%;mso-list:l1 level3 lfo2"><a name="_Toc128378389"></a><a name="_Toc127947373"><span style="mso-bookmark:_Toc128378389"><!--[if !supportLists]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-ansi-language:NL"><span style="mso-list:Ignore">1.1.1.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:NL">Tăng trưởng kinh tế</span></i></span></a><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:NL"><o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam ước đạt 8,4%, vượt xa con số 7,8% của năm 2004 (Bảng 1). Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 9 năm qua kể từ năm 1997. So với các nước trong khu vực Đông Á, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 của Việt Nam là cao thứ hai và chỉ đứng sau Trung Quốc. Mức tăng trưởng cao của năm 2005 đã góp phần quyết định cho việc hoàn thành mục tiêu tăng trưởng GDP trung bình 7,5%/năm đã được đề ra trong Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005.<span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoCaption" align="center" style="text-align:center"><a name="_Toc128389071"></a><a name="_Toc127948062"><span style="mso-bookmark: _Toc128389071"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:NL; font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic">Bảng </span></b></span></a><span style="mso-bookmark:_Toc127948062"><span style="mso-bookmark:_Toc128389071"></span></span><!--[if supportFields]><span style="'mso-bookmark:_Toc127948062'"><span style="'mso-bookmark:_Toc128389071'"></span></span><span style="'mso-element:field-begin'"></span><span style="'mso-bookmark:_Toc127948062'"><span style="'mso-bookmark:_Toc128389071'"><b style="'mso-bidi-font-weight:normal'"><span lang="NL" style="'font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:"><span style="'mso-spacerun:yes'"> </span>SEQ Bảng \* ARABIC \s 1 </span></b></span></span><span style="'mso-bookmark:_Toc127948062'"><span style="'mso-bookmark:_Toc128389071'"><b style="'mso-bidi-font-weight:normal'"><span style="'font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:"><span style="'mso-element:"></span></span></b></span></span><![endif]--><span style="mso-bookmark:_Toc127948062"><span style="mso-bookmark:_Toc128389071"></span></span><span style="mso-bookmark:_Toc127948062"><span style="mso-bookmark:_Toc128389071"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:NL;font-style:normal;mso-bidi-font-style: italic;mso-no-proof:yes">1</span></b></span></span><span style="mso-bookmark: _Toc127948062"><span style="mso-bookmark:_Toc128389071"></span></span><!--[if supportFields]><span style="'mso-bookmark:_Toc127948062'"><span style="'mso-bookmark:_Toc128389071'"></span></span><span style="'mso-element:field-end'"></span><![endif]--><span style="mso-bookmark: _Toc127948062"><span style="mso-bookmark:_Toc128389071"></span></span><span style="mso-bookmark:_Toc127948062"><span style="mso-bookmark:_Toc128389071"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:NL;font-style:normal;mso-bidi-font-style: italic">: Tăng trưởng GDP và đóng góp vào tăng trưởng GDP theo ngành, 2001-05</span></b></span></span><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:NL;font-style:normal;mso-bidi-font-style: italic"><o:p></o:p></span></b></p> <table class="MsoNormalTable" border="1" cellspacing="0" cellpadding="0" style="margin-left:5.4pt;border-collapse:collapse;mso-table-layout-alt:fixed; border:none;mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-yfti-tbllook:191; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;mso-border-insideh:.5pt solid windowtext; mso-border-insidev:.5pt solid windowtext"> <tbody><tr style="mso-yfti-irow:0;mso-yfti-firstrow:yes"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:1.5pt;border-left: 1.5pt;border-bottom:1.0pt;border-right:1.0pt;border-color:windowtext; border-style:solid;mso-border-top-alt:1.5pt;mso-border-left-alt:1.5pt; mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt:.5pt;mso-border-color-alt: windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: NL"><o:p> </o:p></span></i></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:.5pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: .5pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: EN-GB;mso-bidi-font-style:italic">2001<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:.5pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: .5pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: EN-GB;mso-bidi-font-style:italic">2002<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:.5pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: .5pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: EN-GB;mso-bidi-font-style:italic">2003<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:.5pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: .5pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: EN-GB;mso-bidi-font-style:italic">2004<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:.5pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: .5pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: EN-GB;mso-bidi-font-style:italic">Ước<span style="mso-spacerun:yes"> </span>2005<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:.5pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.5pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: EN-GB;mso-bidi-font-style:italic">2001-2005<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:1"> <td width="588" colspan="7" valign="bottom" style="width:441.0pt;border-top:none; border-left:solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:6.0pt;margin-left:1.45pt;text-align:center;mso-pagination:none"><b><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: EN-GB">Tốc độ tăng (%)</span></b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt"><o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:2"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">GDP<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">6,89<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">7,08<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">7,34<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">7,79<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">8,43<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-left:1.6pt;text-align:center; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">7,51<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:3"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:12.95pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Nông-lâm-thủy sản<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">2,98<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">4,17<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">3,62<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">4,36<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">4,04<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-left:1.6pt;text-align:center; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">3,84<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:4"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:12.95pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Công nghiệp-xây dựng<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">10,39<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">9,48<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">10,48<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">10,22<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">10,65<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-left:1.6pt;text-align:center; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">10,24<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:5"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-bottom-alt: solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:12.95pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Dịch vụ<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">6,10<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">6,54<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">6,45<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">7,26<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:1.6pt;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">8,48<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-left:1.6pt;text-align:center; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">6,97<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:6"> <td width="588" colspan="7" valign="bottom" style="width:441.0pt;border-top:none; border-left:solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:6.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: EN-GB">Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo điểm phần trăm</span></b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"><o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:7"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">GDP<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">6,89<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">7,08<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">7,34<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">7,79<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">8,43<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">7,51<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:8"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:12.95pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Nông-lâm-thủy sản<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">0,69<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">0,93<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">0,79<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">0,92<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">0,82<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">0,83<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:9"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:12.95pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Công nghiệp-xây dựng<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">3,68<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">3,47<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">3,92<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">3,93<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">4,19<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">3,84<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:10"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-bottom-alt: solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:12.95pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Dịch vụ<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">2,52<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">2,68<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">2,63<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">2,94<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">3,42<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">2,84<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:11"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">GDP<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">100,00<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">100,00<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">100,00<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">100,00<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">100,00<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">100,00<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:12"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:12.95pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Nông-lâm-thủy sản<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">10,07<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">13,20<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">10,76<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">11,80<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">9,78<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">11,12<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:13"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:12.95pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Công nghiệp-xây dựng<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">53,39<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">48,95<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">53,37<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">50,48<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">49,71<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">51,18<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:14;mso-yfti-lastrow:yes"> <td width="168" valign="bottom" style="width:126.0pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-bottom-alt: solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-left:12.95pt;text-align:justify;mso-pagination: none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Dịch vụ<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">36,54<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">37,85<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">35,86<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">37,72<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="bottom" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">40,52<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="70" valign="top" style="width:52.5pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">37,70<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> </tbody></table> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify"><i><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;color:black; mso-ansi-language:EN-GB;mso-bidi-font-weight:bold">Nguồn</span></i><i><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;color:black; mso-ansi-language:EN-GB">: </span></i><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;color:black;mso-ansi-language:EN-GB;mso-bidi-font-style: italic">Tổng cục Thống kê (TCTK) và tính toán của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (Viện NCQLKTTƯ).<i> <o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Do chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và có tốc độ tăng giá trị tăng thêm cao nhất (10,6%), nên năm 2005 công nghiệp và xây dựng vẫn là khu vực có đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng trưởng chung, chiếm tới 49,7% hay 4,2 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Khu vực nông - lâm - thủy sản chịu nhiều tác động bất lợi của thời tiết, dịch cúm gia cầm và biến động của thị trường; tốc độ tăng trưởng của khu vực nông-lâm-thủy sản ước đạt 4,0%, đóng góp 9,8% hay 0,8 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ ước tăng 8,5%. Năm 2005 là năm khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 1997 và lần đầu tiên cao hơn mức tăng trưởng GDP của tòan bộ nền kinh tế. Kết quả là khu vực dịch vụ đóng góp tới 40,5% hay 3,4 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP, một mức đóng góp lớn nhất trong 5 năm qua (Bảng 1). <o:p></o:p></span></p> <h3 style="margin-top:4.0pt;mso-list:l1 level3 lfo2"><a name="_Toc128378390"></a><a name="_Toc127947374"><span style="mso-bookmark:_Toc128378390"><!--[if !supportLists]--><i><span style="font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">1.1.2.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial">Cơ cấu kinh tế</span></i></span></a><i><span style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial"><o:p></o:p></span></i></h3> <h4 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 0cm;text-align:justify;text-indent:0cm;line-height:120%;mso-pagination:none; mso-list:none;tab-stops:list 36.0pt"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:14.0pt;line-height:120%;letter-spacing: -.2pt;font-weight:normal;mso-bidi-font-weight:bold"><span style="mso-tab-count: 1"> </span><u>Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành<o:p></o:p></u></span></i></h4> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;letter-spacing:-.2pt">Trong nhiều năm qua, xét theo tỷ trọng giá trị tăng thêm trong GDP, cơ cấu kinh tế chủ yếu biến đổi theo sự chuyển dịch của hai nhóm ngành nông - lâm - thủy sản và công nghiệp - xây dựng. Từ năm 2000 đến năm 2005 tỷ trọng khu vực nông - lâm - thủy sản giảm 3,8 điểm phần trăm, còn tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 3,7 điểm phần trăm (Bảng 2). Xét chung trong giai đoạn 2001-2005, sự chuyển dịch cơ cấu giữa 3 khu vực không mạnh như trong giai đoạn 5 năm 1996-2000. Mục tiêu đặt ra cho khu vực dịch vụ đến năm 2005 chiếm tỷ trọng khoảng 41-42% GDP đã không đạt được,<a style="mso-footnote-id:ftn2" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftn2" name="_ftnref2" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;mso-fareast-font-family:"Times New Roman";letter-spacing:-.2pt; mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language:AR-SA">[2]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> trong khi đây là khu vực có rất nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoCaption" align="center" style="text-align:center"><a name="_Toc128389074"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-style:normal;mso-bidi-font-style: italic">Bảng 2</span></b></a><span style="mso-bookmark:_Toc128389074"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-style:normal">: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế, 2001-2005</span></b></span><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-style:normal"> </span></b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-bidi-font-weight:bold; font-style:normal">(%) <span class="normalChar"><span style="mso-ansi-font-size: 13.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span></span></span></span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><span style="mso-spacerun:yes"> </span></span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-bidi-font-style:normal"><o:p></o:p></span></p> <div align="center"> <table class="MsoNormalTable" border="1" cellspacing="0" cellpadding="0" style="margin-left:-56.0pt;border-collapse:collapse;mso-table-layout-alt:fixed; border:none;mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-yfti-tbllook:191; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;mso-border-insideh:.5pt solid windowtext; mso-border-insidev:.5pt solid windowtext"> <tbody><tr style="mso-yfti-irow:0;mso-yfti-firstrow:yes;height:14.0pt"> <td width="174" valign="bottom" style="width:130.3pt;border-top:1.5pt;border-left: 2.25pt;border-bottom:1.0pt;border-right:1.0pt;border-color:windowtext; border-style:solid;mso-border-top-alt:1.5pt;mso-border-left-alt:2.25pt; mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt: windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height: 14.0pt"> <p class="ftable" style="margin-left:-12.4pt;text-align:justify;mso-pagination: none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:EN-US"><o:p> </o:p></span></i></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:14.0pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt">2000<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="69" valign="top" style="width:51.55pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:14.0pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt">2001<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:14.0pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt">2002<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="69" valign="top" style="width:51.55pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:14.0pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black">2003<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:14.0pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black">2004<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="69" valign="top" style="width:51.55pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 2.25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 2.25pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:14.0pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black">2005<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:1"> <td width="174" valign="top" style="width:130.3pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 2.25pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-top-alt: .25pt;mso-border-left-alt:2.25pt;mso-border-bottom-alt:.5pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt">GDP<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">100,00<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="69" valign="top" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt">100,00<span style="color:black"><o:p></o:p></span></span></b></p> </td> <td width="69" valign="top" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt">100,00<span style="color:black"><o:p></o:p></span></span></b></p> </td> <td width="69" valign="top" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt">100,00<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="69" valign="top" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt">100,00<span style="color:black"><o:p></o:p></span></span></b></p> </td> <td width="69" valign="top" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 2.25pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:2.25pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt">100,00<span style="color:black"><o:p></o:p></span></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:2"> <td width="174" valign="bottom" style="width:130.3pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 2.25pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:12.6pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt">Nông - lâm – thủy sản<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">24,53<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">23,24<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">23,03<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">22,54<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">21,81<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 2.25pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">20,70<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:3"> <td width="174" valign="bottom" style="width:130.3pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 2.25pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:12.6pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt">Công nghiệp – xây dựng<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">36,73<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">38,13<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">38,49<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">39,47<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">40,21<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 2.25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">40,80<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:4"> <td width="174" valign="bottom" style="width:130.3pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 2.25pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:17.0pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Công nghiệp chế biến<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">18,56<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">19,78<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">20,58<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">20,45<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">20,34<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 2.25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">20,70<o:p></o:p></span></i></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:5;mso-yfti-lastrow:yes"> <td width="174" valign="bottom" style="width:130.3pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 2.25pt;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:8.5pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt">Dịch vụ<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">38,73<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">38,63<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">38,48<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">37,99<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">37,98<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="69" valign="bottom" style="width:51.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 2.25pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">38,50<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> </tbody></table> </div> <p class="note" style="mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language:EN-US">Nguồn: </span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language:EN-US; font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic">TCTK và tính toán của Viện NCQLKTTƯ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;letter-spacing:-.2pt"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;letter-spacing:-.2pt">Trong khu vực nông - lâm - thủy sản, sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm, chủ yếu theo sự chuyển dịch giữa hai nhóm ngành nông nghiệp và thủy sản: tỷ trọng của ngành thủy sản tăng từ 16,0% năm 2001 lên 18,5% năm 2005, nông nghiệp giảm từ 78,6% năm 2001 xuống 75,8%. Sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng chậm: tỷ trọng ngành trồng trọt vẫn chiếm tới 78,6% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2005 so với 81,0% năm 2000 (theo giá 1994). Kết quả lớn nhất trong chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là chuyển dịch trong nội bộ ngành trồng trọt theo hướng giảm diện tích trồng lúa sang trồng các loại cây khác có năng suất và giá trị kinh tế cao hơn. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%">Trong khu vực công nghiệp, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng không đáng kể, từ 59,2% năm 2000 lên 59,7% năm 2005. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%">Sự chuyển dịch cơ cấu trong khu vực dịch vụ vẫn diễn ra rất chậm. Hầu hết các ngành dịch vụ quan trọng, có khả năng tạo nhiều giá trị tăng thêm, đều có tỷ trọng nhỏ trong GDP (ví dụ, ngành tài chính, ngân hàng, và bảo hiểm chiếm chưa tới 2,0% GDP năm 2005). Xu hướng này đang hạn chế nhiều việc nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam và gây bất lợi cho tăng trưởng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và phấn đấu trở thành thành viên của WTO. Ngoài ra, nhiều lĩnh vực dịch vụ như tư vấn xúc tiến đầu tư, pháp lý, công nghệ, và xuất khẩu lao động cũng chưa được khai thác tốt và/hoặc còn kém phát triển.<o:p></o:p></span></p> <h4 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 0cm;text-align:justify;text-indent:0cm;line-height:120%;mso-pagination:none; mso-list:none;tab-stops:list 36.0pt"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:14.0pt;line-height:120%;font-weight: normal;mso-bidi-font-weight:bold"><span style="mso-tab-count:1"> </span><u>Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế<o:p></o:p></u></span></i></h4> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%">Nhìn tổng thể, trong giai đoạn 2001-2005, chuyển dịch cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế diễn ra chậm. Khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng cao và tương đối ổn định trong GDP. Sự chuyển dịch cơ cấu theo thành phần chủ yếu diễn ra giữa khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%">Năm 2005, tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế nhà nước rất ít thay đổi, chỉ giảm 0,1 điểm phần trăm so với năm 2000 (Bảng 3). Trong khi đó, tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã giảm từ 48,2% năm 2000 xuống còn 45,7% năm 2005. <span style="letter-spacing:-.1pt"><o:p></o:p></span></span></p> <h4 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 0cm;text-align:justify;text-indent:0cm;line-height:120%;mso-pagination:none; mso-list:none;tab-stops:list 36.0pt"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 14.0pt;line-height:120%;letter-spacing:-.1pt;font-weight:normal;mso-bidi-font-weight: bold"><span style="mso-tab-count:1"> </span>Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng thể hiện rõ là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>. Tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã tăng từ 13,3% năm 2000 lên 15,9% năm 2005. <i style="mso-bidi-font-style:normal"><o:p></o:p></i></span></h4> <p class="MsoCaption" align="center" style="text-align:center"><a name="_Toc128389075"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-style:normal;mso-bidi-font-style: italic">Bảng 3</span></b></a><span style="mso-bookmark:_Toc128389075"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-style:normal">: Cơ cấu và tốc độ tăng trưởng theo thành phần kinh tế, 2001-2005</span></b></span><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-style:normal"> </span></b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-bidi-font-weight:bold; font-style:normal">(%)<span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <div align="center"> <table class="MsoNormalTable" border="1" cellspacing="0" cellpadding="0" style="margin-left:-17.8pt;border-collapse:collapse;mso-table-layout-alt:fixed; border:none;mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-yfti-tbllook:191; mso-padding-alt:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt;mso-border-insideh:.5pt solid windowtext; mso-border-insidev:.5pt solid windowtext"> <tbody><tr style="mso-yfti-irow:0;mso-yfti-firstrow:yes"> <td width="239" valign="bottom" style="width:179.6pt;border-top:1.5pt;border-left: 1.5pt;border-bottom:1.0pt;border-right:1.0pt;border-color:windowtext; border-style:solid;mso-border-top-alt:1.5pt;mso-border-left-alt:1.5pt; mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt: windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 11.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:EN-US"><o:p> </o:p></span></i></b></p> </td> <td width="57" valign="top" style="width:42.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;line-height:120%">2000<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;line-height:120%">2001<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;line-height:120%">2002<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;line-height:120%">2003<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="top" style="width:42.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;line-height:120%">2004<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="61" valign="top" style="width:45.95pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt:.25pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;line-height:120%">2005<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:1"> <td width="239" valign="top" style="width:179.6pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-top-alt: .25pt;mso-border-left-alt:1.5pt;mso-border-bottom-alt:.5pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:4.95pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">Cơ cấu GDP </span></b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language: DE">(giá hiện hành)<b style="mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></b></span></p> </td> <td width="57" valign="top" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">100,00</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="top" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">100,00<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="top" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">100,00<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="top" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">100,00</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="top" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">100,00</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="61" valign="top" style="width:45.95pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">100,00<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:2"> <td width="239" valign="bottom" style="width:179.6pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:18.0pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt">Kinh tế nhà nước<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">38,52<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">38,40<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">38,38<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">39,08<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">39,23<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="61" valign="bottom" style="width:45.95pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">38,42<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:3"> <td width="239" valign="bottom" style="width:179.6pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:18.0pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">Kinh tế ngoài quốc doanh<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">48,20<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">47,84<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">47,86<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">46,45<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">45,61<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="61" valign="bottom" style="width:45.95pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">45,68<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:4"> <td width="239" valign="bottom" style="width:179.6pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-bottom-alt: solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:18.0pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">13,27<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">13,76<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">13,76<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">14,47<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">15,17<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="61" valign="bottom" style="width:45.95pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">15,89<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:5"> <td width="239" valign="bottom" style="width:179.6pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-top-alt: .25pt;mso-border-left-alt:1.5pt;mso-border-bottom-alt:.5pt;mso-border-right-alt: 1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:4.95pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tốc độ tăng GDP </span></b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">(giá so sánh)<b style="mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></b></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 11.0pt;color:black;mso-ansi-language:EN-US;layout-grid-mode:line">6,79<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 11.0pt;color:black;mso-ansi-language:EN-US;layout-grid-mode:line">6,89<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 11.0pt;color:black;mso-ansi-language:EN-US;layout-grid-mode:line">7,08<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 11.0pt;color:black;mso-ansi-language:EN-US;layout-grid-mode:line">7,34<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 11.0pt;color:black;mso-ansi-language:EN-US;layout-grid-mode:line">7,79<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="61" valign="bottom" style="width:45.95pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .25pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:.25pt;mso-border-left-alt:1.0pt;mso-border-bottom-alt: .5pt;mso-border-right-alt:1.0pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt: solid;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 11.0pt;color:black;mso-ansi-language:EN-US;layout-grid-mode:line">8,43<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:6"> <td width="239" valign="bottom" style="width:179.6pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:18.0pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span lang="EN-GB" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt">Kinh tế nhà nước<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">7,72<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">7,44<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">7,11<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">7,65<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">7,75<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="61" valign="bottom" style="width:45.95pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">7,36<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:7"> <td width="239" valign="bottom" style="width:179.6pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:18.0pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">Kinh tế ngoài quốc doanh<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">5,04<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">6,36<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">7,04<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">6,36<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">6,95<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="61" valign="bottom" style="width:45.95pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding: 0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">8,19<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:8;mso-yfti-lastrow:yes"> <td width="239" valign="bottom" style="width:179.6pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:2.0pt; margin-left:18.0pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;mso-ansi-language:DE">Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">11,44<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">7,21<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">7,16<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">10,52<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="57" valign="bottom" style="width:42.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">11,51<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="61" valign="bottom" style="width:45.95pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.0pt;padding:0cm 1.1pt 0cm 1.1pt"> <p class="ftable" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;color:black;mso-ansi-language: EN-US;layout-grid-mode:line">13,20<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> </tbody></table> </div> <p class="note" style="mso-pagination:none"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt">Nguồn: </span><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic">TCTK và tính toán của Viện NCQLKTTƯ.</span><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt"><o:p></o:p></span></p> <h2 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 27.0pt;text-indent:-27.0pt;line-height:120%;mso-list:l1 level2 lfo2;tab-stops: list 27.0pt"><a name="_Toc128378391"></a><a name="_Toc127947375"><span style="mso-bookmark:_Toc128378391"><!--[if !supportLists]--><b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning: 14.0pt;mso-ansi-language:DE;font-style:normal"><span style="mso-list:Ignore">1.2.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></b><!--[endif]--><b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:DE;font-style:normal">Đầu tư</span></b></span></a><a style="mso-footnote-id:ftn3" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftn3" name="_ftnref3" title=""><span style="mso-bookmark:_Toc127947375"><span style="mso-bookmark:_Toc128378391"><span class="MsoFootnoteReference"><b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:DE; font-style:normal"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt; mso-ansi-language:DE;mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language:AR-SA; mso-no-proof:yes">[3]</span></span><!--[endif]--></span></span></b></span></span></span></a><span style="mso-bookmark:_Toc128378391"></span><span style="mso-bookmark:_Toc127947375"></span><b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:DE;font-style:normal"><o:p></o:p></span></b></h2> <h3 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 36.0pt;line-height:120%;mso-list:l1 level3 lfo2"><a name="_Toc128378392"></a><a name="_Toc127947376"><span style="mso-bookmark:_Toc128378392"><!--[if !supportLists]--><i><span lang="DE" style="font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt; mso-ansi-language:DE"><span style="mso-list:Ignore">1.2.1.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span lang="DE" style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:DE">Tình hình thực hiện vốn đầu tư xã hội</span></i></span></a><i><span lang="DE" style="font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:DE"><o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:DE"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Thực hiện vốn đầu tư xã hội năm 2005 theo giá thực tế ước đạt 326 nghìn tỷ VNĐ, tương đương với 38,9% GDP. Theo giá so sánh, vốn đầu tư xã hội năm 2005 chỉ tăng<b style="mso-bidi-font-weight:normal"> </b>khoảng 10,5% và mức tăng này vẫn thấp hơn mức 11,6% của năm 2004. Trong ba thành phần kinh tế, vốn đầu tư của khu vực FDI tăng nhanh nhất, khoảng 16,4%, cao gấp gần 2,8 lần mức tăng của vốn nhà nước. Khu vực ngoài quốc doanh cũng có mức tăng trưởng rất cao, gần bằng khu vực có vốn ĐTNN (15,7%). Vốn đầu tư nhà nước chỉ tăng 5,9%, do đó, tỷ trọng của khu vực này giảm nhanh hơn so với năm 2004.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:DE">Tuy vẫn là nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế, nhưng tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước có xu hướng giảm dần từ 59,8% năm 2001 xuống 51,5% năm 2005 (Bảng 4). Đây là tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế thị trường đang hình thành, phần nào phản ánh môi trường đầu tư đã và đang được cải thiện. Tổng vốn đầu tư nhà nước ước đạt 168 nghìn tỷ VNĐ, trong đó vốn NSNN là khoảng 74 nghìn tỷ VNĐ, thực hiện vốn tín dụng là 30 nghìn tỷ VNĐ, vốn của DNNN là 50 nghìn tỷ VNĐ, vốn huy động khác là 14 nghìn tỷ VNĐ</span><a style="mso-footnote-id:ftn4" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftn4" name="_ftnref4" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:bold"><span style="mso-special-character: footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language:AR-SA; mso-bidi-font-weight:bold">[4]</span></span><!--[endif]--></span></span></span></a><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:DE">. Trong năm 2005, lần đầu tiên Việt Nam phát hành thành công trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế với giá trị 750 triệu USD.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoCaption" align="center" style="text-align:center"><a name="_Toc128389077"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:DE; font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic">Bảng 4</span></b></a><span style="mso-bookmark:_Toc128389077"><b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:DE;font-style:normal">: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, 2001-2005</span></b></span><b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:DE; font-style:normal"> </span></b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:14.0pt;mso-ansi-language:DE;mso-bidi-font-weight:bold; font-style:normal">(%)<o:p></o:p></span></p> <div align="center"> <table class="MsoNormalTable" border="1" cellspacing="0" cellpadding="0" style="margin-left:-14.15pt;border-collapse:collapse;mso-table-layout-alt: fixed;border:none;mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-yfti-tbllook:480; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;mso-border-insideh:.5pt solid windowtext; mso-border-insidev:.5pt solid windowtext"> <tbody><tr style="mso-yfti-irow:0;mso-yfti-firstrow:yes"> <td width="187" valign="top" style="width:140.05pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="right" style="text-align:right;line-height:120%"><b><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE"><o:p> </o:p></span></b></p> </td> <td width="79" valign="top" style="width:59.5pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE">2001<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="79" valign="top" style="width:59.55pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE">2002<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="79" valign="top" style="width:59.55pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE">2003<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="79" valign="top" style="width:59.55pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE">2004<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="79" valign="top" style="width:59.55pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE">Ước 2005<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:1"> <td width="187" valign="top" style="width:140.05pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE">Tổng số<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.5pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:DE">100,0<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:DE">100,0<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:DE">100,0<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:DE">100,0<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border-top:solid windowtext 1.0pt; border-left:none;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:DE">100,0<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:2"> <td width="187" valign="top" style="width:140.05pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="line-height:120%"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:DE;mso-bidi-font-weight:bold">Vốn nhà nước<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE">59,8<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE">56,3<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE">54,0<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE">53,6<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: DE">51,5<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:3"> <td width="187" valign="top" style="width:140.05pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-left:14.2pt;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="DE" style="mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:DE;mso-bidi-font-weight:bold">Vốn ngân sách<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">26,7<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">25,0<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">24,0<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">25,1<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">22,7<o:p></o:p></span></i></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:4"> <td width="187" valign="top" style="width:140.05pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-left:14.2pt;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%;mso-bidi-font-weight:bold">Vốn tín dụng<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">16,8<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">17,6<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">16,9<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">16,5<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">9,2<o:p></o:p></span></i></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:5"> <td width="187" valign="top" style="width:140.05pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-left:14.2pt;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%;mso-bidi-font-weight:bold">Vốn DNNN<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">10,6<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">7,8<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">9,3<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">9,1<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">15,3<o:p></o:p></span></i></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:6"> <td width="187" valign="top" style="width:140.05pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-left:14.2pt;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%;mso-bidi-font-weight:bold">Vốn huy động khác<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">5,6<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">6,0<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">3,9<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">2,9<o:p></o:p></span></i></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%">4,3<o:p></o:p></span></i></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:7"> <td width="187" valign="top" style="width:140.05pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:bold">Vốn ngoài quốc doanh<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.5pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">22,6<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">26,2<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">29,7<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">30,9<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border:none;border-right: solid windowtext 1.5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">32,2<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:8;mso-yfti-lastrow:yes"> <td width="187" valign="top" style="width:140.05pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-bottom-alt: solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:bold">Vốn FDI<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.5pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">17,6<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">17,5<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">16,3<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">15,5<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="79" valign="bottom" style="width:59.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">16,3<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> </tbody></table> </div> <p class="note" style="mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language:EN-US">Nguồn: </span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language:EN-US; font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic">TCTK (2005), số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư </span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt; mso-ansi-language:EN-US">.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:34.0pt"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.0pt"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực thể hiện rõ hơn vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường, theo đó vốn đầu tư cho lĩnh vực xã hội so với tổng vốn tăng từ 25,4% năm 2004 lên 27,4% năm 2005 và đầu tư cho lĩnh vực này chủ yếu là từ NSNN. Nguồn vốn đầu tư nhà nước đã có vai trò quan trọng trong cải thiện kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, và giảm đói nghèo. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh là nguồn đầu tư lớn thứ hai kể từ năm 1998. Năm 2005, vốn của khu vực ngoài quốc doanh tăng vọt và ước đạt 105 nghìn tỷ VNĐ, gần gấp đôi vốn đầu tư của khu vực FDI. Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh đã và đang chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng và tiềm năng to lớn của khu vực này trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Năm 2005, dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2004. Vốn đăng ký FDI cấp mới và tăng thêm đạt 5,89 tỷ USD, tăng 36% so với năm 2004 và là mức cao nhất kể từ năm 1997. Có 509 lượt dự án được tăng vốn trong năm, với tổng số vốn tăng thêm là gần 1,83 tỷ USD. Tổng vốn FDI thực hiện đạt khoảng 53 nghìn tỷ VNĐ, chiếm 16,3% tổng vốn đầu tư xã hội.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Trong năm 2005 có 41/64 tỉnh thành thu hút được vốn FDI, trong đó năm tỉnh thành dẫn đầu chiếm 70% tổng vốn FDI đăng ký của cả nước theo thứ tự là: Hà Nội (31,2%), Bà Rịa-Vũng Tàu (17,8%), Đồng Nai (10,7%), thành phố Hồ Chí Minh (10,2%), và Bình Dương (8,6%). Đây là lần đầu tiên, Hà Nội vươn lên thứ nhất trong thu hút FDI. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Trong số 43 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam trong năm 2005, châu Á chiếm 50,6% tổng vốn đăng ký, trong đó: Hàn Quốc đứng thứ 3, chiếm 13,8% tổng vốn đăng ký; Hồng Kông đứng thứ 4 chiếm 9,6%; Nhật Bản đứng thứ 5 chiếm 9,4%; Đài Loan đứng thứ 6 chiếm 8,6%. Các nước châu Âu chiếm 21,7% tổng vốn đăng ký, trong đó Luxembourg đứng thứ nhất chiếm 19,2% tổng vốn đăng ký. Đầu tư từ Hoa Kỳ chỉ đứng thứ 8 chiếm 3,6% tổng vốn đăng ký. So với năm 2004, Lucxembua đã vươn lên đứng đầu từ vị trí 24, còn Đài Loan đã tụt xuống đứng thứ 6 từ vị trí số 1. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Khu vực FDI tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong tiến trình phát triển của Việt Nam và thực sự trở thành bộ phận cấu thành khăng khít của nền kinh tế Việt Nam. Năm 2005, khu vực FDI đóng góp 15,9% GDP, có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu chiếm 57,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, và nộp ngân sách chiếm khoảng 12% tổng thu ngân sách của cả nước. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Tính chung trong giai đoạn 2001-2005, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới đạt 12,9 tỷ USD, vượt 7,5% mục tiêu dự kiến. Vốn FDI đăng ký bổ sung đạt 6,85 tỷ USD. Tuy nhiên, con số 19,7 tỷ USD của cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng thêm trong giai đoạn 2001-2005 mới chỉ bằng 77,5% tổng vốn cấp mới trong giai đoạn 1996-2000. Vốn FDI thực hiện trong giai đoạn 2001-2005 đạt 14 tỷ USD, vượt 37% so với mục tiêu dự kiến và tăng 4,5% so với giai đoạn 1996-2000.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Trong năm 2005, có 37 dự án do các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 368,3 triệu USD, tăng gấp 2,1 lần về số dự án và tăng 31,7 lần về vốn đăng ký so với năm 2004. Vốn đầu tư ra nước ngoài đăng ký trong năm 2005 cao hơn tổng vốn đầu tư ra nước ngoài đăng ký trong các năm tr</span><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:VI">ước c</span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%">ộ</span><span lang="VI" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:VI">ng lại</span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Nhìn chung, việc huy động, thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư tư nhân và FDI, trong năm 2005 đã có những chuyển biến tích cực, góp phần đáng kể vào mức tăng trưởng cao của nền kinh tế. Về tổng thể, trong giai đoạn 2001-2005, tổng vốn đầu tư xã hội gần đạt mục tiêu dự kiến. Tiết kiệm trong nước có xu hướng tăng dần và hiện tương đương 30% GDP, tạo thêm khả năng huy động vốn trong nước và ổn định các cân đối vĩ mô. <o:p></o:p></span></p> <h3 style="text-align:justify;mso-list:l1 level3 lfo2"><a name="_Toc128378393"></a><a name="_Toc127947377"><span style="mso-bookmark:_Toc128378393"><!--[if !supportLists]--><i><span style="font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt"><span style="mso-list:Ignore">1.2.2.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-font-kerning:14.0pt">Nguyên nhân của những chuyển biến tích cực trong thu hút vốn đầu tư và các vấn đề tồn đọng</span></i></span></a><i><span style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial;mso-font-kerning: 14.0pt"><o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Những chuyển biến tích cực trong huy động, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước một phần quan trọng là nhờ công tác chỉ đạo toàn diện của Chính phủ trong việc từng bước cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt vào cuối năm 2005, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật quan trọng nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh, trong đó có Luật Đầu tư (chung) và Luật Doanh nghiệp (thống nhất). Triển vọng tương đối lạc quan về sự phát triển kinh tế của Việt Nam cùng với việc thực hiện các cam kết song phương và đa phương trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo nên sức hút mạnh mẽ cho cả đầu tư trong nước và ĐTNN.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Năm 2005 là năm Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp cụ thể nhằm tạo chuyển biến mới trong công tác thu hút FDI. Hàng loạt pháp lệnh, nghị định và văn bản pháp lý được ban hành nhằm sửa đổi những điểm chưa phù hợp, bổ sung và đưa ra các quy định mới làm cho Việt Nam hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngòai như: giảm mức thuế suất thu nhập cá nhân cao nhất đối với người nước ngoài; mở rộng phạm vi kinh doanh đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài; chuẩn hoá việc cung ứng ký phát và sử dụng séc thanh toán tại Việt Nam theo thông lệ quốc tế; đơn giản hoá các thủ tục hành chính và tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc hỗ trợ nhà đầu tư giải quyết các thủ tục về đất; xoá bỏ chế độ hai giá; xoá bỏ các hạn chế về chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng vốn; giảm cước điện thoại quốc tế xuống mức tương đương với các nước trong khu vực; miễn thuế nhập khẩu một số đầu vào sản xuất cho các doanh nghiệp mới thành lập; tinh giản thủ tục hải quan theo chuẩn mực quốc tế; cải tiến việc cấp/miễn thị thực; sửa đổi thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN; xoá bỏ hạn chế về tỷ lệ vốn FDI trong một số ngành.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Bên cạnh các thành tích nổi bật, năm 2005 cũng cho thấy nhiều hạn chế trong đầu tư phát triển và chính sách huy động, thu hút vốn đầu tư, đó là:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">- Đầu tư nhà nước trong nhiều trường hợp vẫn chưa đóng vai trò tạo điều kiện để thu hút các nguồn đầu tư khác (như đầu tư tư nhân), mà ngược lại, còn lấn át các nguồn này. Một nguyên nhân của thực trạng này là do tỷ trọng của vốn đầu tư nhà nước trong tổng đầu tư toàn xã hội còn quá cao và DNNN còn giữ vai trò chi phối trong một số ngành, lĩnh vực. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">- Việc đánh giá hiệu quả và giám sát đầu tư nhà nước còn yếu. Tình trạng tham nhũng và thất thoát trong các dự án đầu tư nhà nước vẫn phổ biến và chưa có được biện pháp ngăn chặn hữu hiệu. Xét theo khía cạnh tạo việc làm, mặc dù chiếm phần lớn nguồn vốn đầu tư xã hội, song các DNNN chỉ thu hút khoảng 6-7% tổng số lao động và tạo ít việc làm hơn so với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Cơ chế phân bổ vốn đầu tư từ NSNN chưa thực sự hiệu quả</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black">.</span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;font-family: Arial;color:black"> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">- Đã nảy sinh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương trong thu hút đầu tư thông qua việc cấp phép đầu tư, ban hành chính sách ưu đãi vượt thẩm quyền của địa phương. Điều này đã làm méo mó chính sách ưu đãi đầu tư của nhà nước, giảm tính nhất quán minh bạch của hệ thống pháp luật dẫn đến thua thiệt cho phía Việt Nam. 33 tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trái với quy phạm pháp luật hiện hành ở những mức độ khác nhau, đã bị Thủ tướng Chính phủ cảnh báo và cũng đã nhận thức được vấn đề. Một số địa phương khác quá nôn nóng trong việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế thông qua việc thúc đẩy đầu tư vượt quá khả năng tài chính, gây ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế dài hạn.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">- Kết quả thu hút, sử dụng vốn FDI trong những năm qua chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của đất nước. Cơ cấu vốn FDI còn chưa hợp lý cả về ngành lẫn vùng lãnh thổ, chủ yếu tập trung vào các vùng phát triển hơn. Tỷ lệ các dự án lớn gắn với chuyển giao công nghệ nguồn còn thấp. Mặc dù vốn FDI thực hiện năm 2005 tăng so với năm 2004, nhưng nhìn chung tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại có xu hướng giảm dần, từ 30,4% năm 1995 xuống 18% năm 2000 và còn 16,3% năm 2005. Hơn nữa, vốn FDI thực hiện tăng chậm so với vốn đăng ký nên khoảng cách giữa vốn FDI thực hiện và đăng ký đang doãng ra. Điều đặc biệt rõ nét trong năm 2005 là các ngành công nghiệp phụ trợ và kết cấu hạ tầng không đáp ứng được yêu cầu phát triển và đầu tư, trong đó có FDI. <o:p></o:p></span></p> <h2 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 27.0pt;text-indent:-27.0pt;line-height:120%;mso-list:l1 level2 lfo2;tab-stops: list 27.0pt"><a name="_Toc128378394"></a><a name="_Toc127947378"><span style="mso-bookmark:_Toc128378394"><!--[if !supportLists]--><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning: 14.0pt;font-style:normal"><span style="mso-list:Ignore">1.3.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></b><!--[endif]--><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning: 14.0pt;font-style:normal">Thương mại quốc tế và thương mại nội địa</span></b></span></a><a style="mso-footnote-id:ftn5" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftn5" name="_ftnref5" title=""><span style="mso-bookmark:_Toc127947378"><span style="mso-bookmark:_Toc128378394"><span class="MsoFootnoteReference"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning:14.0pt;font-style:normal"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt; mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language:AR-SA; mso-no-proof:yes">[5]</span></span><!--[endif]--></span></span></b></span></span></span></a><span style="mso-bookmark:_Toc128378394"></span><span style="mso-bookmark:_Toc127947378"></span><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning: 14.0pt;font-style:normal"> <o:p></o:p></span></b></h2> <h3 style="margin-top:4.0pt;mso-list:l1 level3 lfo2"><a name="_Toc128378395"></a><a name="_Toc127947379"><span style="mso-bookmark:_Toc128378395"><!--[if !supportLists]--><i><span style="font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">1.3.1.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial">Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ</span></i></span></a><i><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial"><o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Năm 2005, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng rất mạnh, ước đạt tới 32,2 tỷ USD,<a style="mso-footnote-id:ftn6" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftn6" name="_ftnref6" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-ansi-language:EN-US; mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language:AR-SA">[6]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> tăng 21,6% so với năm 2004, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 2001-2005 (17,8%). Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 110,6 tỷ USD, cao hơn 1,8% so với mục tiêu đặt ra trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2005 có tốc độ tăng trưởng cao nhờ cả giá và khối lượng xuất khẩu tăng. Mức giá hàng hóa xuất khẩu tăng trung bình 11,5% đã làm tăng kim ngạch xuất khẩu 3,3 tỷ USD. Trong khi đó, khối lượng hàng hoá xuất khẩu tăng trung bình gần 9,4%, nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 2,4 tỷ USD. Các mặt hàng có giá xuất khẩu tăng mạnh là dầu thô (40,7%), cà phê (24,7%), than đá (20,7%), cao su (17,9%), chè (15,9%), gạo (14,5%) và hạt điều (12,5%). Các mặt hàng có khối lượng xuất khẩu tăng mạnh bao gồm than đá (53,8%), gạo (28,1%), lạc nhân (26,1%) và cao su (11,9%).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Các thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng tiếp tục được mở rộng. Cho đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2005, Việt Nam đã xuất khẩu vào 16 thị trường với kim ngạch trên 500 triệu USD, trong đó có tới 6 thị trường với kim ngạch ước đạt trên 1 tỷ USD; đó là Mỹ (5,82 tỷ USD), Nhật Bản (4,46 tỷ USD), Trung Quốc (2,99 tỷ USD), </span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:11.0pt;line-height:120%">Ú</span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">c (2,59 tỷ USD), Xingapo (1,66 tỷ USD) và Đức (1,05 tỷ USD). Tính chung kim ngạch xuất khẩu vào 16 thị trường lớn nhất ước đạt 24,91 tỷ USD, chiếm tới 77,3% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2005.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Hầu hết thị trường xuất khẩu vào các khu vực, lãnh thổ đều có sự tăng trưởng kim ngạch khá cao, từ 15% đến 65%, trong đó Châu Á tăng 21,3% (riêng các nước ASEAN tăng 42,6%), Châu Âu tăng 6,7% (riêng EU tăng 8,1%), Châu Mỹ tăng 21,7%, Châu Đại Dương tăng 51% và Châu Phi tăng 83,9%. Cơ cấu thị trường xuất khẩu năm 2005 có sự chuyển dịch tương đối rõ nét với thị phần tăng tại các khu vực/nước như ASEAN, </span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:11.5pt;line-height:120%">Ú</span><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">c, Nhật Bản, giảm mạnh tại EU, và giảm nhẹ tại thị trường Mỹ, Trung Quốc (Hình 1).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Thành tựu xuất khẩu năm 2005 là nhờ nhiều nhân tố. <i style="mso-bidi-font-style:normal">Thứ nhất,</i> kinh tế và cầu nhập khẩu của các nước/khu vực là đối tác thương mại của Việt Nam tiếp tục phục hồi khá mạnh tạo điều kiện tăng xuất khẩu của Việt Nam cả về khối lượng và giá cả.<i style="mso-bidi-font-style:normal"> Thứ hai,</i> nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam đã bắt đầu gây dựng và khẳng định được uy tín và thương hiệu trên thị trường thế giới. Đội ngũ thương nhân - doanh nhân Việt Nam đã dần trưởng thành, hoạt động ngày càng chuyên nghiệp và năng động hơn, nhờ đó, năng lực sản xuất, kinh doanh và hoạt động xuất nhập khẩu từng bước được cải thiện và mở rộng.<i style="mso-bidi-font-style:normal"> Thứ ba</i>, những biện pháp chính sách của Chính phủ cũng là một chất xúc tác quan trọng thúc đẩy xuất khẩu trong năm 2005 nói riêng và giai đoạn 2001-2005 nói chung. Hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM) đã đa dạng hơn về hình thức và có hiệu quả hơn. Cơ chế điều hành chính sách xuất nhập khẩu ngày càng thông thoáng, ổn định, dễ tiên liệu. Vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước tiếp tục được nâng cao, được thể hiện trong việc tháo gỡ kịp thời những khó khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu cũng như trong việc tăng cường công tác tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoCaption" align="center" style="text-align:center"><a name="_Toc127945523"></a><a name="_Toc128379899"><span style="mso-bookmark: _Toc127945523"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic">Hình 1<span style="mso-bidi-font-weight:bold">: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam theo thị trường, 2004-2005</span></span></b></span></a><span style="mso-bookmark: _Toc127945523"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic"> </span></b></span><span style="mso-bookmark:_Toc127945523"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 14.0pt;mso-bidi-font-weight:bold;font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic">(%)</span></span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:14.0pt;mso-bidi-font-weight:bold; font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic"><o:p></o:p></span></p> <table class="MsoNormalTable" border="0" cellspacing="0" cellpadding="0" style="border-collapse:collapse;mso-table-layout-alt:fixed;mso-yfti-tbllook: 480;mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <tbody><tr style="mso-yfti-irow:0;mso-yfti-firstrow:yes;mso-yfti-lastrow:yes"> <td width="295" valign="top" style="width:221.4pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%"><!--[if gte vml 1]><v:shapetype id="_x0000_t75" coordsize="21600,21600" spt="75" preferrelative="t" path="m@4@5l@4@11@9@11@9@5xe" filled="f" stroked="f"> <v:stroke joinstyle="miter"> <v:formulas> <v:f eqn="if lineDrawn pixelLineWidth 0"> <v:f eqn="sum @0 1 0"> <v:f eqn="sum 0 0 @1"> <v:f eqn="prod @2 1 2"> <v:f eqn="prod @3 21600 pixelWidth"> <v:f eqn="prod @3 21600 pixelHeight"> <v:f eqn="sum @0 0 1"> <v:f eqn="prod @6 1 2"> <v:f eqn="prod @7 21600 pixelWidth"> <v:f eqn="sum @8 21600 0"> <v:f eqn="prod @7 21600 pixelHeight"> <v:f eqn="sum @10 21600 0"> </v:formulas> <v:path extrusionok="f" gradientshapeok="t" connecttype="rect"> <o:lock ext="edit" aspectratio="t"> </v:shapetype><v:shape id="_x0000_i1025" type="#_x0000_t75" style="'width:211.5pt;" bordertopcolor="this" borderleftcolor="this" borderbottomcolor="this" borderrightcolor="this"> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\Owner\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image001.emz" title=""> <w:bordertop type="single" width="12"> <w:borderleft type="single" width="12"> <w:borderbottom type="single" width="12"> <w:borderright type="single" width="12"> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]--><img width="286" height="227" src="file:///C:/DOCUME~1/Owner/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.gif" shapes="_x0000_i1025" /><!--[endif]--><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="312" valign="top" style="width:234.0pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%"><!--[if gte vml 1]><v:shape id="_x0000_i1026" type="#_x0000_t75" style="'width:219.75pt;height:166.5pt'" bordertopcolor="this" borderleftcolor="this" borderbottomcolor="this" borderrightcolor="this"> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\Owner\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image003.emz" title=""> <w:bordertop type="single" width="12"> <w:borderleft type="single" width="12"> <w:borderbottom type="single" width="12"> <w:borderright type="single" width="12"> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]--><img width="297" height="226" src="file:///C:/DOCUME~1/Owner/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image004.gif" shapes="_x0000_i1026" /><!--[endif]--><o:p></o:p></span></p> </td> </tr> </tbody></table> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;mso-pagination: none"><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt">Nguồn: </span></i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt">Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan.</span><i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt; font-family:Arial"><o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; tab-stops:171.0pt"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%">Tuy nhiên, xuất khẩu hàng hoá năm 2005 vẫn còn một số hạn chế nhất định. Nhóm hàng nhiên liệu thô, sơ chế và gia công vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu.<a style="mso-footnote-id:ftn7" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftn7" name="_ftnref7" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-ansi-language:EN-US; mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language:AR-SA">[7]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> Đây là những nhóm mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng thấp và có giá xuất khẩu dễ bị giảm sút mạnh theo biến động của thị trường thế giới. Các điều kiện hỗ trợ xuất khẩu cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động xuất khẩu còn thiếu và chưa đảm bảo chất lượng; công tác thông tin, dự báo giá cả, phân tích nguồn hàng, thị trường còn yếu và chưa kịp thời; hoạt động XTTM tuy tiến bộ nhiều song còn thiếu tính chuyên nghiệp cao. Khả năng liên kết, xâu chuỗi, hỗ trợ nhau trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa các doanh nghiệp trong nước còn yếu; vai trò các hiệp hội ngành hàng còn chưa thật sự được phát huy. <o:p></o:p></span></p> <h3 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 36.0pt;line-height:120%;mso-list:l1 level3 lfo2"><a name="_Toc128378396"></a><a name="_Toc127947380"><span style="mso-bookmark:_Toc128378396"><!--[if !supportLists]--><i><span style="font-family:"Times New Roman";color:black;mso-bidi-font-weight:normal"><span style="mso-list:Ignore">1.3.2.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;color:black;mso-bidi-font-weight:normal">Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ</span></i></span></a><i><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;color:black;mso-bidi-font-weight:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2005 ước đạt 36,98 tỷ USD, tăng 4,93 tỷ USD hay 15,4% so với năm 2004. Tuy nhiên, đây là năm có tốc độ tăng nhập khẩu hàng hóa thấp nhất kể từ năm 2002, thấp hơn nhiều mức tăng trung bình 19,1%/năm trong giai đoạn 2001-2005.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Kim ngạch nhập khẩu năm 2005 tăng <i style="mso-bidi-font-style:normal">chủ yếu do gi<span style="mso-bidi-font-style:italic">á nhập khẩu</span> tăng</i> trung bình 11,5% đã khiến kim ngạch nhập khẩu tăng 3,52 tỷ USD (chiếm tới 71,4% phần tăng thêm của kim ngạch nhập khẩu). Trong khi đó, l<span style="mso-bidi-font-style:italic">ượng nhập khẩu </span>tăng 4,7% làm kim ngạch nhập khẩu tăng 1,41 tỷ USD (chỉ chiếm 28,6% phần tăng thêm của kim ngạch nhập khẩu). Riêng đối với mặt hàng xăng dầu, mặc dù khối lượng nhập khẩu chỉ tăng 2,6%, song do giá tăng mạnh, nên kim ngạch nhập khẩu đã tăng tới 35,6% (xấp xỉ 1,4 tỷ USD, chiếm 28,4% phần kim ngach nhập khẩu tăng). Tuy nhiên, cũng có 2 mặt hàng quan trọng có giá nhập khẩu giảm là phôi thép (giá giảm 1,5%) và bông (giá giảm 20,6%). <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu cũng có những chuyển biến đáng lưu ý. Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng máy móc - thiết bị - phụ tùng năm 2005 ước đạt 13,28 tỷ USD, chiếm 36,1% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 28,5% so với 2004. Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt gần 22,5 tỷ USD, chiếm 61,2% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 14,7%. Lưu ý là một số mặt hàng là đầu vào sản xuất có kim ngạch nhập khẩu giảm mạnh so với năm 2004 là urê (giảm 40%), phân bón các loại (giảm 21,7%), bông (giảm 14,7%). Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng tiêu dùng ước đạt 994 triệu USD, giảm tới 50,5% so với năm 2004 và chỉ chiếm tỷ trọng là 2,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Năm 2005 cơ cấu thị trường nhập khẩu theo châu lục có sự chuyển dịch ngược lại so với năm 2004. Năm 2005, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ thị trường Châu Á, khoảng 29,7 tỷ USD, tăng 17,6%, trong đó, chỉ riêng thị trường ASEAN đã chiếm tới 25,4% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 20,7%. Tỷ trọng nhập khẩu từ các châu lục còn lại, trừ Châu Phi, đều giảm đáng kể. Riêng 13 thị trường quốc gia, vùng lãnh thổ nhập khẩu lớn nhất (có kim ngạch nhập khẩu trên 600 triệu USD) đã chiếm tới 84,1% kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của cả nước, với tổng kim ngạch là 31 tỷ USD. Vị trí xếp hạng về thị phần nhập khẩu của 5 thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam về cơ bản vẫn như năm 2004, lần lượt là: Trung Quốc (15,4%), Xingapo (12,7%), Đài Loan (11,7%), Nhật Bản (11,1%) và Hàn Quốc (10%). <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Mức tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu năm 2005 chậm lại có phần đáng kể nhờ công tác điều hành xuất nhập khẩu đã có sự phối hợp khá chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là trong công tác quản lý nhập khẩu đối với các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, phân bón</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family:Arial">. </span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Thành tựu này là đáng ghi nhận trong bối cảnh giá tăng mạnh đối với nguyên, nhiên vật liệu và các mặt hàng chiến lược mà Việt Nam phải nhập khẩu với khối lượng lớn. Tuy nhiên, xét theo cơ cấu nhập khẩu, tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị tiên tiến, công nghệ nguồn vẫn còn thấp. Trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa, chất lượng thông tin, dự báo thị trường và diễn biến giá cả các loại hàng hoá nhập khẩu chưa cao, nên việc nhập khẩu còn bị động và nhiều khi có những tác động bất lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh trong nước.<span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2005 ước đạt 5,1 tỷ USD, tăng 7,6% so với năm 2004. Chi vận tải quốc tế cho hàng hoá nhập khẩu là nhập khẩu dịch vụ chủ yếu, ước khoảng 46% tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ. Ước tính kim ngạch chi trả nước ngoài cho du lịch là 900 triệu USD (tăng 16,5%); dịch vụ hàng không là 650 triệu USD; dịch vụ hàng hải là 170 triệu USD; và dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm là 330 triệu USD. Với mức nhập khẩu lớn hơn, năm 2005 Việt Nam nhập siêu thương mại dịch vụ trên 840 triệu USD.<o:p></o:p></span></p> <h3 style="mso-list:l1 level3 lfo2"><a name="_Toc128378397"></a><a name="_Toc127947381"><span style="mso-bookmark:_Toc128378397"><!--[if !supportLists]--><i><span style="font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt"><span style="mso-list:Ignore">1.3.3.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-font-kerning:14.0pt">Thương mại nội địa</span></i></span></a><i><span style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial;mso-font-kerning: 14.0pt"><o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Thương mại nội địa năm 2005 tiếp tục khởi sắc. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội (TMBLHH&DTDVXH) ước đạt khoảng 475,4 nghìn tỷ VNĐ. Nếu loại trừ yếu tố lạm phát thì TMBLHH&DTDVXH thực tăng 12,1%. Đây là năm TMBLHH&DTDVXH đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 5 năm lại đây. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 125%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:125%">Trong TMBLHH&DTDVXH, khu vực kinh tế trong nước đóng góp khoảng 457,2 nghìn tỷ VNĐ, chiếm tới 96,2%, phần còn lại là của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN. Trong khu vực kinh tế trong nước, TMBLHH&DTDVXH của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng áp đảo (83,1%). Trong khi đó, TMBLHH&DTDVXH của kinh tế nhà nước chỉ chiếm 13,1%, tăng 3,9% so với năm 2004. <o:p></o:p></span></p> <p class="StyleBodyText12ptJustifiedBefore6ptAfter0pt" style="margin-top:4.0pt; margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Nhìn chung, thị trường nội địa tiếp tục phát triển tương đối mạnh mẽ, sôi động. Khối lượng, chất lượng hàng hoá liên tục tăng; không xảy ra tình trạng thiếu hụt, mất cân đối lớn giữa cung và cầu. Các mặt hàng quan trọng, thiết yếu được bảo đảm nguồn cung trong mọi tình huống. Lưu thông hàng hoá được đảm bảo ở cả thị trường thành thị, nông thôn và miền núi. Phương thức đáp ứng nhu cầu mua bán, tiêu dùng trong nước ngày càng đa dạng và văn minh hơn (như siêu thị, trung tâm thương mại, mua bán thanh toán qua thẻ, mua bán tự chọn) đã phần nào thể hiện trình độ tiêu dùng của xã hội đã được nâng cao một bước theo hướng văn minh, hiện đại.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Tuy nhiên, thương mại nội địa của Việt Nam trong năm 2005 vẫn còn tồn đọng một số hạn chế nhất định như: (i) lạm phát tính theo chỉ số giá tiêu dùng còn cao; (ii) việc sắp xếp, tổ chức lại hệ thống phân phối nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, ngăn chặn sự đầu cơ, lũng đoạn thị trường chưa được triển khai có hiệu quả cao; phương thức phân phối, kinh doanh theo hướng văn minh hiện đại để nâng cao sức năng cạnh tranh khi Việt Nam mở cửa rộng hơn thị trường phân phối chậm phát triển; (iii) vấn đề xây dựng hệ thống thông tin thị trường và cơ chế giám sát kinh doanh các hàng hoá cơ bản trong nền kinh tế mặc dù đã được quan tâm đặt ra song chưa hiệu quả, dẫn đến các quyết định điều hành thị trường thiếu chính xác, kịp thời; (iv) mối liên kết lâu dài có hiệu quả giữa sản xuất và lưu thông, giữa nhà nông với doanh nghiệp trong cung ứng vật tư hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm chưa được tăng cường đúng mức.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%"><o:p> </o:p></span></p> <h2 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 27.0pt;text-indent:-27.0pt;line-height:120%;mso-list:l1 level2 lfo2;tab-stops: list 27.0pt"><a name="_Toc94346996"></a><a name="_Toc128378398"></a><a name="_Toc127947382"><span style="mso-bookmark:_Toc128378398"><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><!--[if !supportLists]--><b><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning: 14.0pt;mso-ansi-language:VI;font-style:normal"><span style="mso-list:Ignore">1.4.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></b><!--[endif]--><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning: 14.0pt;font-style:normal">Ổn </span></b></span></span></a><span style="mso-bookmark:_Toc127947382"><span style="mso-bookmark:_Toc128378398"><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><b><span lang="VI" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language: VI;font-style:normal">định kinh tế vĩ mô</span></b></span></span></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><b><span lang="VI" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language: VI;font-style:normal"> <o:p></o:p></span></b></span></h2> <h3 style="margin-top:4.0pt;mso-list:l1 level3 lfo2"><span style="mso-bookmark: _Toc94346996"><a name="_Toc128378399"></a><a name="_Toc127947383"></a><a name="_Toc94346993"><span style="mso-bookmark:_Toc127947383"><span style="mso-bookmark:_Toc128378399"><!--[if !supportLists]--><i><span style="font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">1.4.1.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span lang="VI" style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-ansi-language:VI">Chỉ số giá tiêu dùng</span></i></span></span></a></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><i><span lang="VI" style="font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-ansi-language:VI"> </span></i></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><i><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial"><o:p></o:p></span></i></span></h3> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%">Mức lạm phát tính theo Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2004 lên tới 9,5%, là mức cao nhất kể từ năm 1996. Mức </span></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span lang="VI" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:VI">lạm phát </span></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%">năm 2005</span></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:VI"> tiếp tục đứng ở mức cao</span></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%">,</span></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:VI"> 8,4% (Hình </span></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">2</span></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span lang="VI" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:VI">). Cũng như năm 2004, tỷ lệ lạm phát năm 2005 vượt xa chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 6,5%. Trong môi trường kinh tế đầy biến động, điều này càng cho thấy tính cấp bách của việc đổi mới cách thức đề ra mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, vai trò của Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ trong phối hợp với các chính sách khác.<o:p></o:p></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span lang="VI" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:VI"><o:p> </o:p></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span lang="VI" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:VI"><o:p> </o:p></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span lang="VI" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:VI"><o:p> </o:p></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%"><o:p> </o:p></span></span></p> <p class="MsoCaption" align="center" style="text-align:center"><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><a name="_Toc128379901"></a><a name="_Toc127945525"></a><a name="_Toc94345679"></a><a name="_Toc94341910"><span style="mso-bookmark:_Toc94345679"><span style="mso-bookmark:_Toc127945525"><span style="mso-bookmark:_Toc128379901"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language: VI;font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic">Hình 2: Chỉ số giá tiêu dùng và giá một số nhóm hàng hoá, dịch vụ năm </span></b></span></span></span></a></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span style="mso-bookmark:_Toc127945525"><span style="mso-bookmark:_Toc128379901"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language: VI;font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic">2005</span></b></span></span></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language: VI;font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic"><o:p></o:p></span></b></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">(Tháng 12/2004 = 100)<o:p></o:p></span></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%"><!--[if gte vml 1]><v:shape id="_x0000_i1027" type="#_x0000_t75" style="'width:435pt;height:178.5pt'" bordertopcolor="this" borderleftcolor="this" borderbottomcolor="this" borderrightcolor="this"> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\Owner\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image005.emz" title=""> <w:bordertop type="single" width="12"> <w:borderleft type="single" width="12"> <w:borderbottom type="single" width="12"> <w:borderright type="single" width="12"> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]--><img width="584" height="242" src="file:///C:/DOCUME~1/Owner/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image006.gif" shapes="_x0000_i1027" /><!--[endif]--><o:p></o:p></span></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;mso-pagination: none"><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><a name="_Toc94345680"></a><a name="_Toc94341911"><span style="mso-bookmark:_Toc94345680"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">Nguồn:</span></i></span></a></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"><span style="mso-bookmark:_Toc94341911"><span style="mso-bookmark:_Toc94345680"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"> Theo số liệu từ “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội" (các số từ tháng 1-12/2005) của TCTK.<o:p></o:p></span></span></span></span></p> <span style="mso-bookmark:_Toc94345680"></span><span style="mso-bookmark:_Toc94341911"></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346996"></span> <h3 style="margin-top:4.0pt;mso-list:l1 level3 lfo2"><a name="_Toc128378400"></a><a name="_Toc127947384"><span style="mso-bookmark:_Toc128378400"><!--[if !supportLists]--><i><span style="font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">1.4.2.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span style="font-family:"Times New Roman"">Tỷ giá và giá vàng</span></i></span></a><a name="stop"></a><i><span style="font-family:"Times New Roman""><o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:1.0cm;line-height:120%; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%">Năm 2005 tiếp tục chứng kiến xu hướng ổn định tương đối của tỷ giá VNĐ/USD trong năm 2004. Qua các tháng trong năm 2005, tỷ giá danh nghĩa VNĐ/USD tăng dần, song chỉ ở mức 0,9% cho cả năm 2005 (Hình 3), so với 0,4% của năm 2004. Điểm đáng lưu ý là trong hai năm 2004-2005, mức mất giá danh nghĩa của VNĐ thấp, còn tỷ lệ lạm phát cao. Điều này ít nhiều gây ra những lo ngại về tác động xấu của tỷ giá đến khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trong thời gian tới, nhất là đối với những mặt hàng công nghiệp chế biến có hàm lượng lao động cao, nếu tỷ giá VNĐ/USD không được điều chỉnh theo hướng linh hoạt hơn. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoCaption" align="center" style="text-align:center"><a name="_Toc128379902"></a><a name="_Toc127945526"><span style="mso-bookmark: _Toc128379902"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic">Hình 3: Chỉ số giá tiêu dùng, giá USD và giá vàng năm 2005</span></b></span></a><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic"> (Tháng 12/2004 = 100) <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-bottom:4.0pt;text-align:center; line-height:120%;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%"><!--[if gte vml 1]><v:shape id="_x0000_i1028" type="#_x0000_t75" style="'width:438pt;height:131.25pt'" bordertopcolor="this" borderleftcolor="this" borderbottomcolor="this" borderrightcolor="this"> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\Owner\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image007.emz" title=""> <w:bordertop type="single" width="12"> <w:borderleft type="single" width="12"> <w:borderbottom type="single" width="12"> <w:borderright type="single" width="12"> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]--><img width="588" height="179" src="file:///C:/DOCUME~1/Owner/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image008.gif" shapes="_x0000_i1028" /><!--[endif]--><i style="mso-bidi-font-style:normal">Nguồn</i>: Theo số liệu từ các “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội" tháng 1-12/ 2004 của TCTK.<o:p></o:p></span></p> <h3 style="margin-top:4.0pt;mso-list:l1 level3 lfo2"><a name="_Toc128378401"></a><a name="_Toc127947385"><span style="mso-bookmark:_Toc128378401"><!--[if !supportLists]--><i><span style="font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">1.4.3.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span style="font-family:"Times New Roman"">Cán cân thanh toán quốc tế và nợ nước ngoài</span></i></span></a><i><span style="font-family:"Times New Roman""><o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoPlainText" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Năm 2005 cán cân thanh toán tổng thể ước thặng dư 1.900 triệu USD, cao hơn nhiều mức thặng dư năm 2004 (Bảng 5), góp phần tăng cường dự trữ quốc tế.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoCaption" align="center" style="text-align:center"><a name="_Toc128389082"></a><a name="_Toc127948067"></a><a name="_Toc94703522"><span style="mso-bookmark:_Toc127948067"><span style="mso-bookmark:_Toc128389082"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-style:normal;mso-bidi-font-style:italic">Bảng 5: Cán cân thanh toán quốc tế, 2001-2005</span></b></span></span></a><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-style: normal;mso-bidi-font-style:italic"> (triệu USD)<o:p></o:p></span></b></p> <div align="center"> <table class="MsoNormalTable" border="1" cellspacing="0" cellpadding="0" style="margin-left:13.0pt;border-collapse:collapse;mso-table-layout-alt:fixed; border:none;mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-yfti-tbllook:480; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;mso-border-insidev:.5pt solid windowtext"> <tbody><tr style="mso-yfti-irow:0;mso-yfti-firstrow:yes"> <td width="221" valign="top" style="width:165.55pt;border-top:1.5pt;border-left: 1.5pt;border-bottom:1.0pt;border-right:1.0pt;border-color:windowtext; border-style:solid;mso-border-top-alt:1.5pt;mso-border-left-alt:1.5pt; mso-border-bottom-alt:.5pt;mso-border-right-alt:.5pt;mso-border-color-alt: windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm; margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%"><o:p> </o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext 1.5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:4.0pt;margin-right:4.65pt; margin-bottom:4.0pt;margin-left:-2.45pt;text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none;tab-stops:43.2pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">2001<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext 1.5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:4.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">2002<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext 1.5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:4.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">2003<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext 1.5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:4.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">2004<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="76" valign="top" style="width:56.95pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:.5pt;mso-border-bottom-alt:.5pt;mso-border-right-alt: 1.5pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:4.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:4.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;line-height:120%; mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">2005<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:1"> <td width="221" valign="top" style="width:165.55pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:12.6pt;text-indent:-12.6pt;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">Cán cân vãng lai<span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:4.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:-2.45pt;text-align:center;mso-pagination: none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt">682<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">-604<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">-1878<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">-926<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="76" valign="top" style="width:56.95pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">130<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:2"> <td width="221" valign="top" style="width:165.55pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Cán cân thương mại hàng hoá<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Cán cân thương mại dịch vụ<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Chuyển tiền (ròng)<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:4.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:-2.45pt;text-align:center;mso-pagination: none;tab-stops:43.2pt"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">481<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:4.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:-2.45pt;text-align:center;mso-pagination: none;tab-stops:43.2pt"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">-572<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:4.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:-2.45pt;text-align:center;mso-pagination: none;tab-stops:43.2pt"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">1250<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">-1054<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">-750<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">1921<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">-2528<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">-778<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">2239<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">-2256<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">-872<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">3093<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="76" valign="top" style="width:56.95pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">-897<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">-845<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">3175<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:3"> <td width="221" valign="top" style="width:165.55pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Cán cân vốn <o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:4.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:-2.45pt;text-align:center;mso-pagination: none;tab-stops:43.2pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">220<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">1980<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">3305<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">2753<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="76" valign="top" style="width:56.95pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">3179<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:4"> <td width="221" valign="top" style="width:165.55pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>FDI<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Đầu tư gián tiếp<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:4.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:-2.45pt;text-align:center;mso-pagination: none;tab-stops:43.2pt"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">1300<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:4.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:-2.45pt;text-align:center;mso-pagination: none;tab-stops:43.2pt"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">0<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">1400<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">0<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">1450<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">0<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">1610<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">0<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="76" valign="top" style="width:56.95pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">1850<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">750<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:5"> <td width="221" valign="top" style="width:165.55pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Cán cân thanh toán<span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:4.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:-2.45pt;text-align:center;mso-pagination: none;tab-stops:43.2pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">40<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">357<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">2151<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">883<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="76" valign="top" style="width:56.95pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">1900<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:6;mso-yfti-lastrow:yes"> <td width="221" valign="top" style="width:165.55pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt: .5pt;mso-border-left-alt:1.5pt;mso-border-bottom-alt:1.5pt;mso-border-right-alt: .5pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:2.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 2.0pt;margin-left:0cm;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">Sai số<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:4.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:-2.45pt;text-align:center;mso-pagination: none;tab-stops:43.2pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">-862<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">-1019<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">724<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="72" valign="top" style="width:54.0pt;border-top:none;border-left:none; border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">-944<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="76" valign="top" style="width:56.95pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:2.0pt;margin-right:.65pt; margin-bottom:2.0pt;margin-left:0cm;text-align:center;mso-pagination:none"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">-1409<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> </tbody></table> </div> <p class="MsoFootnoteText" style="margin-top:0cm;margin-right:0cm;margin-bottom: 3.0pt;margin-left:26.95pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style: normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt">Chú thích</span></i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt">: Số liệu năm 2005 là ước tính. Thương mại hàng hóa tính theo giá FOB. Số liệu ước tính thường lệch khá nhiều so với số liệu hiệu chỉnh sau đó.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:0cm;margin-right:0cm;margin-bottom:3.0pt; margin-left:28.8pt;text-indent:-1.45pt;mso-pagination:none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">Nguồn</span></i><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt">: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoPlainText" style="text-align:justify;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><span style="mso-tab-count:1"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoPlainText" style="text-align:justify;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Năm 2005, mặc dù thâm hụt cán cân thu nhập từ đầu tư lên tới 1.081 triệu USD, cao hơn nhiều mức 891 triệu USD năm 2004, song cán cân vãng lai thặng dư 130 triệu USD (khoảng 0,25% GDP), khác hẳn mức thâm hụt khá cao trong năm 2004 (2,0% GDP) và trong hai năm 2003, 2002. Nguyên nhân là do thâm hụt cán cân thương mại hàng hóa, dịch vụ giảm rất đáng kể và chuyển tiền ròng vẫn tiếp tục có thặng dư cao. Thâm hụt cán cân thương mại đã giảm t</span><span lang="VI" style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:VI">ừ </span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">3.128 triệu USD năm 2004 xuống còn 1.742 triệu USD, chủ yếu nhờ xuất khẩu hàng hóa đạt tốc độ tăng trưởng cao, nhất là trong những tháng cuối năm, và nguồn thu từ du lịch và hàng không tăng mạnh. Trong hạng mục chuyển tiền (ròng), chuyển tiền viện trợ đạt 175 triệu USD và chuyển tiền của khu vực tư nhân lên tới 3.000 triệu USD, tương đương mức năm 2004. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoPlainText" style="text-align:justify;text-indent:33.85pt;line-height: 120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Năm 2005 cán cân vốn đã tăng đáng kể, đạt 3.179 triệu USD so với 2.753 triệu USD năm 2004. Luồng vốn FDI vẫn chiếm phần lớn nhất trong tổng số các luồng vốn vào Việt Nam. Cũng như những năm trước đây, cơ cấu vay nợ nước ngoài vẫn chủ yếu là vay trung và dài hạn (thặng dư 983 triệu USD so với 1.162 triệu USD năm 2004). Vay ngắn hạn có thặng dư không đáng kể (46 triệu USD so với -54 triệu USD năm 2004) và c</span><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;mso-ansi-language:VI">ơ</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%"> bản liên quan đến các khoản tín dụng thương mại. Lưu ý là trong năm 2005 các khoản nợ gốc trung và dài hạn đến hạn trả (967 triệu USD) chủ yếu là nợ đến hạn các khoản vay thương mại của doanh nghiệp (kể cả nợ đến hạn các khoản vay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài). <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoPlainText" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Điểm đáng ghi nhớ là năm 2005 Việt Nam phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế với trị giá 750 triệu USD, góp phần giảm bớt áp lực đáp ứng chi ngoại tệ từ hệ thống ngân hàng. Ư</span><span lang="VI" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:VI">ớ</span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">c</span><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:VI"> tính</span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%"> lượng ngoại tệ đầu tư ra nước ngoài dưới dạng tiền gửi của các ngân hàng thương mại là 450 triệu USD. <span style="mso-tab-count:1"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%">Theo Trung tâm Tài chính quốc tế của Nhật Bản (tháng 10/2005), dự tính tổng nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2005 là khoảng 18,2 tỷ USD so với 17,0 tỷ USD năm 2004. Các chỉ số như tổng nợ/GDP (35,2%), tổng nợ/xuất khẩu (51,7%), và tỷ lệ dịch vụ nợ (2,8%) đều đang ở trong mức “kiểm soát được“ và dự đoán sẽ có xu hướng giảm trong 3-4 năm tới. Nợ nước ngoài của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng, song khả năng trả nợ của Việt Nam vẫn được đánh giá là tương đối cao. <o:p></o:p></span></p> <h2 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 27.0pt;text-indent:-27.0pt;line-height:120%;mso-list:l1 level2 lfo2;tab-stops: list 27.0pt"><a name="_Toc128378402"></a><a name="_Toc127947386"><span style="mso-bookmark:_Toc128378402"><!--[if !supportLists]--><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning: 14.0pt;font-style:normal"><span style="mso-list:Ignore">1.5.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></b><!--[endif]--><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning: 14.0pt;font-style:normal">Chính sách tài khóa và tiền tệ</span></b></span></a><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning: 14.0pt;font-style:normal"> <o:p></o:p></span></b></h2> <h3 style="margin-top:4.0pt;mso-list:l1 level3 lfo2"><a name="_Toc128378403"></a><a name="_Toc127947387"></a><a name="_Toc94346997"><span style="mso-bookmark:_Toc127947387"><span style="mso-bookmark:_Toc128378403"><!--[if !supportLists]--><i><span style="font-family:"Times New Roman""><span style="mso-list:Ignore">1.5.1.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span style="font-family:"Times New Roman"">Ngân sách và chính sách tài khóa</span></i></span></span></a><span style="mso-bookmark:_Toc94346997"><span style="mso-bookmark:_Toc127947387"><span style="mso-bookmark:_Toc128378403"></span></span></span><a style="mso-footnote-id: ftn8" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftn8" name="_ftnref8" title=""><span style="mso-bookmark:_Toc94346997"><span style="mso-bookmark:_Toc127947387"><span style="mso-bookmark:_Toc128378403"><span class="MsoFootnoteReference"><i><span style="font-weight:normal;mso-bidi-font-weight: bold"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-ansi-language: EN-US;mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language:AR-SA">[8]</span></b></span><!--[endif]--></span></span></i></span></span></span></span></a><span style="mso-bookmark:_Toc128378403"></span><span style="mso-bookmark:_Toc127947387"></span><span style="mso-bookmark:_Toc94346997"></span><i><span style="font-family:"Times New Roman""> <o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL">Trong năm 2005 việc thực hiện NSNN gặp không ít khó khăn và thách thức lớn như thiên tai (hạn hán, lũ lụt, bão), dịch cúm gia cầm diễn ra dài và trên diện rộng, giá xăng dầu và nhiều nguyên vật liệu đầu vào quan trọng của sản xuất tăng mạnh, một số mặt hàng xuất khẩu chịu sức ép cạnh tranh không bình đẳng của nước ngoài. Tuy nhiên, nhiệm vụ thu, chi NSNN tiếp tục đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch NSNN giai đoạn 2001-2005.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Tổng thu NSNN</span></i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL"> năm<i style="mso-bidi-font-style:normal"> </i>2005 ước đạt 210,4 nghìn tỷ VNĐ, vượt 15,0% so với dự toán thu do Quốc hội giao và tăng 16,0% so với thực hiện năm 2004. Tỷ lệ tổng thu NSNN tương đương 25,1% GDP, là mức cao nhất trong giai đoạn 2001-2005 (Bảng 6) và có ý nghĩa lớn lao trong hoàn thành mục tiêu Kế hoạch 5 năm.<b style="mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></b></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL">Thu nội địa năm 2005 tăng 9,2% so với dự toán và tăng 19,2% so với thực hiện năm 2004, trong đó có một số khoản thu quan trọng đạt tương đối cao như thu từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN vượt 14,2% so với dự toán và tăng 39,5% so với thực hiện năm 2004. Một xu thế tích cực là thu nội địa (không kể dầu thô), ngày càng nắm giữ vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách và tăng tương rõ nét, từ 50,7% năm 2001 lên 54,7% năm 2005.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL">Trong năm 2005, khác với năm 2004, thuế thu nhập doanh nghiệp đã tăng đột biến và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu từ thuế của NSNN (thay thế cho thu thuế giá trị gia tăng (GTGT) trong năm 2004), chiếm 37,0% tổng thu từ thuế, phí và lệ phí (năm 2004 là 27,8%, năm 2003 là 26,0%), tăng 23,4% so với dự toán và 88% so với thực hiện năm 2004. Lý do là giá dầu thô tăng cao tạo điều kiện tăng nguồn thu từ lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu dầu thô. Đáng lưu ý là cả khu vực kinh tế có vốn ĐTNN và khu vực kinh tế dân doanh đều đóng góp nguồn thu thuế thu nhập doanh nghiệp cao hơn so với dự toán, trong khi đóng góp của khu vực DNNN giảm. Trong năm 2005, tổng thu từ thuế GTGT ước đạt 47.547 tỷ VNĐ, tăng 3,6% so với dự toán và 16% so với thực hiện năm 2004, chiếm 24,3% tổng thu NSNN (năm 2004 là 29,8%, năm 2003 là 26,1%). <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL">Thu từ dầu thô (55.000 tỷ VNĐ) vượt 46,1% so với dự toán, tăng 18,8% so với thực hiện năm 2004 và đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2001-2005, chủ yếu nhờ giá dầu thô xuất khẩu tăng mạnh. Số thu vượt dự toán về dầu thô được sử dụng để bù lỗ cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu nhập khẩu bán theo giá trần do Nhà nước qui định nhằm bình ổn thị trường, bổ sung nguồn kinh phí cho thực hiện cải cách tiền lương, chế độ ưu đãi người có công, phòng chống khắc phục thiên tai, dịch cúm gia cầm và bổ sung dự trữ tài chính. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL">Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu (51.700 tỷ VNĐ) vượt 10% so với dự toán và tăng 13% so với thực hiện năm 2004. Toàn bộ các tỉnh, thành phố đều đạt và vượt dự toán thu được giao. Đáng lưu ý là thu từ thuế xuất nhập khẩu đứng thứ 3 về tỷ trọng trong tổng thu ngân sách từ thuế, phí và lệ phí, chiếm 11,3%, tiếp tục giảm so với các năm 2002, 2003, 2004 (với tỷ trọng tương ứng là 17,9%, 15,4%, 13,6%). Điều này cũng phù hợp với dự báo liên quan tới việc Việt Nam phải giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: NL"><span style="mso-tab-count:1"> </span>Nhìn chung, các khoản thu từ thuế đều vượt so với dự toán và kết quả thực hiện của năm 2004 cả về quy mô và tốc độ. Tuy nhiên, cơ cấu thuế trực thu, gián thu trong tổng thu từ thuế chưa có chuyển biến tích cực. Đặc biệt, các khoản thu từ nhà, đất còn rất thấp so với tiềm năng thực tế do công tác quản lý đất đai còn nhiều bất cập. Thu NSNN tăng nhưng chưa thực sự bền vững. Mức tăng thu từ sản xuất kinh doanh còn thấp, chưa tương xứng với mức độ đầu tư phát triển. Các khoản thu thiếu ổn định, không bền vững như thu từ dầu thô và từ hoạt động xuất nhập khẩu vẫn chiếm tỷ trọng cao và đóng góp tới 82,8% số tăng thu năm 2005. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: NL"><span style="mso-tab-count:1"> </span><i style="mso-bidi-font-style: normal">Tổng chi NSNN</i> năm 2005 ước đạt 258.470 tỷ VNĐ, tăng 12,5% so với dự toán và 23,7% so với năm 2004. Tổng chi NSNN lên tới 30,8% GDP và đây cũng là một tỷ lệ cao nhất kể từ năm 2001 (Bảng 6). <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:34.0pt;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL">Chi đầu tư phát triển năm 2005 ước đạt 83.300 tỷ VNĐ, tăng 6,1% so với dự toán và 11,3% so với thực hiện năm 2004, chiếm 32,2% tổng chi NSNN, là tỷ trọng đầu tư cao nhất từ trước tới nay. Điều này phần nào thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2005. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;line-height:120%"><i style="mso-bidi-font-style: normal"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;mso-ansi-language:NL"><span style="mso-tab-count:1"> </span></span></i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL">Chi thường xuyên cho các hoạt động sự nghiệp ước đạt 145.595 tỷ VNĐ, tăng 23,5% so với năm 2004. Các khoản chi cho giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể và cải cách tiền lương ước đạt 134.595 tỷ VNĐ, tăng 10,3% so với dự toán. Chi giáo dục, đào tạo đạt 18%, chi khoa học công nghệ đạt 2% tổng chi NSNN, chi cải cách tiền lương vào khoảng 24.100 tỷ VNĐ, tăng 17,6% so với dự toán (thực hiện tăng lương tối thiểu 350.000 VNĐ/tháng từ tháng 10/2005). Chi trả nợ và viện trợ ước cả năm 2005 đạt 34.775 tỷ VNĐ, bằng dự toán, đảm bảo thanh toán đầy đủ, kịp thời các khoản nợ đến hạn theo cam kết, góp phần thực hiện cơ cấu lại nợ nước ngoài.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: NL"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: NL"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoCaption" align="center" style="text-align:center"><a name="_Toc128389083"></a><a name="_Toc127948068"></a><a name="_Toc94703523"><span style="mso-bookmark:_Toc127948068"><span style="mso-bookmark:_Toc128389083"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:NL;font-style:normal;mso-bidi-font-style: italic">Bảng 6</span></b></span></span></a><span style="mso-bookmark:_Toc94703523"><span style="mso-bookmark:_Toc127948068"><span style="mso-bookmark:_Toc128389083"><b><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language: NL;font-style:normal">: Thu, chi và bội chi NSNN, 2001-2005</span></b></span></span></span><b><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language: NL;font-style:normal"> (%) <o:p></o:p></span></b></p> <table class="MsoNormalTable" border="0" cellspacing="0" cellpadding="0" style="margin-left:4.65pt;border-collapse:collapse;mso-table-layout-alt:fixed; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt"> <tbody><tr style="mso-yfti-irow:0;mso-yfti-firstrow:yes;height:14.25pt"> <td width="205" valign="top" style="width:153.75pt;border-top:1.5pt;border-left: 1.5pt;border-bottom:1.0pt;border-right:1.0pt;border-color:windowtext; border-style:solid;mso-border-top-alt:1.5pt;mso-border-left-alt:1.5pt; mso-border-bottom-alt:1.0pt;mso-border-right-alt:.5pt;mso-border-color-alt: windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height: 14.25pt"> <p class="MsoNormal" style="line-height:120%"><b><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;mso-ansi-language:NL;layout-grid-mode:line"> </span></b><b><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black;mso-ansi-language:NL"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="55" valign="top" style="width:41.55pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:14.25pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">2001</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:14.25pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">2002</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:14.25pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">2003</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:14.25pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">2004</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.0pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:14.25pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">Ước 2005</span></b><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="65" nowrap="" valign="bottom" style="width:49.05pt;border-top:solid windowtext 1.5pt; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:1.5pt; mso-border-left-alt:.5pt;mso-border-bottom-alt:.5pt;mso-border-right-alt: 1.5pt;mso-border-color-alt:windowtext;mso-border-style-alt:solid;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:14.25pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">2001-2005<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:1;height:12.75pt"> <td width="205" valign="top" style="width:153.75pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-bottom-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" style="line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black;layout-grid-mode:line"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tổng thu ngân sách/GDP</span></b><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="55" valign="top" style="width:41.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">21,59</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">20,97</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">23,46</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">23,41</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">25,11</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="65" nowrap="" valign="bottom" style="width:49.05pt;border-top:none; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">22,91<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:2;height:25.5pt"> <td width="205" valign="top" style="width:153.75pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:25.5pt"> <p class="MsoNormal" style="margin-left:13.35pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">Thu nội địa (không kể dầu thô)/Tổng thu <o:p></o:p></span></p> </td> <td width="55" valign="top" style="width:41.55pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:25.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">50,7<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:25.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">50,4<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:25.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">52,3<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:25.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">53,5<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:25.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">54,7<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="65" nowrap="" valign="bottom" style="width:49.05pt;border:none; border-right:solid windowtext 1.5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:25.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">52,32<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:3;height:12.75pt"> <td width="205" valign="top" style="width:153.75pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" style="text-indent:13.0pt;mso-char-indent-count:1.0; line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%;color:black">Thu từ dầu thô/Tổng thu NSNN<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="55" valign="top" style="width:41.55pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">25,3<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">21,8<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">22,6<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">25,9<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">26,4<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="65" nowrap="" valign="bottom" style="width:49.05pt;border:none; border-right:solid windowtext 1.5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">24,40<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:4;height:13.5pt"> <td width="205" valign="top" style="width:153.75pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-bottom-alt: solid windowtext 1.0pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" style="line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Thu khác/Tổng thu<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="55" valign="top" style="width:41.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">24,0<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">27,8<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">25,2<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">20,6<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">19,0<o:p></o:p></span></p> </td> <td width="65" nowrap="" valign="bottom" style="width:49.05pt;border-top:none; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">23,32<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:5;height:12.75pt"> <td width="205" valign="top" style="width:153.75pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-bottom-alt: solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" style="line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black;layout-grid-mode:line"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Tổng chi ngân sách/GDP</span></b><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="55" valign="top" style="width:41.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">26,96</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">26,33</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">29,14</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">28,89</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">30,8</span></b><b><span style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="65" nowrap="" valign="bottom" style="width:49.05pt;border-top:none; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">28,42<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:6;height:12.75pt"> <td width="205" valign="top" style="width:153.75pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" style="text-indent:13.0pt;mso-char-indent-count:1.0; line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;color:black;layout-grid-mode:line">Chi đầu tư phát triển/Tổng chi </span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="55" valign="top" style="width:41.55pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">31,0</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">30,5</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">28,9</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">30,1</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">32,2</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="65" nowrap="" valign="bottom" style="width:49.05pt;border:none; border-right:solid windowtext 1.5pt;mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">30,54<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:7;height:12.75pt"> <td width="205" valign="top" style="width:153.75pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" style="text-indent:13.0pt;mso-char-indent-count:1.0; line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;color:black;layout-grid-mode:line">Chi thường xuyên/Tổng chi </span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height: 120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="55" valign="top" style="width:41.55pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">55,1</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">52,7</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">54,2</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">55,7</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border:none;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">52,1</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="65" nowrap="" valign="bottom" style="width:49.05pt;border:none; border-right:solid windowtext 1.5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:12.75pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">53,96<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:8;height:13.5pt"> <td width="205" valign="top" style="width:153.75pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-bottom-alt: solid windowtext 1.0pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" style="text-indent:13.0pt;mso-char-indent-count:1.0; line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;color:black;layout-grid-mode:line">Chi trả nợ và viện trợ/Tổng chi</span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt; line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="55" valign="top" style="width:41.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">11,5</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">13,4</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">14,0</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">14,1</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.0pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;layout-grid-mode:line">13,5</span><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></p> </td> <td width="65" nowrap="" valign="bottom" style="width:49.05pt;border-top:none; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext 1.5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">13,30<o:p></o:p></span></p> </td> </tr> <tr style="mso-yfti-irow:9;mso-yfti-lastrow:yes;height:13.5pt"> <td width="205" valign="top" style="width:153.75pt;border-top:none;border-left: solid windowtext 1.5pt;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right: solid windowtext 1.0pt;mso-border-left-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-bottom-alt: solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt;padding: 0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" style="line-height:120%"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height: 120%;color:black;layout-grid-mode:line"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Cân đối ngân sách thực tế/GDP</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="55" valign="top" style="width:41.55pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt;padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;layout-grid-mode:line">-4,67</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;layout-grid-mode:line">-4,96</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;layout-grid-mode:line">-4,95</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;layout-grid-mode:line">-4,87</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;line-height:120%;color:black"><o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="66" valign="top" style="width:49.35pt;border-top:none;border-left: none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext 1.5pt;mso-border-right-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%; color:black">-4,86<o:p></o:p></span></b></p> </td> <td width="65" nowrap="" valign="bottom" style="width:49.05pt;border-top:none; border-left:none;border-bottom:solid windowtext 1.5pt;border-right:solid windowtext 1.5pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; padding:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;height:13.5pt"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;line-height:120%"><b><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;line-height:120%">-4,86<o:p></o:p></span></b></p> </td> </tr> </tbody></table> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:0cm;margin-right:0cm;margin-bottom: 0cm;margin-left:36.0pt;margin-bottom:.0001pt;text-align:justify;mso-pagination: none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt">Nguồn:</span></i><span style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt"><span style="mso-spacerun:yes"> </span></span><span lang="SV" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: SV">Ban Chỉ đạo quốc gia thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (2005)</span><span lang="SV" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:SV"> </span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt">(trừ con số về chi ngân sách<span style="mso-spacerun:yes"> </span>năm 2005) và tính toán của Viện NCQLKTTƯ dựa trên số liệu của Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê (đối với các con số về chi ngân sách cho năm 2005 và thu chi ngân sách cho giai đoạn 2001-2005).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:6.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 6.0pt;margin-left:36.0pt;text-align:justify;mso-pagination:none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt"><o:p> </o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:33.85pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Năm 2005, <i style="mso-bidi-font-style:normal">bội chi NSNN </i></span><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: VI">ước </span><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%">tính khoảng 40.750 tỷ VNĐ, tương đương 4,9% GDP của năm 2005, <span style="mso-bidi-font-weight:bold">dưới mức Quốc hội cho phép (5%). Đây là mức bội chi tương đương mức bội chi trung bình trong giai đoạn 2001-2005 </span>(Bảng 6). Bội chi NSNN được bù đắp bằng các khoản vay trong nước và nước ngoài. Năm 2005, các khoản vay trong nước tăng mạnh, bằng 5,8 lần so với năm 2004, chủ yếu thông qua việc phát hành công trái giáo dục, trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc<b style="mso-bidi-font-weight:normal">. <o:p></o:p></b></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:33.85pt;line-height:120%"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%">Cân đối NSNN đã đảm bảo nguyên tắc cân đối bền vững, theo đó, tổng thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng chi thường xuyên, dành phần tích luỹ cho đầu tư phát triển và mức bội chi phải trong tầm kiểm soát được (thường là dưới 5% GDP). Năm 2005, tổng thu từ thuế, phí và lệ phí (189.920 tỷ VNĐ) lớn hơn tổng chi thường xuyên (134.595 tỷ VNĐ) và phần tích luỹ 44.325 tỷ VNĐ đã được dành cho đầu tư phát triển.<b style="mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></b></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:0cm;margin-right:0cm;margin-bottom: 0cm;margin-left:36.0pt;margin-bottom:.0001pt;text-align:justify;mso-pagination: none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt"><o:p> </o:p></span></p> <h3 style="margin-top:0cm;mso-list:l1 level3 lfo2"><a name="_Toc128378404"></a><a name="_Toc127947388"><span style="mso-bookmark:_Toc128378404"><!--[if !supportLists]--><i><span style="font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt"><span style="mso-list:Ignore">1.5.2.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-font-kerning:14.0pt">Chính sách tiền tệ và diễn biến tiền tệ</span></i></span></a><i><span style="font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-font-family:Arial;mso-font-kerning:14.0pt"><o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoBodyText" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;line-height:120%;mso-pagination:none"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-weight: normal;mso-bidi-font-weight:bold"><span style="mso-tab-count:1"> </span></span><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL;font-weight:normal;mso-bidi-font-weight:bold">Trong năm 2005 NHNN vẫn tiếp tục thực thi một chính sách tiền tệ thận trọng cùng với giải pháp ổn định tỷ giá (“neo</span><span lang="NL" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family:Arial;mso-bidi-font-family: "Times New Roman";mso-ansi-language:NL;font-weight:normal;mso-bidi-font-weight: bold">”</span><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;mso-ansi-language:NL;font-weight:normal;mso-bidi-font-weight: bold"> tỷ giá), song linh hoạt hơn trong điều hành lãi suất và kiểm soát tín dụng. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoPlainText" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Năm 2005, tốc độ huy động vốn bằng VNĐ của các NHTM tăng nhanh hơn tốc độ huy động vốn bằng ngoại tệ. Nguồn huy động tiền gửi tiết kiệm của dân tăng mạnh so với năm 2004. Do đó, tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông đã giảm từ 23,1% vào tháng 12/2004 xuống còn 20,7% vào tháng 12/2005. Tuy nhiên, tiền gửi của doanh nghiệp giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm, tăng nhẹ trở lại trong 5 tháng sau đó, và tăng mạnh vào tháng 12, ít nhiều làm cho vốn khả dụng của các NHTM thiếu hụt trong một số thời điểm, nhất là những tháng đầu năm. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoPlainText" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height: 120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2005 </span><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:VI">ước tính </span><span lang="NL" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">giảm 5-7 điểm phần trăm so với năm 2004, trong đó tốc độ cho vay bằng ngoại tệ chậm hơn và tốc độ cho vay bằng VNĐ nhanh hơn năm 2004. Việc giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng chủ yếu diễn ra ở các NHTM Nhà nước (chiếm khoảng 70% thị phần tín dụng), trong khi các NHTM cổ phần lại đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng so với năm 2004. Tăng trưởng tín dụng của khu vực NHTM nhà nước giảm chủ yếu là do khu vực này tiếp tục cơ cấu lại nợ và nỗ lực nâng cao chất lượng tín dụng (trong các năm trước tốc độ tăng trưởng tín dụng là quá cao). <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoPlainText" style="text-align:justify;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><span style="mso-tab-count:1"> </span>Trên cơ sở theo dõi sát diễn biến kinh tế và tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành khá linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, điều tiết kịp thời cung-cầu vốn trên thị trường tiền tệ và nhu cầu thiếu hụt vốn khả dụng của các NHTM. Trong năm 2005, nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục là kênh chủ yếu điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng. Doanh số giao dịch của nghiệp vụ thị trưởng mở đạt 102.511 tỷ VNĐ, tăng 65,5% so với năm 2004. NHNN cũng thực hiện điều chỉnh tăng các mức lãi suất chỉ đạo 3 lần trong năm 2005. Tháng 1/2005 NHNN đã tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu nhằm thắt chặt hơn tiền tệ, qua đó kiểm soát lạm phát đang có xu hư</span><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:VI">ớng</span><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: NL"> gia tăng. Tiếp đến, vào tháng 3/2005 NHNN tiếp tục điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu. Tháng 12/2005, NHNN lại tăng thêm lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Diễn biến tỷ giá, lãi suất và hoạt động thị trường ngoại tệ liên ngân hàng năm 2005 có những đặc điểm sau:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: NL">Về tỷ giá</span></i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">: Như đề cập ở trên, tỷ giá tương đối ổn định, mà một nguyên nhân chủ yếu là do NHNN vẫn chủ trương dùng “neo” tỷ giá để kiểm soát lạm phát. Diễn biến tỷ giá xem ra vẫn phù hợp với quan hệ cung cầu. Tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng chênh lệch không đáng kể. NHNN mua được một lượng ngoại tệ nhiều hơn mức bán ra, qua đó tăng được dự trữ ngoại tệ. Ngoài mục tiêu kiểm soát lạm phát, NHNN còn tính đến tác động tiêu cực có thể của việc tăng tỷ giá danh nghĩa (VNĐ mất giá so với USD) đối với sự ổn định thị trường tiền tệ và sản xuất (do đến hơn 97% giá trị hàng hóa nhập khẩu là nguyên nhiên vật liệu và máy móc, thiết bị).<span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoPlainText" style="text-align:justify;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><span style="mso-tab-count:1"> </span><i style="mso-bidi-font-style:normal">Về lãi suất</i>: Lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng và 12 tháng phổ biến ở mức 7,56-8,4%/năm, tăng khoảng 0,84-1,2%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 9,6-12,39%/năm), tăng khoảng 0,96-1,2%/năm. Lãi suất cho vay trung, dài hạn phổ biến ở mức 10,8-16,2%/năm, tăng khoảng 1,2-3%/năm.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoPlainText" style="text-align:justify;line-height:120%"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL"><span style="mso-tab-count:1"> </span><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Lãi suất huy động và cho vay bằng VNĐ trong 10 tháng đầu năm 2005 tăng khoảng 15,8% so với tháng 12/2004. Nguyên ngân của sự biến động này là do: (1) lạm phát còn cao; (2) tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các quý đều tăng; (3) lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng; (4) NHNN điều chỉnh tăng lãi suất; và (5) các NHTM cạnh tranh giữ thị phần. Tuy chưa có nghiên cứu cụ thể, nhưng thực tế cho thấy việc cạnh tranh để giữ thị phần giữa các NHTM có tác động không nhỏ đến sự biến động lãi suất trong năm 2005.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Lãi suất huy động ngoại tệ (USD) tăng mạnh từ mức 2,75%/năm lên 4,2%/năm đối với kỳ hạn 12 tháng. Các kỳ hạn khác cũng biến động tương ứng. Lãi suất cho vay tăng khoảng 2-2,5 điểm phần trăm/năm (lãi suất cho vay ngắn hạn hiện nay phổ biến ở mức 5-6,2%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn phổ biến ở mức 5,5-7,2%/năm). Lãi suất ngoại tệ tăng chủ yếu do FED điều chỉnh tăng lãi suất và các NHTM cạnh tranh giữ thị phần.<i style="mso-bidi-font-style:normal">Về hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng:</i> Tổng giá trị giao dịch giữa các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng năm 2005 tăng khoảng 27% so với năm 2004, trong đó: các giao dịch giao ngay chiếm tỷ trọng khoảng 89,1% tổng giá trị giao dịch và tăng khoảng 50% so với năm 2004; giao dịch hoán đổi chiếm tỷ trọng 4,18%, tăng hơn 1000% so với năm 2004; và giao dịch kỳ hạn chiếm tỷ trọng 6,7%, giảm khoảng trên 30% so với năm 2004. Nhìn chung, hoạt động thị trường trở nên sôi động hơn, nhất là đối với nghiệp vụ hoán đổi. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:VI"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;line-height:120%;mso-pagination:none"><span class="Heading1Char"><span lang="VI" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;text-transform:uppercase;mso-ansi-language:VI">2. KẾ hoẠch phát triỂn kinh tẾ - xã hỘi năm 2006-2010</span></span><span class="Heading1Char"><span style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;text-transform:uppercase"><o:p></o:p></span></span></p> <h2 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 18.0pt;text-indent:-18.0pt;line-height:120%;mso-list:l0 level2 lfo3;tab-stops: list 18.0pt"><!--[if !supportLists]--><b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language: DE;font-style:normal"><span style="mso-list:Ignore">2.1.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></b><!--[endif]--><b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language: DE;font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Mục tiêu<o:p></o:p></span></b></h2> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="DE" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:DE">Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 là “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được sự chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.<o:p></o:p></span></p> <h2 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 18.0pt;text-indent:-18.0pt;line-height:120%;mso-list:l0 level2 lfo3;tab-stops: list 18.0pt"><!--[if !supportLists]--><b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language: DE;font-style:normal"><span style="mso-list:Ignore">2.2.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></b><!--[endif]--><b><span lang="DE" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language: DE;font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Các chỉ tiêu chủ yếu<o:p></o:p></span></b></h2> <h3 style="margin-top:0cm;mso-list:l0 level3 lfo3"><!--[if !supportLists]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt; mso-ansi-language:NL"><span style="mso-list:Ignore">2.2.1.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:NL">Về kinh tế<o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp 2,1 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2006-2010 đạt 7,5-8%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3-3,2%, công nghiệp và xây dựng tăng 9,5-10,2%, dịch vụ tăng 7,7-8,2%.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Quy mô GDP đến năm 2010 đạt khoảng 1.693-1.760 nghìn tỷ đồng (theo giá hiện hành), tương đương 94-98 tỷ USD và GDP bình quân đầu người khoảng 1.050-1.100 USD. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt<span style="mso-spacerun:yes"> </span>khoảng 21-22% GDP.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến: Nông, lâm nghiệp và thủy sản khoảng 15-16%; công nghiệp và xây dựng khoảng 43-44%; các ngành dịch vụ khoảng 40-41%.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. Tổng đầu tư toàn xã hội khoảng 2.200 nghìn tỷ đồng (theo giá năm 2005), tương đương 138,6 tỷ USD, chiếm 40% GDP.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Nếu tình hình trong nước và quốc tế thuận lợi, tạo cơ hội mới để đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển nhanh hơn các ngành dịch vụ, huy động thêm nhiều nguồn vốn trong nước, tăng nhanh thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài<span style="mso-spacerun:yes"> </span>đồng thời thực hiện tốt việc giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động trong các ngành, hạn chế tối đa thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng... thì có thể <b>phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) trên 8%</b></span></i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;mso-ansi-language:NL">. <o:p></o:p></span></p> <h3 style="margin-top:0cm;mso-list:l0 level3 lfo3"><!--[if !supportLists]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt; mso-ansi-language:NL"><span style="mso-list:Ignore">2.2.2.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:NL">Về xã hội<o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Tiếp tục thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ đã cam kết. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2010, giáo dục đại học và cao đẳng đạt 200 sinh viên/10.000 dân. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo năm 2010 đạt 40% tổng lao động xã hội;<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Đến năm 2010, 100% hộ dân có nhu cầu có nhà ở, đảm bảo bình quân 14-15m<sup>2</sup>/người; mật độ điện thoại đạt trên 35 máy/100 dân; mật độ Internet đạt 12,6 thuê bao/100 dân; tỷ lệ số người sử dụng Internet đạt 48%; mở rộng sử dụng tin học.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Quy mô dân số vào năm 2010 khoảng 88,4 triệu người, trong đó thành thị 26,4 triệu người, nông thôn 62 triệu người; tốc độ phát triển dân số vào năm 2010 khoảng 1,14%.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho trên 8 triệu lao động, bình quân mỗi năm trên 1,6 triệu lao động; dạy nghề cho 7,5 triệu lao động, trong đó 25-30% dài hạn. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 5%.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Năm 2010, lao động nông nghiệp chiếm 50% lao động xã hội.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đạt 72 tuổi.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 16‰ và dưới 5 tuổi khoảng 25‰; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi thấp hơn 20% đến năm 2010. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:NL">Giảm tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan thai sản xuống 70/100.000 trẻ đẻ sống. Tỷ lệ bác sỹ 7/10.000 dân, tỷ lệ dược sỹ đại học 1-1,2/10.000 dân; tỷ lệ giường bệnh viện 26,3 giường/10.000 dân.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Chấm dứt </span><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:NL">hoàn<span style="color:black"> toàn tình trạng hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) xuống còn 10-11% vào năm 2010.<o:p></o:p></span></span></p> <h3 style="margin-top:0cm;mso-list:l0 level3 lfo3"><!--[if !supportLists]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt; mso-ansi-language:NL"><span style="mso-list:Ignore">2.2.3.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:NL">Về môi trường<o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Năm 2010 đưa tỷ lệ che phủ rừng lên trên mức 42-43%.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Phấn đấu đến 2010 đạt 100% số đô thị loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và tất cả các cơ sở sản xuất mới, xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, đảm bảo xử lý chất thải, 50% các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn môi trường.<span style="mso-spacerun:yes"> </span><span style="mso-tab-count:1"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Đến 2010, 100% các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải; thu gom và xử lý 90% chất thải rắn thông thường, 80% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Phấn đấu đạt 95% dân cư thành thị và 75% dân cư ở nông thôn sử dụng nước sạch.<o:p></o:p></span></p> <h2 style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt;margin-left: 18.0pt;text-indent:-18.0pt;line-height:120%;mso-list:l0 level2 lfo3;tab-stops: list 18.0pt"><!--[if !supportLists]--><b><span lang="NL" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language: NL;font-style:normal"><span style="mso-list:Ignore">2.3.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></b><!--[endif]--><b><span lang="NL" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language: NL;font-style:normal"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>Dự báo các cân đối lớn của nền kinh tế<o:p></o:p></span></b></h2> <h3 style="margin-top:0cm;mso-list:l0 level3 lfo3"><!--[if !supportLists]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt; mso-ansi-language:NL"><span style="mso-list:Ignore">2.3.1.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:NL">Dự báo quan hệ tích lũy và tiêu dùng<o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Theo phương án tăng trưởng tổng GDP được tạo ra trong 5 năm tới khoảng 6.528-6.674 nghìn tỷ đồng (tính theo giá hiện hành)<a style="mso-footnote-id:ftn9" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftn9" name="_ftnref9" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;mso-fareast-font-family:"Times New Roman";color:black;mso-ansi-language: NL;mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language:AR-SA">[9]</span></span><!--[endif]--></span></span></a>. Tổng quỹ tiêu dùng 5 năm đạt 4.496-4.548 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 68-69% GDP. Tỷ lệ tiêu dùng trên GDP có xu hướng giảm nhanh hơn so với thời kỳ 2001-2005, từ 70,2% năm 2005 xuống khoảng 67,5-68,7% năm 2010. Điều này là cần thiết để tăng tích luỹ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đồng thời để thu hẹp tỷ lệ nhập siêu so với GDP. Tuy nhiên, do tốc độ tăng trưởng sản xuất khá cao nên tốc độ tăng trưởng quỹ tiêu dùng trong 5 năm vẫn đạt trung bình 12,5-13,5%/năm; nếu loại trừ nhân tố giá thì tăng khoảng 6-7%/năm. Tiêu dùng thực tế đầu người dự kiến tăng 5-6%/năm, đảm bảo cải thiện đời sống nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh thị trường nội địa và dịch vụ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Tổng quỹ tích luỹ trong 5 năm đạt 2.645-2740 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 40,4-40,9% GDP. Tỷ lệ tích luỹ trên GDP có xu hướng tăng lên, từ 36,7% năm 2005 lên gần 41-42% năm 2010. Khả năng huy động tiết kiệm nội địa vào đầu tư đạt khoảng 85%.<o:p></o:p></span></p> <h3 style="margin-top:0cm;mso-list:l0 level3 lfo3"><!--[if !supportLists]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt; mso-ansi-language:NL"><span style="mso-list:Ignore">2.3.2.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:NL">Dự báo cân đối các nguồn vốn đầu tư phát triển<o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="FR" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:FR">(1) Để </span><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;mso-ansi-language:NL">thực</span><span lang="FR" style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language: FR"> hiện mục tiêu trên và đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5-8%, tỷ lệ đầu tư trên GDP trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 phải tăng so với 5 năm 2001-2005, từ 37,5% lên khoảng 40%. Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 theo giá năm 2005 đạt khoảng 2.200 nghìn tỷ đồng, tương đương với 138,6 tỷ USD (theo giá hiện hành 160 tỷ USD so với 77 tỷ của 5 năm 2001-2005). Tốc độ tăng tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (kể cả yếu tố trượt giá) dự kiến 17,2%/năm, đảm bảo được tốc độ tăng trưởng kinh tế đề ra.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="FR" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:FR">Trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội theo giá năm 2005, đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước dự kiến đạt khoảng 486,0 nghìn tỷ đồng, chiếm 22% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội; đầu tư từ nguồn vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước dự kiến đạt khoảng 200,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 9,1%; đầu tư từ nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước dự kiến đạt khoảng 307,4 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 13,9%; đầu tư từ nguồn vốn của khu vực dân cư và tư nhân dự kiến đạt 748,7 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 34%; đầu tư từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp dự kiến đạt 378 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 23,8 tỷ USD (tỷ giá năm 2005), chiếm khoảng 17,1%; đầu tư bằng các nguồn vốn khác dự kiến đạt 83,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,8%. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="FR" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:FR">Đầu tư cho lĩnh vực kinh tế dự kiến chiếm khoảng 69,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó đầu tư cho ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 13,5%; công nghiệp và xây dựng 44,5%; giao thông, vận tải và bưu điện 11,9%. Đầu tư cho lĩnh vực xã hội chiếm<span style="mso-spacerun:yes"> </span>28,3% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó ngành giáo dục, đào tạo chiếm 4,6%; ngành y tế - xã hội chiếm 2,7%; ngành văn hóa, thể thao chiếm 2,3%.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="FR" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:FR">(2) Tính chung, <i>toàn bộ nguồn vốn đầu tư thu hút từ bên ngoài </i>đưa vào thực hiện trong 5 năm 2006-2010 đạt khoảng 55,1 tỷ USD, chiếm khoảng 35% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, dự kiến như sau:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><i><span lang="FR" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:FR">Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức</span></i><span lang="FR" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:FR"> (ODA) trong 5 năm 2006-2010 dự kiến sẽ tăng lên khá nhanh do điều kiện quốc tế thuận lợi, sự phát triển nhanh của nền kinh tế Việt Nam cũng như tình hình tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này của Việt Nam được cải thiện. Tính chung trong 5 năm có khả năng huy động được 17 tỷ USD vốn cam kết. Nguồn vốn ODA giải ngân tính trong ngân sách dự kiến tăng từ 1,7 tỷ USD năm 2005 lên 2,3 tỷ USD năm 2010; tính chung tổng nguồn vốn ODA giải ngân thực hiện trong 5 năm 2006-2010 khoảng 10,9 tỷ USD, trong đó đưa vào đầu tư khoảng 85%.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><i><span lang="FR" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:FR">Nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài</span></i><span lang="FR" style="font-size:13.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:FR"> dự báo cũng sẽ tăng khá. Trong 5 năm 2006-2010, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký mới, tăng vốn và đầu tư gián tiếp đạt khoảng 23-25 tỷ USD, trong đó vốn tăng thêm của các dự án đang hoạt động chiếm khoảng 35%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện bao gồm cả tăng vốn các dự án đang thực hiện trong 5 năm 2006-2010 khoảng 17,5-19,5 tỷ USD, trong đó công nghiệp (kể cả dầu khí) chiếm 72-75%; nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 5-6,5% và dịch vụ chiếm 20-21,5%.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="FR" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:FR">Vốn đầu tư từ nguồn kiều hối khoảng 12 tỷ USD.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="FR" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:FR">Ngoài các nguồn vố<span style="letter-spacing:-.3pt">n nước ngoài kể trên, còn có thể huy động thêm của nguồn vốn đầu tư gián tiếp thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài, huy động qua thị trường chứng khoán và các nguồn vay khác để đầu tư trung và dài hạn; dự kiến có thể huy động được khoảng 9 tỷ USD trong 5 năm tới.</span><o:p></o:p></span></p> <h3 style="margin-top:0cm;mso-list:l0 level3 lfo3"><!--[if !supportLists]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt; mso-ansi-language:NL"><span style="mso-list:Ignore">2.3.3.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:NL">Dự báo cân đối ngân sách nhà nước<o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">a) Thu ngân sách nhà nước:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Với mục tiêu </span><span lang="FR" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;mso-ansi-language:FR">cân</span><span lang="NL" style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language: NL"> đối ngân sách một cách tích cực, theo hướng ổn định về mặt chính sách thu chi, giữ bội chi ở mức hợp lý, tăng dần dự trữ, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế, dự kiến tổng thu ngân sách trong 5 năm 2006-2010 đạt khoảng 1.472 nghìn tỷ đồng, tăng 1,94 lần so với 2001-2005; mức động viên 21-22% GDP, trong đó thuế và phí 20-21% GDP; tốc độ tăng thu ngân sách bình quân 11,5% năm. Tỷ trọng thu nội địa (không kể dầu thô) 59-60% tổng thu ngân sách; thu từ hoạt động xuất khẩu 17%, thu từ dầu thô 22-23%.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;letter-spacing:-.2pt;mso-ansi-language: NL">Cơ cấu thu dự </span><span lang="FR" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:FR">kiến</span><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;letter-spacing:-.2pt;mso-ansi-language:NL"> sẽ chuyển dịch theo hướng tỷ trọng các nguồn thu nội địa tăng lên và tỷ trọng thu từ dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu giảm xuống. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">b) Chi ngân sách nhà nước:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Chi ngân sách được xây dựng trên cơ sở cân đối với nguồn thu, đồng thời đáp ứng các yêu cầu vừa đảm bảo trả được nợ của Chính phủ và kiểm soát mức nợ trong và ngoài nước trong giới hạn an toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí ngân sách. Quy mô chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2006-2010 khoảng 1.800 nghìn tỷ đồng, bằng 27-28% so với GDP và bằng 1,96 lần so với giai đoạn 2001-2005; tốc độ chi tăng khoảng 11,5-12%; đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên và chi trả nợ: chi đầu tư phát triển 590 nghìn tỷ đồng, bằng 28,1% tổng chi ngân sách, 22% tổng mức đầu tư toàn xã hội; chi trả nợ 311 nghìn tỷ đồng bằng 17,2% tổng chi ngân sách; chi thường xuyên 946 nghìn tỷ đồng, bằng 52,8% tổng chi ngân sách nhà nước.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Cơ cấu chi ngân sách nhà nước dự kiến sẽ chuyển dịch theo hướng bảo đảm tăng chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, bảo đảm nguồn tài chính trả nợ đúng hạn, thực hiện các chính sách về xã hội theo các mục tiêu đã được đề ra và cho 5 năm 2006-2010.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">c) Bội chi và phương thức bù đắp bội chi ngân sách:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Tỷ lệ bội chi ngân sách dự kiến bằng 5% GDP. Bội chi ngân sách sẽ được bù đắp bằng 2 nguồn là vay trong nước và vay nước ngoài.<o:p></o:p></span></p> <h3 style="margin-top:0cm;mso-list:l0 level3 lfo3"><!--[if !supportLists]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt; mso-ansi-language:NL"><span style="mso-list:Ignore">2.3.4.<span style="font:7.0pt "Times New Roman""> </span></span></span></i><!--[endif]--><i><span lang="NL" style="font-family:"Times New Roman";mso-bidi-font-family:Arial; mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:NL">Dự báo cân đối cán cân thanh toán quốc tế, vay và trả nợ nước ngoài<o:p></o:p></span></i></h3> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Căn cứ trên các dự báo về hoạt động xuất nhập khẩu, cán cân thương mại trong 5 năm tới trung bình mỗi năm thâm hụt khoảng 3 tỷ USD do doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu để mở rộng đầu tư và sản xuất trong nước. <span style="letter-spacing:-.5pt">Thâm hụt cán cân dịch vụ và thu nhập đầu tư dự kiến sẽ tiếp tục tăng nhẹ qua từng năm trong 5 năm tới. Tính chung 5 năm 2006-2010, thâm hụt cán cân dịch vụ và thu nhập đầu tư khoảng 12,1 tỷ USD. <o:p></o:p></span></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Thặng dư cán cân chuyển tiền chính thức và tư nhân được dự kiến sẽ tăng dần qua các năm trong 5 năm 2006-2010, từ 3,1 tỷ USD năm 2005 lên 3,5 tỷ USD năm 2010 do chuyển tiền về nước của dân cư tăng nhanh. Tính chung, thặng dư 5 năm có thể đạt 16,8 tỷ USD. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Cán cân thanh toán vãng lai</span></i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL"> (gồm cán cân ngoại thương, cán cân thanh toán dịch vụ và thu nhập đầu tư, cán cân chuyển tiền chính thức và tư nhân) thời kỳ 2006-2010 dự kiến thâm hụt trung bình hàng năm 2,1 tỷ USD. Đáng chú ý là thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai có xu hướng tăng và ổn định.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Về cán cân vốn,</span></i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;line-height:120%; color:black;mso-ansi-language:NL"> dự kiến vốn FDI trong 5 năm 2006-2010 có khả năng sẽ giải ngân được khoảng 14,4 tỷ USD, trung bình 2,9 tỷ USD/năm (phần đưa vào cân đối cán cân thanh toán quốc tế). Giải ngân vốn vay nước ngoài sẽ tăng chậm dần; dự kiến trong 5 năm tới đạt khoảng 14,4 tỷ USD. Tuy nhiên yêu cầu trả nợ trong 5 năm tới sẽ tăng mạnh so với 5 năm trước; tính chung sẽ phải thanh toán nợ khoảng 11 tỷ USD. Do vậy, vốn trung và dài hạn trong 5 năm tới dự kiến chỉ tăng 3,4 tỷ USD. Tính chung, cán cân vốn của thời kỳ 2006-2010 sẽ thặng dư 18 tỷ USD; trung bình 3,6 tỷ USD/năm. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Do cán cân vốn thặng dư lớn, <i>cán cân thanh toán quốc tế tổng thể</i> 5 năm tới sẽ thặng dư khoảng 3,8 tỷ USD, trung bình khoảng 0,8 tỷ USD/năm, trong đó riêng năm 2010 thặng dư 1,2 tỷ USD. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Về vay và trả nợ nước ngoài</span></i><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt; line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Dự kiến trong 5 năm 2006-2010, tổng số vay mới đạt 14,4 tỷ USD, tăng 38,6% so với 5 năm 2001-2005, trong đó vốn vay mới của Chính phủ là 8,4 tỷ USD, chiếm 58,3%, vốn vay mới của khu vực doanh nghiệp đạt 6 tỷ USD, chiếm 41,7%.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Tổng trả nợ nước ngoài bao gồm trả gốc và lãi trong 5 năm tới dự kiến đạt 11 tỷ USD; trong đó, trả nợ của Chính phủ là 5,4 tỷ USD, trả nợ của doanh nghiệp là 5,6 tỷ USD. Trả nợ so với kim ngạch xuất khẩu năm 2005 là 5,4%, năm 2010 giảm xuống còn 4,3%. Trả nợ của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước năm 2005 là 6,9%, năm 2010 giảm xuống còn 6,2%. Nếu trừ số nợ phải trả từ nguồn cho vay lại thông qua Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài (không cân đối vào ngân sách nhà nước) thì trả nợ của Chính phủ từ ngân sách nhà nước chỉ chiếm khoảng 2-4% tổng thu ngân sách nhà nước.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom: 4.0pt;margin-left:0cm;text-align:justify;text-indent:36.0pt;line-height:120%; mso-pagination:none"><span lang="NL" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;line-height:120%;color:black;mso-ansi-language:NL">Dư nợ nước ngoài của toàn nền kinh tế dự kiến tăng từ 16,7 tỷ USD năm 2005 lên 24,4 tỷ USD năm 2010. Tổng dư nợ vốn vay nước ngoài so với GDP trong 5 năm tới ổn định ở mức 37,5%, tăng nhẹ so với 5 năm 2001-2005. Tỷ lệ tổng dư nợ nước ngoài so với kim ngạch xuất khẩu năm 2005 là 54,5%, năm 2010 giảm xuống còn 41,4%.<o:p></o:p></span></p> <div style="mso-element:footnote-list"><!--[if !supportFootnotes]--><br /> <hr align="left" size="1" width="33%"> <!--[endif]--> <div style="mso-element:footnote" id="ftn1"> <p class="MsoFootnoteText" style="text-align:justify"><a style="mso-footnote-id: ftn1" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftnref1" name="_ftn1" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:10.0pt;mso-fareast-font-family: "Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language: EN-US;mso-bidi-language:AR-SA">[1]</span></span><!--[endif]--></span></span></a><span class="MsoFootnoteReference"> </span>Trừ trường hợp có ghi các nguồn tài liệu tham khảo khác, tất cả số liệu trong phần này do Tổng cục Thống kê cung cấp. Số liệu năm 2005 là ước tính.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn2"> <p class="MsoNormal" style="margin-top:4.0pt;margin-right:0cm;margin-bottom:4.0pt; margin-left:0cm;text-align:justify;line-height:120%;mso-pagination:none"><a style="mso-footnote-id:ftn2" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftnref2" name="_ftn2" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:10.0pt;line-height:120%"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:10.0pt;mso-fareast-font-family: "Times New Roman";mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language:EN-US; mso-bidi-language:AR-SA">[2]</span></span><!--[endif]--></span></span></span></a><span style="font-size:10.0pt;line-height:120%"> Chỉ tiêu kế hoạch <span style="letter-spacing:-.2pt">về cơ cấu kinh tế theo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 bao gồm: n</span>ông - lâm - thủy sản: 20-21%; công nghiệp - xây dựng: 38-39%; dịch vụ: 41-42%.<span style="letter-spacing:-.2pt"><o:p></o:p></span></span></p> <p class="MsoFootnoteText"><o:p> </o:p></p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn3"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn3" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftnref3" name="_ftn3" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:10.0pt;mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning: 14.0pt;mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language: AR-SA">[3]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> Trừ trường hợp có ghi các nguồn tài liệu tham khảo khác, số liệu phần này chủ yếu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cung cấp.</p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn4"> <p class="MsoFootnoteText" style="text-align:justify"><a style="mso-footnote-id: ftn4" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftnref4" name="_ftn4" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:10.0pt;mso-fareast-font-family: "Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language: EN-US;mso-bidi-language:AR-SA">[4]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> “Vốn huy động khác“ được Nhà nước huy động thông qua một số hình thức như phát hành trái phiếu công trình, trái phiếu địa phương, công trái nhằm đầu tư vào kết cấu hạ tầng, trường học.<b style="mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></b></p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn5"> <p class="MsoFootnoteText" style="text-align:justify"><a style="mso-footnote-id: ftn5" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftnref5" name="_ftn5" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:10.0pt;mso-fareast-font-family: "Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language: EN-US;mso-bidi-language:AR-SA">[5]</span></span><!--[endif]--></span></span></a> Trừ trường hợp có ghi nguồn tài liệu tham khảo khác, số liệu trong phần này do Bộ Thương mại cung cấp.<span style="mso-spacerun:yes"> </span></p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn6"> <p class="MsoFootnoteText" style="text-align:justify"><a style="mso-footnote-id: ftn6" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftnref6" name="_ftn6" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:10.0pt;mso-fareast-font-family: "Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language: EN-US;mso-bidi-language:AR-SA">[6]</span></span><!--[endif]--></span></span></a><span lang="DE" style="mso-ansi-language:DE"> Nếu tính cả hàng phi mậu dịch thì tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa là 32,44 tỷ USD.<o:p></o:p></span></p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn7"> <p class="MsoFootnoteText" style="text-align:justify"><a style="mso-footnote-id: ftn7" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftnref7" name="_ftn7" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:10.0pt;mso-fareast-font-family: "Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language: EN-US;mso-bidi-language:AR-SA">[7]</span></span><!--[endif]--></span></span></a><span lang="DE" style="mso-ansi-language:DE"> Chẳng hạn, chỉ riêng hai mặt hàng dầu thô và than đá đã có kim ngạch xuất khẩu hơn 8 tỷ USD, chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.<o:p></o:p></span></p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn8"> <p class="MsoFootnoteText" style="text-align:justify"><a style="mso-footnote-id: ftn8" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftnref8" name="_ftn8" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character:footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:10.0pt;mso-fareast-font-family: "Times New Roman";mso-font-kerning:14.0pt;mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language: EN-US;mso-bidi-language:AR-SA">[8]</span></span><!--[endif]--></span></span></a><span lang="DE" style="mso-ansi-language:DE"> Ngoài những phần được trích dẫn riêng, số liệu trong phần này do Bộ Tài chính cung cấp. <o:p></o:p></span></p> </div> <div style="mso-element:footnote" id="ftn9"> <p class="MsoFootnoteText"><a style="mso-footnote-id:ftn9" href="file:///E:/LINH%20TINH/KINH%20TE%20VIET%20NAM%202000-2005.doc#_ftnref9" name="_ftn9" title=""><span class="MsoFootnoteReference"><span style="mso-special-character: footnote"><!--[if !supportFootnotes]--><span class="MsoFootnoteReference"><span style="font-size:10.0pt;mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-font-kerning: 14.0pt;mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language: AR-SA">[9]</span></span><!--[endif]--></span></span></a><span lang="DE" style="mso-ansi-language:DE"> GDP theo giá 2005 khoảng 5.500 nghìn tỷ đồng, tương đương 348<span style="mso-spacerun:yes"> </span>tỷ USD.<o:p></o:p></span></p> </div></div>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-17871402746664449342011-04-20T08:01:00.000-07:002011-04-20T08:03:39.228-07:00TUYEN NGON DANG CONG SAN CUA K.Marx - F.Engels<p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span style="font-size:19.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"; color:#000066">K.Marx - F.Engels<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span style="font-size:19.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-family:"Times New Roman"">Một bóng ma đang ám ảnh Châu âu: Bóng ma chủ nghĩa cộng sản. Tất cả thế lực của Châu âu cũ: Giáo Hoàng và Nga Hoàng , Mét-téc-ních và Ghi-dô, bọn cấp tiến Pháp và bọn cảnh sát Đức, đều đã liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử bóng ma đó. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-family:"Times New Roman"">Có phái đối lập nào mà lại không bị địch thủ của mình đang nắm chính quyền, buộc tội là cộng sản? Có phái đối lập nào, đến lượt mình, lại không ném trả lại cho những đại biểu tiến bộ nhất trong phái đối lập, cũng như cho những địch thủ phản động của mình, lời buộc tội nhục nhã là cộng sản? <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-family:"Times New Roman"">Từ đó, có thể rút ra hai kết luận. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-family:"Times New Roman"">Chủ nghĩa cộng sản đã được tất cả các thế lực ở Châu âu thừa nhận là một thế lực. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-family:"Times New Roman"">Hiện nay, đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình; và phải có một Tuyên ngôn của đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản.<br />Vì mục đích đó, những người cộng sản thuộc các dân tộc khác nhau đã họp ở Luân Đôn và thảo ra bản "Tuyên ngôn" dưới đây, công bố bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng I-ta-li-a, tiếng Phla-măng và tiếng Đan Mạch. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span style="font-family:"Times New Roman";color:#003399">Phần I<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span style="font-family:"Times New Roman";color:#000066">Tư sản và vô sản<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal"><span style="font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay[2] chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-family:"Times New Roman"">Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội[3] và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau.<br />Trong những thời đại lịch sử trước, hầu khắp mọi nơi, chúng ta đều thấy xã hội hoàn toàn chia thành những đẳng cấp khác nhau, một cái thang chia thành từng nấc thang địa vị xã hội. Ở La Mã thời cổ, chúng ta thấy có quý tộc, hiệp sĩ, bình dân, nô lệ; thời trung cổ thì có lãnh chúa phong kiến, chư hầu, thợ cả, thợ bạn, nông nô, và hơn nữa, hầu như mỗi giai cấp ấy, lại có những thứ bậc đặc biệt nữa. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-family:"Times New Roman"">Xã hội tư sản hiện đại, sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, không xoá bỏ được những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi.<br />Tuy nhiên, đặc điểm của thời đại chúng ta, thời đại của giai cấp tư sản, là đã đơn giản hoá những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.<br />Từ những nông nô thời trung cổ, đã nảy sinh ra những thị dân tự do của các thành thị đầu tiên; từ dân cư thành thị này, nảy sinh ra những phần tử đầu tiên của giai cấp tư sản.<br />Việc tìm ra Châu Mỹ và con đường biển vòng Châu phi đã đem lại một địa bàn hoạt động mới cho giai cấp tư sản vừa mới ra đời. Những thị trường Đông - Ấn và Trung Quốc, việc thực dân hoá Châu Mỹ, việc buôn bán với thuộc địa, việc tăng thêm nhiều tư liệu trao đổi và nói chung tăng thêm nhiều hàng hoá, đã đem lại cho thương nghiệp, cho ngành hàng hải, cho công nghiệp, một sự phát đạt chưa từng có, và do đấy, đã đem lại một sự phát triển mau chóng cho yếu tố cách mạng trong xã hội phong kiến đang tan rã.<br />Tổ chức công nghiệp theo lối phong kiến hay phường hội trước kia không còn có thể thỏa mãn những nhu cầu luôn luôn tăng theo sự mở mang những thị trường mới. Công trường thủ công thay đổi tổ chức cũ ấy. Tầng lớp kinh doanh công nghiệp trung đẳng thay cho thợ cả phường hội; Sự phân công lao động giữa các phường hội khác nhau đã nhường chỗ cho sự phân công lao động bên trong từng xưởng thợ.<br />Nhưng các thị trường cứ lớn lên không ngừng, nhu cầu luôn luôn tăng lên. Ngay cả công trường thủ công cũng không thoả mãn được nhu cầu đó nữa. Lúc ấy, hơi nước và máy móc dẫn đến một cuộc cách mạng trong công nghiệp. Đại công nghiệp hiện đại thay cho công trường thủ công; tầng lớp kinh doanh công nghiệp trung đẳng nhường chỗ cho các nhà công nghiệp triệu phú, cho những kẻ cầm đầu cả hàng loạt đạo quân công nghiệp, những tên tư sản hiện đại.<br />Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới, thị trường mà việc tìm ra châu Mỹ đã chuẩn bị sẵn. Thị trường thế giới thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao thông tiến bộ phát triển mau chóng lạ thường. Sự phát triển này lại tác động trở lại đến việc mở rộng công nghiệp; mà công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải, đường sắt càng phát triển thì giai cấp tư sản càng lớn lên, làm tăng những tư bản của họ lên và đẩy các giai cấp do thời trung cổ để lại xuống phía sau.<br />Như vậy, chúng ta thấy rằng bản thân giai cấp tư sản hiện đại cũng là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài, của một loạt các cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất và trao đổi.<br />Mỗi bước phát triển của giai cấp tư sản đều có một bước tiến bộ chính trị tương ứng. Là đẳng cấp bị chế độ chuyên chế phong kiến áp bức; là đoàn thể vũ trang tự quản trong công xã[4]; ở nơi này, là cộng hoà thành thị độc lập; ở nơi kia, là đẳng cấp thứ ba phải đóng thuế trong chế độ quân chủ[5]; rồi suốt trong thời kỳ công trường thủ công, là lực lượng đối lập với tầng lớp quý tộc trong chế độ quân chủ theo đẳng cấp hay trong chế độ quân chủ chuyên chế; là cơ sở chủ yếu của những nước quân chủ lớn nói chung,- giai cấp tư sản, từ khi đại công nghiệp và thị trường thế giới được thiết lập, đã độc chiếm hẳn được quyền thống trị chính trị trong nước đại nghị hiện đại. Chính quyền nhà nước hiện đại chỉ là một uỷ ban quản lý những công việc chung của toàn thể giai cấp tư sản.<br />Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử.<br />Bất cứ ở chỗ nào mà giai cấp tư sản chiếm được chính quyền thì nó đã đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia trưởng và điền viên. Tất cả những mối quan hệ phức tạp và muôn màu muôn vẻ ràng buộc con người phong kiến với "những bề trên tự nhiên" của mình, đều bị giai cấp tư sản thẳng tay phá vỡ, không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác, ngoài lợi ích trần trụi và lối "tiền trao cháo múc" không tình không nghĩa. Giai cấp tư sản đã dìm những xúc động thiêng liêng của lòng sùng đạo, của nhiệt tình hiệp sĩ, của tính đa cảm tiểu tư sản xuống dòng nước giá lạnh của sự tính toán ích kỷ. Nó đã biến phẩm giá của con người thành giá trị trao đổi; nó đã đem tự do buôn bán duy nhất và vô sỉ thay cho biết bao quyền tự do đã được ban cho và đã giành được một cách chính đáng. Tóm lại, giai cấp tư sản đã đem lại sự bóc lột công nhiên, vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột được che đậy bằng những ảo tưởng tôn giáo và chính trị.<br />Giai cấp tư sản tước hết hào quang thần thánh của tất cả những hoạt động xưa nay vẫn được trọng vọng và tôn sùng. Bác sĩ, luật gia, tu sĩ, bác học đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê được trả lương của nó.<br />Giai cấp tư sản đã xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là quan hệ tiền nong đơn thuần.<br />Giai cấp tư sản đã cho thấy rằng biểu hiện tàn bạo của vũ lực trong thời trung cổ biểu hiện mà phe phản động hết sức ca ngợi, đã được bổ sung một cách tự nhiên bằng thói chây lười và bất động như thế nào. Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên đã cho chúng ta thấy hoạt động của loài người có khả năng làm được những gì. Nó đã tạo ra những kỳ quan khác hẳn những kim tự tháp Ai-cập, những cầu dẫn ở nước La-mã, những nhà thờ kiểu Gô-tích; nó đã tiến hành những cuộc viễn chinh khác hẳn những cuộc di cư của các dân tộc và những cuộc chiến tranh thập tự.<br />Giai cấp tư sản không thể tồn tại, nếu không luôn luôn cách mạng hoá công cụ sản xuất, do đó cách mạng hoá những quan hệ sản xuất, nghĩa là cách mạng hoá toàn bộ những quan hệ trong xã hội. Trái lại đối với tất cả các giai cấp công nghiệp trước kia thì việc duy trì nguyên vẹn phương thức sản xuất cũ là điều kiện kiên quyết cho sự tôn tại của họ. Sự đảo lộn liên tiếp của sản xuất, sự rung chuyển không ngừng trong tất cả những quan hệ xã hội, sự luôn luôn hoài nghi và sự vận động làm cho thời đại tư sản khác với tất cả các thời đại trước. Tất cả những quan hệ xã hội cứng đờ và hoen rỉ, với cả tràng những quan niệm và tư tưởng vốn được tôn sùng từ nghìn năm đi kèm những quan hệ ấy, đều đang tiêu tan; những quan hệ xã hội thay thế những quan hệ đó chưa kịp cứng lại thì đã già cỗi ngay. Tất cả những gì mang tính đẳng cấp và trí tuệ đều tiêu tan như mây khói; tất cả những gì là thiêng liêng đều bị ô uế, và rốt cuộc, mỗi người đều buộc phải nhìn những điều kiện sinh hoạt của họ và những quan hệ giữa họ với nhau bằng con mắt tỉnh táo.<br />Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản sâm lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi.<br />Do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng trong tất cả các nước mang tính chất thế giới. Mặc cho bọn phản động đau buồn, nó đã làm cho công nghiệp mất cơ sở dân tộc. Những ngành công nghiệp dân tộc đã bị tiêu diệt và đang ngày càng bị tiêu diệt. Những ngành công nghiệp dân tộc bị thay thế bởi những ngành công nghiệp mới, tức là những ngành công nghiệp mà việc thu nhập chúng trở thành một vấn đề sống còn đối với tất cả các dân tộc văn minh, những ngành công nghiệp không dùng những nguyên liệu bản sứ mà dùng những nguyên liệu đưa từ những miền xa xôi nhất trên trái đất đến và sản phẩm làm ra không những được tiêu thụ ngay trong sứ mà còn được tiêu thụ ở tất cả các nơi trên trái đất nữa. Thay cho những nhu cầu cũ được thoả mãn bằng những sản phẩm trong nước, thì nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thoả mãn bằng những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về. Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và các dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế. Những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính chất đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở ra một nền văn học toàn thế giới.<br />Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất và trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục. Nó buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư sản, nếu không sẽ bị tiêu diệt; nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải trở thành tư sản. Nói tóm lại, nó tạo ra cho nó một thế giới theo hình dạng của nó.<br />Giai cấp tư sản bắt nông thôn phải phục tùng thành thị. Nó lập ra những đô thị đồ sộ; nó làm cho dân số thành thị tăng lên phi thường so với dân số nông thôn, và do đó, nó kéo một bộ phận lớn dân cư thoát khỏi vòng ngu muội của đời sống thôn dã. Cũng như nó đã bắt nông thôn phải phụ thuộc vào thành thị, bắt những nước dã man hay nửa dã man phải phụ thuộc vào các nước văn minh, nó đã bắt những dân tộc nông dân phải phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây.<br />Giai cấp tư sản ngày càng xoá bỏ tình trạng phân tán về tư liệu sản xuất, về tài sản và về dân cư. Nó tụ tập dân cư, tập trung các tư liệu sản xuất, và tích tụ tài sản vào trong tay một số ít người. Kết quả tất nhiên của những thay đổi ấy là sự tập trung về chính trị. Những địa phương độc lập, liên hệ với nhau hầu như chỉ bởi những quan hệ liên minh và có những lợi ích, luật lệ, chính phủ, thuế quan khác nhau, thì đã được tập hợp lại thành một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống nhất, một luật pháp thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất mang tính giai cấp và một hàng rào thuế quan thống nhất.<br />Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Sự chinh phục những lực lượng thiên nhiên, sự sản xuất bằng máy móc, việc áp dụng hoá học vào công nghiệp và nông nghiệp, việc dùng tàu chạy bằng hơi nước, đường sắt, máy điện báo, việc khai phá từng lục địa nguyên vẹn, việc khai thông các dòng sông cho tầu bè đi lại được, hàng khối dân cư tựa hồ như từ dưới đất trôi lên, có thế kỷ nào trước đây lại ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất như thế vẫn nằm tiềm tàng trong lòng lao động xã hội!.<br />Vậy là chúng ta đã thấy rằng: những tư liệu sản xuất và trao đổi, làm cơ sở của giai cấp tư sản hình thành, đã tạo ra được từ trong lòng xã hội phong kiến. Những tư liệu sản xuất và trao đổi ấy phát triển tới một trình độ nhất định nào đó thì những quan hệ mà trong đó xã hội phong kiến tiến hành sản xuất và trao đổi, tổ chức nông nghiệp và công nghiệp theo lối phong kiến, nói tóm lại, những quan hệ sở hữu phong kiến không phù hợp với những lực lượng sản xuất đã phát triển. Những cái đó đã cản trở sản xuất, chứ không làm cho sản xuất tiến triển lên. Tất cả những cái đó đều biến thành xiềng xích. Phải đập tan những xiềng xích ấy, và qủa nhiên những xiềng xích ấy đã bị đập tan.<br />Thay vào đó là sự cạnh tranh tự do, với một chế độ xã hội và chính trị thích ứng, với sự thống trị kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản.<br />Ngày nay, trước mắt chúng ta, đang diễn ra một quá trình tương tự. Xã hội tư sản hiện đại, với những quan hệ sản xuất và trao đổi tư sản của nó, với những quan hệ sở hữu tư sản, đã tạo ra những tư liệu sản xuất và trao đổi hết sức mạnh mẽ như thế, thì giờ đây, giống như một tay phù thuỷ không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên. Từ hàng chục năm nay, lịch sử công nghiệp và thương nghiệp không phải là cái gì khác hơn là lịch sử cuộc nổi dậy của lực lượng sản xuất hiện đại chống lại những quan hệ sản xuất hiện đại, chống lại những quan hệ sở hữu đang quyết định những tồn tại và sự thống trị của giai cấp tư sản. Để chứng minh điều đó, chỉ cần nêu ra các cuộc khủng hoảng thương nghiệp diễn đi diễn lại một cách chu kỳ và ngày càng đe doạ sự tồn tại của toàn xã hội tư sản. Mỗi cuộc khủng hoảng đều phá hoại không những một số lớn sản phẩm đã được tạo ra, mà cả một phần lớn chính ngay những lực lượng sản xuất đã có nữa. Một nạn dịch nếu ở một thời kỳ nào khác thì nạn dịch này hình như là một điều phi lý - thường gieo tai hoạ cho xã hội, đó là nạn dịch sản xuất thừa. Xã hội đột nhiện bị đẩy lùi về một trạng thái dã man nhất thời; dường như một nạn đói, một cuộc chiến tranh huỷ diệt đã tàn phá sạch mọi tư liệu sinh hoạt của xã hội; công nghiệp và thương nghiệp như bị tiêu diệt. Vì sao thế? Vì xã hội có quá thừa văn minh, có quá nhiều tư liệu sinh hoạt, quá nhiều công nghiệp, quá nhiều thương nghiệp. Những lực lượng sản xuất mà xã hội sẵn có, không thúc đẩy quan hệ sở hữu tư sản phát triển nữa; trái lại, chúng ta đã trở thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy, cái quan hệ sở hữu lúc đó đang cản trở sự phát triển của chúng; và mỗi khi những lực lượng sản xuất xã hội khắc phục được sự cản trở ấy thì chúng lại xô toàn thể xã hội tư sản vào tình trạng rối loạn và đe doạ sự sống còn của sở hữu tư sản. Những quan hệ tư sản đã trở thành quá hẹp, không đủ để chứa đựng những của cải được tạo ra trong lòng nó nữa.- giai cấp tư sản khắc phục những cuộc khủng hoảng ấy như thế nào? Một mặt, bằng cách cưỡng bức phải huỷ bỏ một số lớn lực lượng sản xuất; mặt khác, bằng cách chiếm những thị trường mới và bóc lột triệt để hơn nữa những thị trường cũ. Như thế thì đi đến đâu? Đi đến chỗ chuẩn bị cho những cuộc khủng hoảng toàn diện hơn và ghê gớm hơn và giảm bớt những phương cách ngăn ngừa những cuộc khủng hoảng ấy.<br />Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lạị đập vào ngay chính giai cấp tư sản.<br />Những giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí đã giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản.<br />Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ tăng thêm tư bản cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hoá, tức là một món hàng đem bán như bất cứ một món hàng nào khác; vì thế họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau.<br />Do sự phát triển của việc dùng máy móc và sự phân công, nên lao động của người vô sản mất hết tính chất độc lập, do đó họ mất hết hứng thú. Người công nhân trở thành một vật phụ thuộc giản đơn của máy móc, người ta chỉ đòi hỏi người công nhân làm được một công việc đơn giản nhất, đơn điệu nhất, dễ học nhất mà thôi. Do đó, chi phí một công nhân hầu như chỉ là còn là số tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì đời sống và nòi giống của anh ta mà thôi. Nhưng giá cả lao động, cũng như giá cả hàng hoá, lại bằng chi phí sản xuất ra nó. Cho nên lao động càng trở nên thiếu hấp dẫn thì tiền công càng hạ. Hơn nữa, việc sử dụng máy móc và sự phân công mà tăng lên thì lượng lao động cũng tăng lên theo, hoặc là do tăng thêm giờ làm, hoặc là do tăng thêm lượng lao động phải tăng thêm lượng lao động phải làm trong một thời gian nhất định, do cho máy chạy tăng thêm,...<br />Công nghiệp hiện đại đã biến xưởng thợ nhỏ của người thợ cả gia trưởng thành công xưởng lớn của nhà tư bản công nghiệp. Những khối đông đảo công dân, chen chúc nhau trong xưởng, được tổ chức theo lối quân sự. Là những người lính trơn của công nghiệp, họ bị đặt dưới quyền giám sát của cả một hệ thống cấp bậc sĩ quan và hạ sĩ quan. Họ không những là nô lệ của giai cấp tư sản, của nhà nước tư sản, mà hàng ngày, hàng giờ, còn là nô lệ của máy móc, của người đốc công và trước hết là của chính nhà tư sản chủ công xưởng. Chế độ chuyên chế ấy càng công khai tuyên bố lợi nhuận là mục đích duy nhất của nó thì nó lại càng trở thành ti tiện, bỉ ổi, đáng căm ghét.<br />Lao động thủ công càng ít cần đến sự khéo léo và sức lực chừng nào, nghĩa là công nghiệp hiện đại càng tiến triển thì lao động của đàn ông càng được thay thế của đàn bà và trẻ em. Những sự phân biệt về lứa tuổi và giới tính không còn có ý nghĩa xã hội gì nữa đối với giai cấp công nhân. Tất cả đều là công cụ lao động mà chi phí thì thay đổi theo lứa tuổi và giới tính.<br />Một khi người thợ đã bị chủ xưởng bóc lột và đã được trả tiền công rồi thì anh ta lại trở thành miếng mồi cho các phần tử khác trong giai cấp tư sản: chủ nhà thuê, chủ hiệu bán lẻ, kẻ cho vay nặng lãi,...<br />Những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương nghiệp và người thực lợi nhỏ, thợ thủ công và nông dân là những tầng lớp dưới của tầng lớp trung đẳng xa kia, đều bị rơi xuống hàng ngũ giai cấp vô sản, một phần vì số vốn ít ỏi của họ không đủ cho phép họ quản lý những xí nghiệp, nên họ bị sự cạnh tranh của bọn tư bản hơn đánh bại, một phần vì sự khéo léo nhà nghề của họ bị những phương pháp sản xuất mới làm giảm giá trị đi. Thành thử giai cấp vô sản được tuyển mộ trong tất cả các giai cấp của dân cư.<br />Giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Cuộc đấu tranh của họ chống giai cấp tư sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời.<br />Thoạt đầu, cuộc đấu tranh được tiến hành bởi những công nhân riêng lẻ; kế đến, bởi những công nhân cùng một công xưởng; và sau đó, bởi những công nhân cùng một ngành công nghiệp, cùng một địa phương, chống lại người tư sản trực tiếp bóc lột họ. Họ không phải chỉ đả kích vào quan hệ sản xuất tư sản mà còn đánh ngay vào cả công cụ sản xuất nữa; họ phá huỷ hàng ngoại hoá cạnh tranh với họ, đập phá máy móc, đốt các công xưởng và ra sức giành lại địa vị đã mất của người thợ thủ công thời trung cổ.<br />Trong giai đoạn đó, giai cấp vô sản còn là một khối quần chúng sống tản mạn trong cả nước và bị cạnh tranh chia nhỏ. Nếu có lúc quần chúng công nhân tập hợp nhau lại thì đó cũng chưa phải là kết quả của sự liên hợp của chính họ, mà là kết quả của sự liên hợp của giai cấp tư sản, nó muốn đạt những mục đích chính trị cả nó, nên phải huy động toàn thể giai cấp vô sản và tạm thời có khả năng huy động được như vậy. Bởi vậy, suốt trong giai đoạn này, những người vô sản chưa đánh kẻ thù của chính mình, mà đánh kẻ thù của kẻ thù của mình, tức là những tàn dư của chế độ quân chủ chuyên chế, bọn địa chủ, bọn tư sản phi công nghiệp, bọn tiểu tư sản. Toàn bộ sự vận động lịch sử được tập trung như vậy vào tay giai cấp tư sản; mọi thắng lợi đạt được trong những điều kiện ấy đều là thắng lợi của giai cấp tư sản.<br />Nhưng sự phát triển của công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản, mà còn tập hợp họ lại thành những khối quần chúng lớn hơn; lực lượng của những người vô sản tăng thêm và họ thấy rõ lực lượng của mình hơn. Máy móc càng xoá bỏ mọi sự khác nhau trong lao động và càng rút tiền công ở khắp mọi nơi xuống một mức thấp ngang nhau, thì lợi ích, điều kiện sinh hoạt của vô sản, càng dần dần ngang bằng nhau. Vì bọn tư sản ngày càng cạnh tranh với nhau hơn và vì khủng hoảng thương mại do sự cạnh tranh ấy sinh ra, cho nên tiền công càng trở nên bấp bênh; việc cải tiến máy móc không ngừng và ngày càng nhanh chóng hơn làm cho tình cảnh của công nhân ngày càng bấp bênh, những cuộc xung đột cá nhân giữa công nhân và tư sản ngày càng có tính chất những cuộc xung đột giữa hai giai cấp. Công nhân bắt đầu thành lập những Liên minh (Công đoàn) chống lại bọn tư sản để bảo vệ tiền công của mình. Thậm chí họ đi tới chỗ lập thành những đoàn thể thường trực để sẵn sàng đối phó, khi những cuộc xung đột bất ngờ xảy ra. Đây đó, đấu tranh nổ thành bạo động.<br />Đôi khi công nhân thắng; nhưng đó là một thắng lợi tạm thời. Kết quả thực sự của những cuộc đấu tranh của họ là sự đoàn kết ngày càng rộng của những người lao động, hơn là sự thành công tức thời. Việc tăng thêm phương tiện giao thông do đại công nghiệp tạo ra, giúp cho công nhân các địa phương tiếp xúc với nhau, đã làm cho sự đoàn kết đó được dễ dàng. Mà chỉ tiếp xúc như vậy cũng đủ để tập trung nhiều cuộc đấu tranh địa phương, đâu đâu cũng mang tính chất giống nhau, thành một cuộc đấu tranh toàn quốc, thành một cuộc đấu tranh giai cấp. Nhưng bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng là một cuộc đấu tranh chính trị, và sự đoàn kết mà những thị dân thời trung cổ đã phải mất hàng thế kỷ mới xây dựng được bằng những con đường làng nhỏ hẹp của họ, thì những người vô sản hiện đại chỉ xây dựng trong một vài năm, nhờ có đường sắt.<br />Sự tổ chức như vậy của người vô sản thành giai cấp và do đó thành chính đảng, luôn luôn bị sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau phá vỡ. Nhưng nó luôn luôn được tái lập và luôn luôn mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn, hùng mạnh hơn. Nó lợi dụng những bất hoà trong nội bộ giai cấp tư sản để buộc giai cấp tư sản phải thừa nhận, bằng luật pháp, một số quyền lợi của giai cấp công nhân : chẳng hạn như đạo luật 10 giờ ở Anh.<br />Nói chung, những xung đột xảy ra trong xã hội cũ đã giúp bằng nhiều cách cho giai cấp vô sản phát triển. Giai cấp tư sản sống trong một trạng thái chiến tranh không ngừng : trước hết chống lại quý tộc; sau đó, chống lại các bộ phận của chính ngay giai cấp tư sản mà quyền lợi xung đột với sự tiến bộ của công nghiệp, và cuối cùng, luôn luôn chống lại giai cấp tư sản của tất cả các nước ngoài. Trong hết thảy những cuộc đấu tranh ấy, giai cấp tư sản tự thấy mình buộc phải kêu gọi giai cấp vô sản, yêu cầu họ giúp sức, và do đó, lôi cuốn họ vào phong trào chính trị. Thành thử giai cấp tư sản đã cung cấp cho những người vô sản một phần những tri thức chính trị và những tri thức phổ thông của bản thân nó, nghĩa là những vũ khí chống lại bản thân nó.<br />Hơn nữa, như chúng ta vừa thấy, từng bộ phận trọn vẹn của giai cấp thống trị bị sự tiến bộ của công nghiệp đẩy vào hàng ngũ giai cấp vô sản, hay ít ra thì cũng bị đe doạ về mặt những điều kiện sinh hoạt của họ. Những bộ phận ấy cũng đem lại cho giai cấp vô sản nhiều tri thức.<br />Cuối cùng, lúc mà đấu tranh giai cấp tiến gần đến giờ quyết định thì quá trình tan rã của giai cấp thống trị, của toàn xã hội cũ, mang một tính chất dữ dội và khốc liệt đến nỗi một bộ phận nhỏ của giai cấp thống trị tách ra khỏi giai cấp này và đi theo giai cấp của cách mạng, đi theo giai cấp đang nắm tương lai trong tay. Cũng như xa kia, một bộ phận của quý tộc chạy sang hàng ngũ giai cấp tư sản; ngày nay, một bộ phận của giai cấp tư sản cũng chạy sang hàng ngũ giai cấp vô sản, đó là bộ phận những nhà tư tưởng tư sản đã vươn lên nhận thức được, về mặt lý luận, toàn bộ quá trình vận động lịch sử.<br />Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp.<br />Các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống của họ với tính cách là những tầng lớp trung đẳng. Cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ. Thậm chí, hơn thế nữa, họ lại là phản động: họ tìm cách làm cho bánh xe lịch sử quay ngược trở lại. Nếu họ có thái độ cách mạng thì cũng chỉ trong chừng mực là họ thấy họ sẽ phải rơi vào hàng ngũ giai cấp vô sản: lúc đó, họ bảo vệ lợi ích tương lai của họ, chứ không phải lợi ích hiện tại của họ, họ từ bỏ quan niệm của chính họ để đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản.<br />Còn tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối rữa của những tầng lớp bên dưới nhất trong xã hội cũ, thì đây đó, có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào, nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình cho những mưu đồ của phe phản động.<br />Điều kiện sinh hoạt của xã hội cũ đã bị xoá bỏ trong những điều kiện sinh hoạt của giai cấp vô sản. Người vô sản không có tài sản; Quan hệ giữa anh ta với vợ con không còn giống một chút nào so với quan hệ gia đình tư sản; lao động công nghiệp hiện đại, tình trạng người công dân làm nô lệ cho tư bản, ở Anh cũng như ở Pháp, ở Mỹ cũng như ở Đức, làm cho người vô sản mất hết mọi tính chất dân tộc. Luật pháp, đạo đức, tôn giáo đều bị người vô sản coi là những thành kiến tư sản che giấu những lợi ích tư sản.<br />Tất cả những giai cấp trước kia sau khi chiếm được chính quyền, đều ra sức củng cố địa vị mà họ đã nắm được bằng cách bắt toàn xã hội tuân theo những điều kiện đảm bảo cho phương thức chiếm hữu của chính chúng. Những người vô sản chỉ có thể giành được những lực lượng sản xuất xã hội bằng cách xoá bỏ phương thức chiếm hữu hiện nay của chính mình, và do đấy, xoá bỏ toàn bộ phương thức chiếm hữu nói chung đã tồn tại từ trước đến nay. Những người vô sản chẳng có gì là của mình để bảo vệ cả, họ phải phá huỷ hết thảy những cái gì, từ trước đến nay, vẫn bảo đảm và bảo vệ chế độ tư hữu.<br />Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước tới nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu cầu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu cầu lợi ích cho khối đại đa số. Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên dưới nhất của xã hội hiện tại, không thể vùng dậy, vươn mình lên nếu không làm nổ tung toàn bộ cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội<br />Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã.<br />Trong khi phác ra những nét lớn của các giai đoạn phát triển của giai cấp vô sản, chúng tôi đã nghiên cứu cuộc nội chiến ít nhiều mạng tính chất ngấm ngầm trong xã hội hiện nay cho đến khi cuộc nội chiến ấy nổ bung ra thành cách mạng công khai, mà giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản.<br />Tất cả những xã hội trước kia, như chúng ta đã thấy, đều dựa trên sự đối kháng giữa các giai cấp áp bức và các giai cấp bị áp bức. Nhưng muốn áp bức một giai cấp nào đó thì cần phải bảo đảm cho giai cấp ấy những điều kiện sinh sống khiến cho họ chí ít, cũng có thể sống được trong vòng nô lệ. Người nông nô trong chế độ nông nô, đã tiến tới chỗ trở nên một thành viên của công xã, cũng như tiểu tư sản đã vươn tới địa vị người tư sản, dưới ách của chế độ chuyên chế phong kiến. Người công nhân hiện đại, trái lại, đã không vươn lên được cùng với sự tiến bộ của công nghiệp, mà còn luôn luôn rơi xuống thấp hơn, dưới cả những điều kiện sinh sống của chính giai cấp họ. Người lao động trở thành một người nghèo khổ, và nạn nghèo khổ còn tăng lên nhanh hơn là dân số và của cải. Vậy hiển nhiên là giai cấp tư sản không có khả năng tiếp tục làm tròn vai trò giai cấp thống trị của mình trong toàn xã hội và buộc toàn xã hội phải chịu theo điều kiện sinh sống của giai cấp mình, coi đó là một quy luật chi phối tất cả. Nó không thể thống trị được nữa, vì nó không có thể đảm bảo cho người nô lệ của nó ngay cả một mức sống nô lệ, vì nó đã buộc phải để người nô lệ ấy rơi xuống tình trạng khiến nó phải nuôi người nô lệ ấy, chứ không phải người nô lệ ấy phải nuôi nó. Xã hội không thể sống dưới sự thống trị của giai cấp tư sản nữa, như thế có nghĩa là sự tồn tại của giai cấp tư sản không còn tương dung với sự tồn tại của xã hội nữa.<br />Điều kiện căn bản của sự tồn tại và sự thống trị của giai cấp tư sản là sự tích luỹ của cải vào tay những tư nhân, là sự hình thành và tăng thêm tư bản. Điều kiện tồn tại của tư bản là lao động làm thuê. Lao động làm thuê hoàn toàn dựa vào sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau. Sự tiến bộ của công nghiệp mà giai cấp tư sản là người đại diện mặc nhiên của nó và không đủ sức chống lại nó đem sự đoàn kết cách mạng của công nhân do liên hợp lại mà có, thay cho sự chia rẽ của công nhân do cạnh tranh giữa họ gây nên. Như vậy, cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiến hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu.<br />------------------<br /><b>Chú thích</b><br />[1] Giai cấp tư sản là giai cấp những nhà tư bản hiện đại, những người sở hữu tư liệu sản xuất xã hội và sử dụng lao động làm thuê. Giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc phải bán sức lao động của mình để sống. (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Anh năm 1888)<br />[2] Tức là toàn bộ lịch sử thành văn cho tới nay. Năm 1847, người ta vẫn hầu như hoàn toàn không biết tổ chức xã hộ trước toàn bộ lịch sử thành văn, tức là tiền sử của xã hội. Sau đó, Hắc-xtơ-hau-den đã phát hiện ra chế độ công hữu ruộng đất ở Nga. Mau-rơ đã chứng minh rằng chế độ công hữu ruộng đất là cái cơ sở xã hội làm điểm xuất phát cho sự phát triển lịch sử của tất cả các bộ lạc Đức, và người ta dần dần thấy rằng công xã nông thôn, với chế độ sở hữu chung ruộng đất, đang là hoặc đã là hình thức nguyên thuỷ của xã hội ở khắp nơi, từ ấn Độ đến Ai-rơ-len. Hình thức điển hình của kết cấu nội bộ của xã hội cộng sản nguyên thuỷ đó đã được Moóc-gan làm sáng tỏ khi ông phát hiện được thực chất của thị tộc và địa vị của nó trong bộ lạc. Cùng với sự tan rã của công xã nguyên thuỷ ấy, xã hội bắt đầu phân chia thành những giai cấp riêng biệt và cuối cùng là đối kháng. Tôi đã cố gắng trình bày quá trình ta rã đó trong tác phẩm "Der Ursprung der Familie, des Privateigentums und des staats". 2.Autl.. <st2:city st="on"><st2:place st="on">Stuttgart</st2:place></st2:city>, 1886 ("Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước", xuất bản lần thứ hai. Stút-gát, 1886) (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Anh năm 1888)<br />[3] Thợ cả phường hội là thành viên có đầy đủ quyền hạn trong phường hội, là thợ cả trong phường hội, chứ không phải trùm phường. (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Anh năm 1888)<br />[4] Ở Pháp, những thành phố còn đang hình thành đã được gọi là "công xã" ngay cả trước khi những thành phố ấy giành lại được chế độ tự quản địa phương và những quyền chính trị của "đẳng cấp thứ ba" từ tay bọn lãnh chúa và chủ phong kiến. Nói chung, ở đây nước Anh được coi là nước điển hình về phương diện phát triển chính trị tư sản. (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Anh năm 1888).<br />Công xã là tên mà những người dân thành thị ở I-ta-li-a và Pháp gọi công xã thành thị của mình sau khi họ mua hoặc giành được từ tay bọn chủ phong kiến những quyền tự quản đầu tiên. (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1890)<br />[5] Trong bản tiếng Anh năm 1888 do Ăng-ghen hiệu đính sau những chữ "cộng hoà thành thị độc lập" có thêm những chữ "(như ở I-ta-li-a và ở Đức)". còn sau những chữ "đẳng cấp thứ ba phải đóng thuế trong chế độ quân chủ" có thêm những chữ "(như ở Pháp)" <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><b><span style="font-family:"Times New Roman"; color:#003399">Phần II<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><b><span style="font-family:"Times New Roman"; color:#000066">Những người vô sản và những người cộng sản</span></b><span style="font-family:"Times New Roman""><br />Quan hệ giữa người cộng sản với những người vô sản nói chung như thế nào?<br />Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác.<br />Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản.<br />Họ không đặt ra những nguyên tắc riêng biệt[6] nhằm khuôn phong trào vô sản theo những nguyên tắc ấy.<br />Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm:<br />+ Một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản;<br />+ Hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào.<br />Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên[7] về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.<br />Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền.<br />Những quan điểm lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra.<br />Những nguyên lý ấy chỉ biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một sự vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt chúng ta, việc xoá bỏ những quan hệ sở hữu đã tồn tại trước kia không phải là cái gì đặc trưng vốn có của chủ nghĩa cộng sản.<br />Tất cả những quan hệ sở hữu đã trải qua những thay đổi liên tiếp, những cải biến liên tiếp trong lịch sử.<br />Chẳng hạn, cách mạng Pháp đã xoá bỏ chế độ sở hữu phong kiến và bênh vực chế độ sở hữu tư sản.<br />Nhưng chế độ tư hữu tư sản hiện thời, lại là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu sản phẩm dựa trên những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia[8]<br />Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu.<br />Người ta trách những người cộng sản chúng tôi là muốn xoá bỏ sở hữu do cá nhân mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân, sở hữu mà người ta bảo là cơ sở của mọi tự do, mọi hoạt động và mọi sự độc lập của cá nhân.<br />Cái sở hữu làm ra, kiếm được một cách lương thiện và do lao động của bản thân tạo ra ! Phải chăng người ta muốn nói đến cái hình thức sở hữu có trước sở hữu tư sản, tức là sở hữu của người tiểu tư sản, của người tiểu nông? Chúng tôi có cần gì phải xoá bỏ cái đó, sự phát triển của công nghiệp đã xoá bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xoá bỏ cái đó rồi.<br />Hay là người ta muốn nói đến chế độ tư hữu tư sản hiện thời.<br />Nhưng phải chăng lao động làm thuê, lao động của người vô sản, lại tạo ra sở hữu cho người vô sản? Tuyệt đối không. Nó tạo ra tư bản, tức là cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê, cái sở hữu chỉ có thể tăng thêm với điều kiện là phải sản xuất ra lao động làm thuê mới để lại bóc lột lao động làm thuê đó. Trong hình thái hiện tại của nó, sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực: tư bản và lao động. Chúng ta hãy xét hai cực của sự đối lập ấy.<br />Trở thành nhà tư bản có nghĩa là không những chỉ chiếm một địa vị thuần tuý cá nhân, mà còn chiếm một địa vị xã hội trong sản xuất. Tư bản là một sản phẩm tập thể và nó chỉ có thể vận động được là nhờ sự hoạt động chung của nhiều thành viên trong xã hội, xét đến cùng, là nhờ sự hoạt động chung của tất cả các thành viên trong xã hội.<br />Vậy tư bản không phải là một lực lượng cá nhân, nó là một lực lượng xã hội.<br />Cho nên, nếu tư bản biến thành sở hữu tập thể thuộc tất cả mọi thành viên trong xã hội thì đó không phải là một sở hữu cá nhân chuyển thành sở hữu xã hội. Chỉ có tính chất xã hội của sở hữu là thay đổi thôi. Sở hữu mất tính chất giai cấp của nó.<br />Bây giờ chúng ta nói đến lao động làm thuê.<br />Giá cả trung bình của lao động làm thuê là số tiền công tối thiểu, nghĩa là tổng số tư liệu sinh hoạt cần thiết cho công nhân duy trì đời sống với tính cách là công nhân. Cho nên cái mà người công nhân làm thuê chiếm hữu được bằng hoạt động của mình cũng chỉ vừa đủ để tái xuất ra đời sống mà thôi. Chúng tôi tuyệt không muốn xoá bỏ sự chiếm hữu cá nhân ấy về những sản phẩm của lao động, cần thiết để tái xuất ra đời sống, vì sự chiếm hữu ấy không đẻ ra một khoản dư nào có thể đem lại một quyền lực chi phối lao động của người khác. Điều chúng tôi muốn, là xoá bỏ tính chất bi thảm của các phương thức chiếm hữu nó khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chừng mực mà những lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi.<br />Trong xã hội tư sản, lao động sống chỉ là một phương tiện để tăng thêm lao động tích luỹ. Trong xã hội cộng sản, lao động tích luỹ chỉ là một phương tiện để mở rộng, làm phong phú hoặc làm giảm nhẹ cho quá trình sống của những người lao động.<br />Như vậy, trong xã hội tư sản, quá khứ chi phối hiện tại; còn trong xã hội cộng sản thì chính hiện tại chi phối quá khứ. Trong xã hội tư sản, tư bản có tính độc lập và cá tính, còn cá nhân người lao động lại mất tính độc lập và cá tính.<br />Và chính việc xoá bỏ những quan hệ như thế, là việc mà giai cấp tư sản cho là xoá bỏ cá tính và tự do! mà cũng có lý đấy. Vì quả thật vấn đề là phải xoá bỏ cá tính tư sản, tính độc lập tư sản và tự do tư sản.<br />Trong khuôn khổ những quan hệ sản xuất tư sản hiện tại thì tự do có nghĩa là tự do buôn bán, tự do mua và bán.<br />Nhưng nếu buôn bán không còn thì buôn bán tự do cũng không còn nữa. Vả lại, tất cả những luận điệu về tự do buôn bán, cũng như tất cả các lời nói khoa trương khác của các nhà tư sản của chúng ta nói về tự do, nói chung chỉ có ý nghĩa, khi đem đối chiếu với việc buôn bán bị cản trở, với những người thị dân bị nô dịch ở thời trung cổ mà thôi; Những luận điệu và lời nói đó không còn ý nghĩa gì nữa, khi vấn đề đặt ra là chủ nghĩa cộng sản phải xoá bỏ buôn bán, xoá bỏ những quan hệ sản xuất tư sản và xoá bỏ ngay cả giai cấp tư sản nữa.<br />Các ông hoảng lên, vì chúng tôi muốn xoá bỏ chế độ tư hữu. Nhưng trong xã hội hiện nay của các ông, chế độ tư hữu đã bị xoá bỏ đối với chín phần mười số thành viên của xã hội đó rồi; chính vì nó không tồn tại đối với số chín phần mười ấy, nên nó mới tồn tại được. Như vậy, các ông trách chúng tôi là muốn xoá bỏ một hình thức sở hữu chỉ có thể tồn tại với điều kiện tất yếu là tuyệt đại đa số bị tước mất hết mọi sở hữu.<br />Nói tóm loại, ông buộc tội chúng tôi là muốn xoá bỏ sở hữu riêng của các ông. Quả thật, đó chính là điều chúng tôi muốn.<br />Khi mà lao động không còn có thể biến thành tư bản, thành tiền bạc, thành địa tô, tóm lại, thành quyền lực xã hội có thể biến thành độc quyền được, nói tóm lại, khi mà sở hữu cá nhân không còn có thể biến thành sở hữu tư sản được nữa thì lúc đó, thì các ông tuyên bố rằng cá nhân bị thủ tiêu.<br />Như vậy là các ông thú nhận rằng khi các ông nói đến cá nhân, là các ông chỉ muốn nói đến người tư sản, người tư hữu tư sản mà thôi. Mà cái cá nhân ấy thì chắc chắn cần phải thủ tiêu đi.<br />Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng đang chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác.<br />Người ta còn phản đối lại rằng xoá bỏ chế độ tư hữu thì mọi hoạt động sẽ ngừng lại, thì bệnh lười biếng sẽ phổ biến sẽ ngự trị.<br />Nếu quả như vậy thì xã hội tư sản phải sụp đổ từ lâu rồi do tình trạng lười biếng, vì trong xã hội ấy, những người lao động thì không được hưởng, mà những kẻ được hưởng lại không lao động. Tất cả sự lo ngại chung quy chỉ là luận điệu trùng phức cho rằng không còn tư bản thì cũng không còn lao động làm thuê nữa.<br />Tất cả những lời phản đối nhằm chống lại phương thức cộng sản chủ nghĩa của sự sản xuất và chiếm hữu những sản phẩm vật chất được tung ra, cũng nhằm chống lại sự sản xuất và chiếm hữu những sản phẩm tinh thần. Nếu đối với người tư sản, sở hữu giai cấp bị thủ tiêu có nghĩa là chính sản xuất cũng bị thủ tiêu, thì đối với họ, văn hoá giai cấp bị thủ tiêu, cũng có nghĩa là văn hoá nói chung bị mất đi.<br />Cái văn hoá mà người tư sản than tiếc là bị tiêu diệt đi đó, thì đối với đại đa số, chỉ là việc biến họ thành vật phụ thuộc vào máy móc mà thôi.<br />Nếu các ông lấy những quan điểm tư sản của các ông về tự do, về văn hoá, về luật pháp,... làm tiêu chuẩn để xét việc xoá bỏ sở hữu tư sản thì chẳng cần phải tranh cãi với chúng tôi làm gì. Chính những tư tưởng của các ông là sản phẩm của những quan hệ sản xuất và sở hữu tư sản, cũng như pháp quyền của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định.<br />Cái quan niệm thiên vị khiến các ông biến những quan hệ sản xuất và quan hệ sở hữu của các ông từ quan hệ lịch sử, mang tính chất nhất thời trong quá trình phát triển của sản xuất thành những quy luật vĩnh cửu của tự nhiên và lý trí, - quan niệm ấy, các ông cũng tán đồng với tất cả các giai cấp thống trị trước đây và hiện không còn nữa. Điều mà các ông nhận thức được đối với sở hữu thời cổ đại hay sở hữu phong kiến thì đối với sở hữu tư sản, các ông lại không giám nhận thức nữa.<br />Xoá bỏ gia đình! Ngay cả những người cấp tiến cực đoan nhất cũng phẫn nộ về cái ý định xấu xa ấy của những người cộng sản.<br />Gia đình tư sản hiện nay dựa trên cơ sở nào? Dựa trên tư bản, trên lợi nhuận cá nhân. Gia đình dưới hình thái hoàn toàn phát triển của nó, chỉ tồn tại đối với giai cấp tư sản thôi, nhưng nó lại kèm theo sự bắt buộc phải thủ tiêu mọi gia đình đối với người vô sản và kèm theo nạn mãi dâm công khai.<br />Gia đình tư sản dĩ nhiên là sẽ tiêu tan cùng với cái vật bổ sung đó của nó, và cả hai cái đó đều mất đi cùng với sự tan biến của tư bản .<br />Các ông trách chúng tôi muốn xoá bỏ hiện tượng cha mẹ bóc lột con cái chăng? tội ấy, chúng tôi xin nhận.<br />Nhưng các ông lại bảo rằng chúng tôi muốn thủ tiêu những mối quan hệ thân thiết nhất đối với con người, bằng cách đem giáo dục xã hội thay thế cho các giáo dục gia đình.<br />Thế nền giáo dục của các ông, chẳng phải cũng do xã hội quyết định đó sao? chẳng phải do những quan hệ xã hội trong xác ông nuôi dạy con cái các ông, do sự can thiệp trực tiếp hay gián tiếp của xã hội thông qua nhà trường,... quyết định gì? Người cộng sản không bịa đặt ra tác động xã hội đối với giáo dục, họ không chỉ thay đổi tính chất của sự giáo dục ấy và kéo giáo dục ra khỏi ảnh hưởng của giai cấp thống trị mà thôi.<br />Đại công nghiệp phát triển càng phá huỷ mọi mối quan hệ gia đình trong giai cấp vô sản và càng biến trẻ em thành những món hàng mua bán, những công cụ lao động đơn thuần, thì những lời huênh hoang của giai cấp tư sản về gia đình và giáo dục, về những mối quan hệ thân thiết gắn bó con cái với cha mẹ, lại càng trở nên ghê tởm.<br />Nhưng bọn cộng sản các anh, muốn thực hành chế độ cộng thê, toàn thể giai cấp tư sản đồng thanh tru tréo lên như vậy.<br />Đối với người tư sản, vợ hắn chẳng qua chỉ là một công cụ sản xuất. Cho nên nghe nói công cụ sản xuất phải được đem dùng chung thì tất nhiên là hắn kết luận rằng chính đàn bà rồi cũng phải chịu cái số phận chung là bị xã hội hoá.<br />Thậm chí hắn không ngờ rằng vấn đề ở đây, chính là kéo đàn bà ra khỏi vai trò hiện nay của họ là một công cụ sản xuất đơn thuần.<br />Vả lại, không có gì lố bịch bằng ghê sợ quá đạo đức của những nhà tư sản với cái gọi là cộng thê chính thức do những người cộng sản chủ trương. Những người cộng sản không cần phải áp dụng chế độ cộng thê, chế độ ấy hầu như đã luôn luôn tồn tại.<br />Các ngài tư sản của chúng ta chưa thoả mãn là đã sẵn có vợ và con gái của vô sản để dùng, đó là chưa kể chế độ mãi dâm công khai, các ngài ấy còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm một thú vui đặc biệt.<br />Hôn nhân của giai cấp tư sản thật ra là chế độ cộng thê. Có chăng người ta chỉ có thể buộc tội những người cộng sản là họ tuồng như muốn đem một chế độ cộng thê công khai và chính thức thay cho chế độ cộng thê được che đậy một cách giả nhân giả nghĩa mà thôi. Nhưng với sự xoá bỏ những quan hệ sản xuất hiện tại thì dĩ nhiên là chế độ cộng thê do những quan hệ sản xuất ấy đẻ ra, tức là chế độ mãi dâm chính thức và không chính thức, cũng sẽ biến mất.<br />Ngoài ra, người ta còn buộc tội những người cộng sản là muốn xoả bỏ tổ quốc, xoá bỏ dân tộc.<br />Công nhân không có tổ quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc[9], phải tự mình giành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu.<br />Với sự phát triển của giai cấp tư sản, tự do buôn bán, thị trường thế giới sự đồng đều của sản xuất công nghiệp và những điều kiện sinh hoạt thích ứng với nền sản xuất ấy thì những sự cách biệt dân tộc và những sự đối lập giữa nhân dân các nước cũng ngày càng mất đi.<br />Sự thống trị của giai cấp vô sản sẽ càng làm cho những sự cách biệt và những sự đối lập mất đi nhanh hơn. Hành động chung của giai cấp vô sản, ít ra là ở những nước văn minh, là một trong những điều kiện đầu tiên cho sự giải phóng của họ.<br />Hãy xoá bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ.<br />Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo.<br />Còn những lời buộc tội chủ nghĩa cộng sản, xuất phát từ những quan điểm tôn giáo, triết học và nói chung là xuất phát từ những quan điểm tư tưởng thì không đáng phải xét kỹ.<br />Liệu có cần phải sáng suốt lắm thì mới hiểu những tư tưởng, những qua điểm và những khái niệm của con người, tóm lại là ý thức của con người, đều thay đổi cùng với mọi sự thay đổi xảy ra trong điều kiện sinh hoạt, trong quan hệ xã hội, trong đời sống xã hội của con người không?<br />Lịch sử tư tưởng chứng minh cái gì, nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất? Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị.<br />Khi người ta nói đến những tư tưởng đang cách mạng hoá cả một xã hội thì như thế là người ta chỉ nêu ra sự thật này là trong lòng xã hội cũ, những yếu tố của một xã hội mới đã hình thành là sự tan rã của những tư tưởng cũng đi đôi với sự tan rã của những điều kiện sinh hoạt cũ.<br />Khi thế giới cổ đại đang suy tàn thì những tôn giáo cũ bị đạo Cơ Đốc đánh bại. Vào thế kỷ XVIII, khi tư tưởng của đạo Cơ Đốc nhường chỗ cho những tư tưởng tiến bộ thì xã hội phong kiến đang giao chiến trận cuối cùng với giai cấp tư sản, lúc bấy giờ là giai cấp cách mạng. Những tư tưởng về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo chẳng qua chỉ nói lên thời kỳ thống trị của cạnh trạnh trong tự do lĩnh vực tri thức mà thôi.<br />Có người sẽ nói:"Cố nhiên là những quan niệm tôn giáo, đạo đức, triết học, chính trị, pháp quyền,... đã biến đổi trong tiến trình phát triển lịch sử. Nhưng tôn giáo, đạo đức, triết học, chính trị, pháp quyền, vẫn luôn luôn được bảo tồn qua những biến đổi không ngừng ấy.<br />Vả lại, còn có những chân lý vĩnh cửu như tự do, công lý,... là những cái chung cho tất cả mọi chế độ xã hội. Thế mà chủ nghĩa cộng sản lại xoá bỏ những chân lý vĩnh cửu, xoá bỏ tôn giáo và đạo đức chứ không đổi mới hình thức của tôn giáo và đạo đức; làm như thế là nó mâu thuẫn với toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử trước kia".<br />Lời buộc tội ấy rút cục lại là gì? Lịch sử của toàn bộ các xã hội, từ trước đến nay, đều diễn ra trong những đối kháng giai cấp, những đối kháng mang hình thức khác nhau tuỳ từng thời đại.<br />Nhưng dù những đối kháng ấy mang hình thức nào đi nữa thì hiện tượng một bộ phận này của xã hội bóc lột một bộ phận khác cũng vẫn là hiện tượng chung cho tất cả các thế kỷ trước kia. Vậy không có gì ngạc nhiên khi thấy rằng ý thức xã hội của mọi thế kỷ, mặc dù có muôn màu muôn vẻ và hết sức khác nhau, vẫn vận động trong một hình thức nào đó, trong những hình thức ý thức chỉ hoàn toàn tiêu tan khi hoàn toàn không còn có đối kháng giữa giai cấp nữa.<br />Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ.<br />Nhưng hãy gác lại những lời giai cấp tư sản phản đối chủ nghĩa cộng sản.<br />Như chúng ta đã thấy trên kia, bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ.<br />Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất.<br />Cố nhiên, điều đó lúc đầu chỉ có thể thực hiện bằng cách xâm phạm một cách chuyên chế vào sở hữu và những quan hệ sản xuất tư sản, nghĩa là bằng những biện pháp, mà về mặt kinh tế thì hình như không được đầy đủ và không có hiệu lực, nhưng trong tiến trình vận động, những biện pháp ấy sẽ vượt quá bản thân chúng[10] và là thủ đoạn không thể thiếu để đảo lộn toàn bộ phương thức sản xuất.<br />Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều.<br />Nhưng đối với những nước tiên tiến nhất thì những biện pháp sau đây sẽ có thể áp dụng khá phổ biến:<br />1. Tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước.<br />2. áp dụng thuế luỹ tiến cao.<br />3. Xoá bỏ quyền thừa kế<br />4. Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ phiến loạn<br />5. Tập trung tín dụng vào tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà nước và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn.<br />6. Tập trung tất cả các phương tiện vận tải vào trong tay nhà nước.<br />7. Tăng thêm số công xưởng nhà nước và công cụ sản xuất; khai khẩn đất đai để cấy cầy và cải tạo ruộng đất trong một kế hoạch chung.<br />8. Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người, tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp.<br />9. Kết hợp nông nghiệp, thi hành những biện pháp nhằm làm mất dần sự khác biệt thành thị và nông thôn[11]<br />10. Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em. Xoá bỏ việc sử dụng trẻ em làm trong các khu công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất,...<br />Khi những đối kháng giai cấp đã mất đi trong tiến trình của sự phát triển và toàn bộ sản xuất đã tập trung trong tay những cá nhân đã liên hợp lại với nhau thì quyền lực công cộng cũng mất tính chất chính trị của nó. Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác. Nếu giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, nhất định phải tự tổ chức thành giai cấp, nếu giai cấp vô sản thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị và với tư cách là giai cấp thống trị, nó dùng bạo lực tiêu diệt những quan hệ sản xuất cũ, thì đồng thời với việc tiêu diệt những quan hệ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt những giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai cấp.<br />Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.<br />---------------<br /><b>Chú thích</b><br />[6] Trong bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 thay cho những chữ "những nguyên tắc riêng biệt" là những chữ "những nguyên tắc bè phái"<br />[7] Trong bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 thay cho những chữ "luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên" là những chữ "tiên tiến nhất"<br />[8] Trong bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 thay cho những chữ "những người này bóc lột những người kia" là những chữ "thiểu số bóc lột đa số".<br />[9] Trong bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 thay cho những chữ "tự vươn lên thành giai cấp dân tộc" là những chữ tự vươn lên thành giai cấp chủ đạo trong dân tộc".<br />[10] Trong bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 sau những chữ "vượt quá bản thân chúng" còn có thêm những chữ "khiến tất yếu phải tiến công thêm một bước vào chế độ xã hội cũ" <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><b><span style="font-family:"Times New Roman"; color:#003399">Phần III<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><b><span style="font-family:"Times New Roman"; color:#000066">Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ <st2:place st="on"><st1:sn st="on">nghĩa</st1:sn><span style="color:windowtext;font-weight:normal"><br /> </span><st1:sn st="on"><span style="color:windowtext">I.</span></st1:sn></st2:place><span style="color:windowtext"> Chủ nghĩa xã hội phản động<br /></span></span></b><i><span style="font-family:"Times New Roman"">A. Chủ nghĩa xã hội phong kiến</span></i><span style="font-family:"Times New Roman""><br />Do địa vị lịch sử của họ, quý tộc Pháp và Anh đã có sứ mệnh viết những bài văn châm biếm đả kích xã hội tư sản hiện đại. Trong cuộc Cách mạng Pháp hồi tháng 7 năm 1830, trong phong trào cải cách ở Anh, các giai cấp quý tộc ấy, một lần nữa, lại ngã gục dưới những đòn đả kích của những kẻ bạo phát đáng ghét. Đối với quý tộc thì không thể còn có vấn đề đấu tranh chính trị thật sự được nữa, họ chỉ có cách đấu tranh bằng văn học mà thôi. Nhưng ngay cả trong lĩnh vực văn học cũng không thể dùng cái luận điệu cũ rích của thời kỳ phục tích[12] được nữa. Muốn gây được thiện cảm, quý tộc làm ra vẻ không nghĩ đến lợi ích riêng của mình và lập bản cáo trạng lên án giai cấp tư sản, chỉ là vì lợi ích của giai cấp công nhân bị bóc lột mà thôi. Làm như thế, họ tự giành cho họ cái điều vui thú làm vè chế diễu người chủ mới của họ và ri rỉ bên tai người này những lời tiên tri không tốt lành này khác.<br />Chủ nghĩa xã hội phong kiến đã ra đời như thế đó là một mớ hỗn hợp những lời ai oán với những lời mỉa mai dư âm của dĩ vãng và tiếng đe doạ cuả tương lai. Tuy đôi khi lời công kích chua chát sâu cay hóm hỉnh của nó đập đúng vào tim gan của giai cấp tư sản, nhưng việc nó hoàn toàn bất lực không thể hiểu được tiến trình của lịch sử hiện đại, luôn luôn làm cho người ta cảm thấy buồn cười.<br />Các ngài quý tộc đã giương cái bị ăn mày của kẻ vô sản lên làm cờ để lôi kéo nhân dân theo họ, nhưng nhân dân vừa chạy lại thì trông thấy ngay những phù hiệu phong kiến cũ đeo sau lưng họ, thế là nhân dân liền tản đi và phá lên cười một cách khinh bỉ.<br />Một bộ phận của phái chính thống Pháp và phái " Nước Anh trẻ " đã diễn tấn hài kịch ấy.<br />Khi những người bênh vực chế độ phong kiến chứng minh rằng phương thức bóc lột phong kiến không giống phương thức bóc lột của giai cấp tư sản thì họ chỉ quên có một điều là chế độ phong kiến bóc lột trong hoàn cảnh và những điều kiện khác hẳn và hiện đã lỗi thời. Khi họ vạch ra rằng dưới chế độ phong kiến, không có giai cấp vô sản hiện đại thì họ chỉ quên có một điều là giai cấp tư sản chính là một sản phẩm tất nhiên của chế độ xã hội của họ.<br />Vả lại, họ rất ít che đậy tính chất phản động của những lời chỉ chích của họ, cho nên lời lẽ chủ yếu mà họ dùng để buộc tội giai cấp tư sản thì chính là cho rằng dưới sự thống trị của nó, giai cấp tư sản đảm bảo sự phát triển cho một giai cấp sẽ làm nổ tung toàn bộ trật tự xã hội cũ.<br />Họ buộc tội giai cấp tư sản đã hy sinh ra một giai cấp vô sản cách mạng, nhiều hơn là buộc tội giai cấp đó đã sinh ra giai cấp vô sản nói chung.<br />Cho nên, trong hoạt động chính trị, họ tích cực tham gia vào tất cả những biện pháp bạo lực chống giai cấp công nhân. Và trong đời sống hàng ngày của họ, mặc dù những lời hoa mỹ trống rỗng của họ, họ vẫn không bỏ qua cơ hội để lượm lấy những quả táo bằng vàng[13] và đem lòng trung thành, tình yêu và danh dự mà đổi lấy việc buôn bán len, củ cải đường, và rượu mạnh.[14]<br />Cũng hệt như thầy tu và chúa phong kiến luôn luôn tay nắm tay cùng đi với nhau, chủ nghĩa xã hội thầy tu cũng đi sát cánh với chủ nghĩa xã hội phong kiến.<br />Không có gì dễ hơn là phủ lên chủ nghĩa khổ hạnh của đạo Cơ Đốc một lớp sơn chủ nghĩa xã hội, đạo Cơ Đốc chẳng phải đã cực lực phản đối chế độ tư hữu, hôn nhân và nhà nước đó sao? Và thay tất cả những cái đó, đạo Cơ Đốc chẳng phải đã tuyên truyền việc làm phúc và sự khổ hạnh, cuộc sống độc thân và chủ nghĩa cấm dục, cuộc sống tu hành và nhà thờ đó sao? Chủ nghĩa xã hội Cơ Đốc chẳng qua chỉ là thứ nước thánh mà thầy tu dùng để xức cho nỗi hờn giận của quý tộc mà thôi.<br /><i>B. Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản.<br /></i>Giai cấp quý tộc phong kiến không phải là giai cấp duy nhất đã bị giai cấp tư sản làm phá sản; nó không phải là giai cấp duy nhất có những điều kiện sinh hoạt đang tàn lụi và tiêu vong trong xã hội tư sản hiện đại. Những người thị dân và tiểu nông thời trung cổ là những tiền bối của giai cấp tư sản hiện đại. Trong những nước mà công nghiệp và thương nghiệp phát triển kém hơn, giai cấp đó tiếp tục sống lay lắt bên cạnh giai cấp tư sản thịnh vượng.<br />Trong những nước mà nền văn minh hiện đại đương phát triển thì đã hình thành một giai cấp tiểu tư sản mới, ngả nghiêng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; là bộ phận bổ sung của xã hội tư sản, nó cứ luôn luôn được hình thành trở lại; nhưng vì sự cạnh tranh, những cá nhân hợp thành giai cấp ấy cứ luôn luôn bị đẩy xuống hàng ngũ của giai cấp vô sản và hơn nữa là sự phát triển tiến lên của đại công nghiệp, họ thấy rằng đã gần như đến lúc họ sẽ hoàn toàn biến mất với tính cách và bộ phận độc lập của xã hội hiện đại, và trong thương nghiệp, trong công nghiệp và trong nông nghiệp, họ sẽ nhường chỗ cho những đốc công và nhân viên làm thuê.<br />Trong những nước như nước Pháp, ở đó nông dân chiếm quá nửa dân số thì tự nhiên đã xuất hiện những nhà văn đứng về giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, nhưng đã dùng cái thước đo tiểu tư sản và tiểu nông trong việc phê phán chế độ tư sản, và đã xuất phát từ những quan điểm tiểu tư sản mà bênh vực sự nghiệp của công nhân. Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản đã được hình thành như thế đó. Xi-xmôn-đi là lãnh tụ của thứ văn học đó, không những ở Pháp mà cả ở Anh nữa.<br />Chủ nghĩa xã hội ấy phân tích rất sâu sắc những mâu thuẫn gắn liền với những quan hệ sản xuất hiện đại. Nó vạch trần những lời ca tụng giả dối của những nhà kinh tế học. Nó chứng minh một cách không thể bác bỏ được những tác dụng phá hoại của nền sản xuất máy móc và của sự phân công lao động, sự tập trung tư bản và ruộng đất, sự sản xuất thừa, các cuộc khủng hoảng, sự sa sút không tránh được của những người tiểu tư sản và nông dân, sự cùng khổ của giai cấp vô sản, tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, tình trạng bất công khá rõ rệt trong sự phân phối của cải, chiến tranh công nghiệp có tính chất huỷ diệt giữa các dân tộc, sự tan rã của đạo đức cũ, của những quan hệ gia đình cũ, của những tính chất dân tộc cũ.<br />Nhưng xét về nội dung chân thực của nó, thì hoặc là chủ nghĩa xã hội này muốn khôi phục lại những tư liệu sản xuất và phương tiện trao đổi cũ, và cùng với những cái đó, cũng khôi phục lại cả những quan hệ sở hữu cũ và toàn xã hội cũ, hoặc là nó muốn biết những tư liệu sản xuất và những phương tiện trao đổi hiện đại phải khuôn theo cái khuôn khổ chật hẹp của những quan hệ sở hữu cũ, của những quan hệ đã bị và tất phải bị những công cụ ấy đập tan. Trong cả hai trường hợp, chủ nghĩa xã hội này vừa là phản động vừa là không tưởng.<br />Chế độ phường hội trong công nghiệp, chế độ gia trưởng trong nông nghiệp đó là cái đích tột cùng của nó.<br />Trong sự phát triển về sau của nó, trào lưu này đã biến thành những lời oán thán hèn nhát[15].<br /><i>C. Chủ nghĩa xã hội đức hay chủ nghĩa xã hội "chân chính"<br /></i>Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa của nước Pháp, sinh ra dưới áp lực của một giai cấp tư sản thống trị, biểu hiện văn học của sự phản kháng chống lại nền thống trị ấy, thì được đưa vào nước Đức giữa lúc giai cấp tư sản bắt đầu đấu tranh chống chế độ chuyên chế phong kiến.<br />Các nhà triết học, các nhà triết học nửa mùa và những kẻ tài hoa ở Đức hăm hở đổ xô vào thứ văn học ấy, những có điều họ quên rằng văn học Pháp được nhập khẩu vào Đức, song những điều kiện sinh hoạt của nước Pháp lại không đồng thời được đưa vào Đức. Đối với những điều kiện sinh hoạt ở Đức, văn học Pháp ấy, đã mất hết ý nghĩa thực tiễn trực tiếp và chỉ còn mang một tính chất thuần tuý văn chương mà thôi. Nó ắt phải có tính chất của một sự tự biện vô vị về sự hiện diện bản tính của con người. Chẳng hạn, đối với những nhà triết học Đức hồi thế kỷ XVIII, những yêu sách của cách mạng Pháp lần thứ nhất chỉ là những yêu sách của những "lý tính thực tiễn" nói chung; và theo con mắt của họ, những biểu hiện của ý chí của những người tư sản cách mạng Pháp chỉ biểu hiện những quy luật của ý chí thuần tuý, của ý chí đúng như nó phải tồn tại, của ý chí thật sự con người.<br />Công việc độc nhất của các nhà văn Đức là điều hoà những tư tưởng mới của Pháp với ý thức triết học của mình, hay nói cho đúng hơn, là lĩnh hội những tư tưởng của Pháp bằng cách xuất phát từ quan điểm triết học của mình.<br />Họ đã lĩnh hội những tư tưởng ấy như người ta lĩnh hội một thứ tiếng ngoại quốc thông qua phiên dịch.<br />Ai cũng biết bọn thầy tu đã đem những chuyện hoang đường vô lý về các thánh Thiên chúa giáo ghi đầy những bản thảo các tác phẩm cổ điển thời cổ dị giáo như thế nào. Đối với văn học Pháp không có tính chất tôn giáo thì các nhà văn học Đức đã làm ngược lại. Họ luồn những điều vô lý về triết học của họ vào trong nguyên bản Pháp. Thí dụ, trong đoạn phê phán của Pháp đối với quan hệ tiền bạc thì họ lồng vào đó những chữ: "sự tha hoá của nhân tính"; trong đoạn phê phán của Pháp đối với nhà nước tư sản thì họ lại lồng vào đó dòng chữ: "việc xoá bỏ sự thống trị của tính Phổ biến - Trừu tượng",v.v...<br />Việc thay thế triết học của Pháp bằng những lời lẽ triết học rỗng tuyếch ấy, họ gọi là "triết học của hành động"; là "chủ nghĩa xã hội chân chính", là "khoa học Đức về chủ nghĩa xã hội",v.v...<br />Như thế là văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa Pháp đã bị hoàn toàn cắt xén. Và vì trong tay người Đức, văn học ấy không còn là biểu hiện của cuộc đấu tranh của một giai cấp này chống một giai cấp khác nữa, cho nên họ lấy làm đắc ý là đã vượt lên trên "tính phiến diện của Pháp"; là đã bảo vệ không phải những nhu cầu thật sự, mà là nhu cầu về chân lý; không phải những lợi ích của người vô sản, mà là những lợi ích của bản tính con người, của con người nói chung, của con người không thuộc giai cấp nào, cũng không thuộc một thực tại nào, của con người chỉ tồn tại trong một bầu trời mây mù của ảo tưởng triết học mà thôi.<br />Chủ nghĩa xã hội Đức ấy coi trọng những trò luyện tập vụng về của học sinh của mình một cách hết sức trịnh trọng, và phô trương những trò ấy một cách om sòm kiểu bán thuốc rong, nhưng rồi cũng mất dần tính ngây thơ thông thái rởm của mình.<br />Cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản Đức và nhất là của giai cấp tư sản Phổ chống phong kiến và chế độ quân chủ chuyên chế, tóm lại là phong trào của phái tự do, ngày càng trở nên nghiêm túc hơn.<br />Thành thử chủ nghĩa xã hội "chân chính" đã được cơ hội mà nó mong mỏi từ lâu, để đem những yêu sách xã hội chủ nghĩa ra đối lập với phong trào chính trị. Nó đã có thể tung ra những lời nguyền rủa cổ truyền chống lại chủ nghĩa tự do, chế độ đại nghị, sự cạnh tranh tư sản, tự do báo chí tư sản, pháp quyền tư sản, tự do và bình đẳng tư sản; nó đã có thể tuyên truyền cho quần chúng rằng trong phong trào tư sản ấy, quần chúng không được gì cả, trái lại còn mất tất cả. Chủ nghĩa xã hội Đức đã quên rất đúng lúc rằng sự phê phán của Pháp, mà chủ nghĩa xã hội Đức là một tiếng vọng nhạt nhẽo, giả định là phải có xã hội tư sản hiện đại cùng với những điều kiện sinh hoạt vật chất tương ứng với xã hội đó và một cơ cấu chính trị thích hợp - tức là tất cả những tiền đề mà nước Đức chính là vẫn đang phải giành lấy.<br />Đối với nghững chính phủ chuyên chế ở Đức, cùng đám tuỳ tùng của chúng là những thầy tu, thầy giáo, bọn gioong-ke hủ lậu và quan lại thì chủ nghĩa xã hội này đã trở thành một thứ ngoáo ộp hằng ao ước để chống lại giai cấp tư sản đang là một mối lo đối với chúng.<br />Chủ nghĩa xã hội ấy đã đem cái lối giả nhân giả nghĩa đường mật của nó bổ xung cho roi vọt và súng đạn mà những chính phủ ấy đã dùng để chấn áp những cuộc khởi nghĩa của công nhân Đức.<br />Nếu chủ nghĩa xã hội "chân chính" do đó đã trở thành vũ khí trong tay các chính phủ để chống lại giai cấp tư sản Đức thì ngoài ra, nó lại còn trực tiếp đại biểu cho một lợi ích phản động, lợi ích của giai cấp tiểu tư sản Đức. Giai cấp những người tiểu tư sản, do thế kỷ XVI truyền lại và từ bấy tới nay, luôn luôn tái sinh dưới nhiều hình thức khác nhau, là cơ sở xã hội thật sự của chế độ đã thiết lập ở Đức.<br />Duy trì giai cấp ấy, là duy trì ở Đức chế độ hiện hành. Sự thống trị về công nghiệp và chính trị của giai cấp tư sản đang đe doạ đẩy giai cấp tiểu tư sản ấy đến nguy cơ chắc chắn phải suy sụp, một mặt do sự tập trung tư bản và mặt khác do sự xuất hiện giai cấp vô sản cách mạng. Đối với giai cấp tiểu tư sản, chủ nghĩa xã hội "chân chính" hình như có thể làm một công đôi việc.<br />Cho nên chủ nghĩa xã hội chân chính đã lan ra như một bệnh dịch.<br />Bọn xã hội chủ nghĩa Đức đã đem những tấm mạng nhện tự biện ra làm thành một cái áo rộng thùng thình thêu đầy những bông hoa từ chương mịn màng và thấm đầy những giọt sương tình cảm nóng hổi, rồi đem loại áo ấy khoác lên "những chân lý vĩnh cửu" gầy còm của họ, điều đó làm cho món hàng của họ càng được tiêu thụ mạnh trong đám khách hàng như vậy.<br />Còn về phần chủ nghĩa xã hội Đức thì nó dần dần hiểu rõ thêm rằng sứ mệnh của nó là làm đại diện khoa chương cho bọn tiểu tư sản ấy.<br />Nó tuyên bố rằng dân tộc Đức là một dân tộc mẫu mực và người phi-li-xtanh Đức là một con người mẫu mực. Tất cả những cái xấu xa của những người mẫu mực ấy được nó gán cho một ý nghĩa thần bí, một ý nghĩa cao cả và xã hội chủ nghĩa, khiến cho những cái ấy biến thành những cái ngược hẳn lại. Nhất quán một cách triệt để, nó phản đối xu hướng chủ nghĩa cộng sản muốn "Phá huỷ một cách tàn bạo", và tuyên bố rằng mình vô tư đứng ở trên tất cả mọi cuộc đấu tranh giai cấp. Trừ một số rất ít, còn thì tất cả những tác phẩm tự xưng là xã hội chủ nghĩa ấy hay cộng sản chủ nghĩa lưu hành ở Đức, đều thuộc vào loại văn học bẩn thỉu và làm suy yếu con người ấy[16].<br /><b>II. Chủ nghĩa xã hội bảo thủ hay chủ nghĩa xã hội tư sản</b><br />Một bộ phận giai cấp tư sản tìm cách chữa các căn bệnh xã hội, cốt để củng cố xã hội tư sản.<br />Trong hạng này, có những nhà kinh tế học, những nhà bác ái, những nhà nhân đạo chủ nghĩa, những người chăm lo cuộc cải thiện đời sống cho giai cấp lao động, tổ chức việc từ thiện, bảo vệ súc vật, lập ra những hội bài trừ nạn nghiện rượu, nói tóm lại là đủ loại những nhà cải lương hèn kém nhất. Và thậm chí người ta đã xây dựng chủ nghĩa xã hội tư sản này thành một hệ thống hoàn bị.<br />Lấy một ví dụ là quyển "Triết học về sự khốn cùng" của Pru-đông.<br />Những nhà xã hội chủ nghĩa tư sản muốn duy trì những điều kiện sinh hoạt của xã hội hiện đại, mà không có những cuộc đấu tranh và những mối nguy hiểm do những điều kiện sinh hoạt ấy nhất định phải sản sinh ra. Họ muốn duy trì xã hội hiện đại nhưng được đẩy trừ hết những yếu tố đảo lộn và làm tan rã nó. Họ muốn có giai cấp tư sản mà không có giai cấp vô sản. Giai cấp tư sản tất nhiên quan niệm cái thế giới mà nó đang thống trị là thế giới tốt đẹp hơn cả. Chủ nghĩa xã hội tư sản đem hệ thống hoá ít nhiều triệt để cái quan niệm an ủi lòng người ấy. Khi chủ nghĩa xã hội tư sản bắt giai cấp vô sản phải thực hiện những hệ thống ấy của nó và bước vào thành Giê-ru-da-lem mới, thì thực ra, nó chỉ kêu gọi giai cấp vô sản bám lấy xã hội hiện tại, nhưng phải bỏ hết quan niệm thù hằn của họ đối với xã hội ấy.<br />Một hình thức khác của chủ nghĩa xã hội, ít có hệ thống hơn, nhưng lại thực tiễn hơn, cố làm cho công nhân chán ghét mọi phong trào cách mạng, bằng cách chứng minh cho họ thấy rằng không phải sự cải biến chính trị này khác, mà chỉ có sự cải tiến về điều kiện sinh hoạt vật chất, về quan hệ kinh tế mới có thể có lợi cho công nhân mà thôi. Song nói sự cải biến điều kiện sinh hoạt vật chất, chủ nghĩa xã hội ấy không hề hiểu đó là sự xoá bỏ những quan hệ sản xuất tư sản, một sự xoá bỏ mà chỉ có cách mạng mới có thể làm nổi; nó chỉ hiểu đó là sự thực hiện những cải cách về hành chính ngay trên cơ sở những quan hệ sản xuất tư sản, những cải cách do đó không làm thay đổi chút nào những quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê nhiều lắm thì cũng chỉ làm cho giai cấp tư sản giảm được những chi phí cho việc thống trị của nó làm cho ngân sách nhà nước được nhẹ gánh mà thôi.<br />Chủ nghĩa xã hội tư sản chỉ đạt được biểu hiện thích đáng của nó, khi nó trở thành một lối nói từ chương đơn thuần.<br />Mậu dịch tự do, vì lợi ích của giai cấp công nhân! thuế quan bảo hộ, vì lợi ích của giai cấp công nhân! nhà tù xà lim, vì lợi ích của giai cấp công nhân! đó là cái đích tột cùng của chủ nghĩa xã hội xã hội tư sản, điều duy nhất mà Nó nói ra một cách nghiêm túc.<br />Vì chủ nghĩa xã hội tư sản nằm gọn trong lời khẳng định này: sở dĩ những người tư sản là những người tư sản, đó là vì lợi ích của giai cấp công nhân.<br />III. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không tưởng - phê phán<br />Đây không phải là nói đến một loại văn học đã đề ra, trong tất cả các cuộc cách mạng hiện đại, những yêu sách của giai cấp vô sản (tác phẩm của Ba-bớp...).<br />Những mưu đồ trực tiếp đầu tiên của giai cấp vô sản để thực hiện những lợi ích giai cấp của chính mình, tiến hành trong thời kỳ sôi sục khắp nơi, trong thời kỳ lật đổ xã hội phong kiến, thì nhất định phải thất bại, vì bản thân giai cấp vô sản đang ở trong tình trạng manh nha, cũng như vì họ không có những điều kiện vật chất để tự giải phóng, những điều kiện mà chỉ có thời đại tư sản mới sản sinh ra thôi. Văn học cách mạng đi kèm theo những phong trào đầu tiên ấy của giai cấp vô sản, không thể không có một nội dung phản động. Nó tuyên truyền chủ nghĩa khổ hạnh phổ biến và chủ nghĩa bình quân thô thiển.<br />Những hệ thống xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chính tông, những hệ thống của Xanh-Xi-Mông, của Phu-ri-ê, của ô-oen,v.v..., đều xuất hiện trong thời kỳ đầu, chưa phát triển của cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, tức là thời kỳ đã được mô tả ở trên (xem mục "Tư sản và vô sản").<br />Những người phát sinh ra những hệ thống ấy, thực ra, đều thấy rõ sự đối kháng giữa các giai cấp, cũng như thấy rõ tác dụng của những yếu tố phá hoại nằm ngay trong bản thân xã hội thống trị. Song những người đó lại không thấy những điều kiện vật chất cần cho sự giải phóng của giai cấp vô sản, và cứ đi tìm một khoa học xã hội, những quy luật xã hội, nhằm mục đích tạo ra những điều kiện ấy.<br />Họ lấy tài ba cá nhân của họ để thay thế cho hoạt động xã hội, lấy những điều kiện tưởng tượng thay thế cho những điều kiện lịch sử của sự giải phóng; đem một tổ chức xã hội do bản thân họ hoàn toàn tạo ra, thay thế cho sự tổ chức một cách tuần tự và tự phát giai cấp vô sản thành giai cấp. Đối với họ, tương lai của thế giới sẽ được giải quyết bằng cách tuyên truyền và thực hành những kế hoạch tổ chức xã hội của họ.<br />Tuy nhiên, trong khi đặt ra những kế hoạch ấy, họ cũng có ý thức bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân trước hết, vì giai cấp công nhân là giai cấp đau khổ nhất. Đối với họ, giai cấp vô sản chỉ tồn tại với tư cách là giai cấp đau khổ nhất.<br />Nhưng hình thức chưa phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp, cũng như địa vị xã hội của bản thân họ, làm cho họ tự coi là đứng hẳn ở trên mọi đối kháng giai cấp. Họ muốn cải thiện điều kiện sinh hoạt vật chất cho hết thảy mọi thành viên trong xã hội, kể cả những kẻ đã được hưởng những điều kiện tốt nhất. Cho nên họ luôn luôn kêu gọi toàn thể xã hội, không có phân biệt gì cả và thậm chí họ còn chủ yếu kêu gọi giai cấp thống trị nhiều hơn. Theo ý kiến của họ thì chỉ cần hiểu hệ thống của họ là có thể thừa nhận rằng đó là kế hoạch hay hơn hết trong tất cả mọi kế hoạch về một xã hội tốt đẹp hơn hết trong tất cả mọi xã hội.<br />Vì vậy, họ cự tuyệt mọi hành động chính trị và nhất là mọi hành động cách mạng, họ tìm cách đạt mục đích của họ bằng những phương pháp hoà bình, và thử mở một con đường đi tới một kinh Phúc âm xã hội mới bằng hiệu lực của sự nêu gương, bằng những thí nghiệm nhỏ, cố nhiên những thí nghiệm này luôn luôn thất bại.<br />Trong thời kỳ mà giai cấp vô sản còn ít phát triển, còn nhìn địa vị của bản thân mình một cách cũng ảo tưởng, thì bức tranh ảo tưởng về xã hội tương lai là phù hợp với những nguyện vọng bản năng đầu tiên của công nhân muốn hoàn toàn cải biến xã hội.<br />Nhưng trong những trước tác xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đó cũng có những yếu tố phê phán. Những trước tác ấy đả kích toàn bộ cơ sở của xã hội đương thời. Do đó, chúng đã cung cấp được những tài liệu rất có giá trị để soi sáng ý thức của công nhân. Những đề nghị tích cực của những trước tác ấy về xã hội tương lại, chẳng hạn, việc thủ tiêu sự đối kháng giữa thành thị và nông thôn[17], xoá bỏ gia đình, xoá bỏ sự thu lợi nhuận cá nhân và lao động làm thuê, tuyên bố sự hoà hợp xã hội và sự cải tạo nhà nước thành một cơ quan đơn thuần quản lý sản xuất, tất cả những luận điểm ấy chỉ mới báo trước rằng đối kháng giai cấp tất phải mất đi, nhưng đối kháng giai cấp này chỉ mới bắt đầu xuất hiện, và những nhà sáng lập ra các học thuyết cũng chỉ mới biết những hình thức đầu tiên không rõ rệt và lờ mờ của nó thôi. Cho nên, những luận điểm ấy chỉ mới có một ý nghĩa hoàn toàn không tưởng mà thôi.<br />ý nghĩa của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không tưởng - phê phán là theo tỷ lệ nghịch với sự phát triển lịch sử. Đấu tranh giai cấp càng gay gắt và càng có hình thức xác định thì cái ý định ảo tưởng muốn đứng lên trên cuộc đấu tranh giai cấp, cái thái độ đối lập một cách ảo tưởng với đấu tranh giai cấp ấy, càng mất hết mọi giá trị thực tiễn, mọi căn cứ lý luận của chúng. Cho nên, nếu như về nhiều phương diện, các nhà sáng lập ra những học thuyết ấy là những nhà cách mạng thì những tôn phái do môn đồ của họ lập ra luôn luôn là phản động, vì những môn đồ ấy khăng khăng giữ lấy những quan niệm đã cũ của các vị thầy của họ, bất chấp sự phát triển lịch sử của giai cấp vô sản. Vì vậy, họ tìm cách, và về điểm này thì họ là nhất quán, làm lu mờ đấu tranh giai cấp và cố điều hoà các đối kháng. Họ tiếp tục mơ ước thực hiện những thí nghiệm về những không tưởng xã hội của họ lập ra từng pha-lan-xte-rơ riêng biệt, tạo ra những ("Home-colonies"), xây dựng một xứ I-ca-ri nhỏ[18], tức là lập ra một Giê-ru-da-lem mới tí hon - và để xây dựng tất cả những lâu đài trên bãi cát ấy, họ tự thấy buộc phải kêu gọi đến lòng tốt và két bạc của các nhà tư sản bác ái. Dần dần họ rơi vào hạng những người xã hội chủ nghĩa phản động hay bảo thủ đã được miêu tả trên kia, và chỉ còn khác bọn này ở chỗ họ có một lối nói thông thái rởm có hệ thống hơn và tin một cách mê muội và cuồng nhiệt vào hiệu lực thần kỳ của khoa học xã hội của họ.<br />Vì vậy, họ kịch liệt phản đối mọi phong trào chính trị của công nhân, và theo họ thì một phong trào như thế chỉ có thể là do mù quáng thiếu tin tưởng vào kinh Phúc âm mới mà ra.<br />Phái ô-oen ở Anh thì chống lại phái Hiến chương, phái Phu-ri-ê ở Pháp thì chống lại phái cải cách<br />--------------<br /><b>Chú thích:</b><br />[12] Đây không phải là nói về thời kỳ Phục tích 1660-1689 ở Anh mà là thời kỳ Phục tích 1814-1830 ở Pháp (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Anh năm 1888)<br />[13] [...]<br />[14] [...]<br />[15] Trong bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 thay cho câu: "Trong sự phát triển về sau của nó, trào lưu này đã biến thành những lời oán thân hèn nhát" là câu "Cuối cùng, khi những sự kiện lịch sử không thể bác bỏ đã làm tiêu tan tác dụng an ủi của ảo tưởng thì chủ nghĩa xã hội này đã biến thành những lời oán thân thảm thương"<br />[16] Cơn bão cách mạng năm 1848 đã quét sạch hết cả cái trào lu thảm hại ấy và đã làm cho những môn đồ của trào lưu này mất hết hứng thú đầu cơ chủ nghĩa xã hội một lần nữa. Người đại biểu chính và điển hình tiêu biểu nhất của trào lưu này là ngài Các Grun. (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1890)<br />[17] Trong bản tiếng Anh xuấtư bản năm 1888 đoạn này được diễn đạt nh sau: "Những biện pháp thực tế mà họ đề ra, chẳng hạn như thủ tiêu sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn.<br />[18] Pha-lan-xte-rơ là tên gọi những khu di dân xã hội chủ nghĩa mà Sác-lơ Phu-ri-ê hoạch định ra. Ca-bê dùng tên gọi I-ca-ri để gọi đất nước không tưởng của ông và về sau thì dùng để gọi khu di dân cộng sản chủ nghĩa của ông ở Mỹ. (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuấtư bản bằng tiếng Anh năm 1888)<br />Home-colonies (khu di dân trong nước) là tên gọi mà ô-oen dùng để đặt cho những xã hội cộng sản chủ nghĩa kiểu mẫu của ông. Pha-lan-xte-rơ là những lâu đài xã hội do Phu-ri-ê hoạch định ra. I-ca-ri là tên gọi cái đất nước tưởng tợng mà Ca-bê mô tả khi nói đến những tổ chức cộng sản chủ nghĩa trong đất nước ấy. (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1890 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><b><span style="font-family:"Times New Roman"; color:#000066">Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập</span></b><span style="font-family:"Times New Roman""><br />Căn cứ theo những điều mà chúng tôi đã nói ở chương II thì thái độ của những người cộng sản đối với những đảng công nhân đã được thành lập và do đấy, thái độ của họ đối với phái Hiến chương ở Anh và phái cải cách ruộng đất ở Bắc Mỹ, tự nó cũng đã rõ rồi.<br />Những người cộng sản chiến đấu cho những mục đích và những lợi ích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào. Ở Pháp, những người cộng sản liên hợp với Đảng dân chủ - xã hội chủ nghĩa[19] chống giai cấp tư sản bảo thủ và cấp tiến, đồng thời vẫn dành cho mình cái quyền phê phán những lời nói suông và những ảo tưởng do truyền thống cách mạng để lại.<br />Ở Thuỵ sĩ, họ ủng hộ phái cấp tiến, nhưng không phải không biết rằng đảng này gồm những phần tử mâu thuẫn nhau, một nửa là những người dân chủ xã hội chủ nghĩa theo kiểu Pháp, và một nửa là những người tư sản cấp tiến.<br />Ở Ba Lan, những người cộng sản ủng hộ chính đảng đã coi cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc, nghĩa là chính đảng đã làm cuộc khởi nghĩa Cra-cốp năm 1846.<br />Ở Đức, Đảng cộng sản đấu tranh chung với giai cấp tư sản mỗi khi giai cấp này hành động cách mạng chống chế độ quân chủ chuyên chế, chống chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến và giai cấp tiểu tư sản phản động.<br />Nhưng không một phút nào Đảng cộng sản lại quên giáo dục cho công nhân một ý thức hết sức sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, để khi có thời cơ thì công nhân Đức biết sử dụng những điều kiện chính trị và xã hội do sự thống trị của giai cấp tư sản tạo ra, như là vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để ngay sau khi đánh đổ xong những giai cấp phản động ở Đức, là có thể tiến hành đấu tranh chống lại chính ngay giai cấp tư sản.<br />Những người cộng sản chú ý nhiều nhất đến nước Đức, vì nước Đức hiện đương ở vào đêm trước của một cuộc cách mạng tư sản, vì nước Đức sẽ thực hiện cuộc cách mạng ấy trong những điều kiện tiến bộ hơn của nền văn minh châu âu nói chung và với một giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ hơn nhiều so với nước Anh trong thế kỷ XVII và nước Pháp trong thế kỷ XVIII. Và do đấy, cách mạng tư sản Đức chỉ có thể là màn đầu trực tiếp cho một cuộc cách mạng vô sản.<br />Tóm lại, ở tất cả mọi nơi, những người cộng sản đều ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành.<br />Trong tất cả phong trào ấy, họ đều đưa vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào, không kể là nó đã có thể phát triển đến trình độ nào.<br />Sau hết, những người cộng sản ở mọi nơi đều phấn đấu cho sự đoàn kết và sự liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước.<br />Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc Cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới.<br /><b>Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!</b><br />--------<br /><b>Chú thích</b><br />[19] Lúc đó, đại biểu cho đảng này, ở trong nghị viện là Lơ-đruy-Rô-lanh; đại biểu cho đảng này trong văn học là Lu-i-Blăng và trong báo chí hàng ngày là tờ "Réforme". Họ dùng cái tên dân chủ - xã hội chủ nghĩa, cái tên mà họ nghĩ ra, để gọi bộ phận ít nhiều có màu sắc xã hội chủ nghĩa trong đảng dân chủ hay cộng hoà. (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Anh năm 1888)<br />Cái đảng lúc đó, ở Pháp, tự gọi là Đảng dân chủ - xã hội chủ nghĩa, có đại biểu chính trị của nó là Lơ-đruy-Rô-lanh và đại biểu văn học của nó là Lu-i-Blăng, vậy là đảng này còn cách xa một trời một vực với Đảng dân chủ - xã hội ngày nay ở Đức. (Chú thích của Ăng-ghen cho lần xuất bản bằng tiếng Đức năm 1890)<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><span style="font-family:"Times New Roman"">viết: 1848<o:p></o:p></span></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-19491717641635276312011-04-20T08:00:00.000-07:002011-04-20T08:01:28.540-07:00KINH NGHIEM LAM BAI THI DAI HOC MON LICH SU<p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:13.0pt;font-family: "Times New Roman";color:#474B4E">LÀM BÀI THI SỬ NHƯ THẾ NÀO?<br /> <!--[if !supportLineBreakNewLine]--><br /> <!--[endif]--><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:13.0pt;font-family:"Times New Roman";color:#474B4E"><br /><span style="mso-tab-count:1"> </span>Đề thi môn Lịch sử khối C của các kỳ tuyển sinh đại học trong những năm qua thường có độ “phân hóa” cao, góp phần quyết định vấn đề “đậu” “rớt” của thí sinh. Vì vậy, điều mà nhiều thí sinh rất quan tâm là cách làm một bài thi Sử để đạt được điểm cao và đâu là những kỹ năng mà thí sinh cần nắm vững?<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:13.0pt;font-family:"Times New Roman";color:#474B4E"><br /><span style="mso-tab-count:1"> </span>Yêu cầu có tính bản chất nhất của một đề thi tự luận môn Lịch sử là đòi hỏi thí sinh phải nắm vững những kiến thức cơ bản trong chương trình và khả năng vận dụng những kiến thức ấy vào việc giải quyết, phân tích, chứng minh một vấn đề lịch sử. Nói đơn giản hơn, thí sinh phải vừa thuộc bài vừa hiểu sâu bài học. Những năm gần đây đề thi Sử thường được hỏi dưới dạng nhiều câu hỏi khác nhau (3-4 câu), nội dung các câu hỏi cố gắng bao phủ hết các giai đoạn lịch sử khác nhau trong chương trình thi, nhất là phần Lịch sử Việt Nam (chiếm khoảng 70-80% yêu cầu đề thi). Đề thi vừa có những câu “nặng về thuộc bài”, có những câu “nặng về hiểu bài”, tức là đòi hỏi thí sinh phải biết phân tích, tổng hợp; có những câu hỏi chỉ đề cập đến một phần, một vấn đề nhỏ trong một bài học cụ thể, lại có những câu liên quan đến nhiều bài học khác nhau, liên quan đến cả một giai đoạn lịch sử dài, thậm chí nhiều giai đoạn lịch sử. Điều rất quan trọng cần rút ra ở đây là nếu thí sinh “học tủ” thì chắc chắn không bao giờ có thể làm bài tốt được, cùng lắm cũng chỉ đáp ứng được một câu hỏi mà thôi.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:13.0pt;font-family:"Times New Roman";color:#474B4E"><span style="mso-tab-count:1"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:13.0pt;font-family:"Times New Roman";color:#474B4E"><span style="mso-tab-count:1"> </span>Điều cực kỳ quan trọng đầu tiên khi làm bài là thí sinh phải đọc kỹ đề thi để hiểu đề thi một cách chính xác nhất. Hiểu đề thi là thế nào? Hiểu đề thi là biết rõ hai điều: một là, đề thi ấy (câu hỏi thi) đề cập đến vấn đề gì và vấn đề đó liên quan đến bài học nào, phần nào của bài học (xác định đúng “địa chỉ” cần đến); hai là, để trả lời đề thi (câu hỏi thi) ấy cần những ý lớn(luận điểm) nào và thứ tự của chúng ra sao. Chỉ khi nào thí sinh thực sự giải đáp đúng được hai câu hỏi đó thì mới hiểu đề thi một cách chính xác. Nếu không biết điều thứ nhất sẽ dẫn đến chỗ lạc đề và điều này là rất xấu khi làm một đề tự luận; lạc đề câu nào thì cầm chắc điểm không cho câu đó! Đối với những câu hỏi kho ù(khó vì không xác định được điều thứ nhất), kinh nghiệm chấm thi đại học những năm qua cho thấy số thí sinh bị điểm không câu đó thường không ít hơn 50%. Để có thể nhận biết được điều thứ nhất, khi học tập học sinh phải đào sâu suy nghĩ, trao đổi với thầy với bạn,…nhằm mục đích hiểu rõ những những điểm then chốt như: hiểu sâu tất cả những khái niệm, phạm trù được sử dụng trong sách giáo khoa; biết một vấn đề lịch sử có thể được hỏi bằng nhiều cách khác nhau (ví dụ, thay vì hỏi “ý nghĩa của cao trào cách mạng 1930-1931”, đề thi có thể hỏi “tại sao nói cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám – 1945 ?”,…);... Nếu không rõ điều thứ hai một cách đầy đủ thì kết qủa sẽ không cao vì làm không đủ những ý lớn (“xương sườn”). Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho thí sinh bị điểm thấp. Ví dụ, câu hỏi yêu cầu 4 ý lớn (tổng số điểm là 2 điểm) và đáp án xác định mỗi ý lớn hoàn chỉnh tối đa chỉ được 0,5 điểm. Nếu thí sinh chỉ làm được 2 ý lớn, mặc dù làm thật tốt, thật đầy đủ chi tiết 2 ý đó, thì số điểm cũng không thể nào vượt qúa 1 điểm mà đáp án đã xác định. Cán bộ chấm thi phải tuân thủ đáp án của Bộ GD&ĐT một cách nghiêm ngặt. Để nhận biết được điều thứ hai này khi học tập học sinh phải : hiểu sâu những quy luật, tư tưởng lớn nào chi phối cả một giai đoạn lịch sử lớn (tôi gọi vui là “chìa khóa” vì nếu hiểu được nó ta sẽ có chỗ dựa để xác định đề cương làm bài); khi học từng bài học phải hiểu đâu là những ý lớn (“xương sườn”) đâu là những chi tiết, minh họa (“thịt da”), phải biết tóm tắt bài học, làm và thuộc kỹ đề cương “xương sườn”,…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:13.0pt;font-family:"Times New Roman";color:#474B4E"><span style="mso-tab-count:1"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:13.0pt;font-family:"Times New Roman";color:#474B4E"><span style="mso-tab-count:1"> </span>Sau khi đã hiểu đề như đã nói trên, thí sinh cần dành khoảng 20-25 phút để làm đề cương làm bài ra giấy nháp. Đề cương này không cần qúa chi tiết để tránh mất nhiều thời gian, nhưng phải rõ khung ý lớn (“xương sườn”) cùng những gợi ý ngắn về những chi tiết minh họa (“thịt da”), đồng thời đảm bảo sự cân đối thích hợp về nội dung cho từng câu trả lời cũng như cho thấy trước sự phân bố thời gian làm bài hợp lý nhất. Đề cương làm bài giúp thí sinh kiểm tra sự hiểu bài và thuộc bài của mình, tránh được điều xấu nhất là lạc đề, đảm bảo bài làm cân đối, đầy đủ, tránh tình trạng “đầu voi đuôi chuột” thường thấy (lúc đầu làm qúa nhiều chi tiết không cần thiết, càng về sau càng làm ngắn lại vì không còn đủ thời gian làm bài). Thế mà, hiện nay có đến 60-70% thí sinh không làm đề cương ra giấy nháp trước khi làm bài hay làm đề cương qúa sơ sài!<br />Dựa vào đề cương và sự phân bố thời gian ước lượng trước, thí sinh làm bài cẩn thận, kiểm tra từng bước bài làm, không nên vội vã để sót nhiều ý, nhiều sự kiện, số liệu minh họa cần thiết. Đối với đề thi gồm nhiều câu hỏi như hiện nay, thí sinh không cần làm nhập đề và kết luận, mà trả lời thẳng vào từng câu hỏi. Văn phong bài làm cần rõ ràng,mạch lạc, chính xác, lô-gích chặt chẽ như văn phong trong sách giáo khoa Lịch sử; cần tránh lối hành văn nhiều hình tượng như trong môn Văn học dễ dẫn đến chỗ diễn đạt sai nội dung lịch sử, thậm chí có lúc làm người chấm thi hiểu lầm thí sinh không thuộc bài nên “làm văn” thế cho sử. Khi làm bài cần chú ý tránh những điều mà quy chế cấm, tránh tạo ra những dấu vết lạ, bất thừơng trong bài thi khiến người chấm hiểu lầm là “làm dấu bài”. Làm xong bài nên kiểm tra toàn bài lại lần cuối. Nếu phát hiện được còn điều gì thiếu sót, sai lầm, thì thí sinh nên chỉnh sửa, viết phần bổ sung (ví dụ, “Bổ sung cho câu 3:…”). Đôi khi những phần bổ sung như vậy cũng đem lại những điểm số rất có ý nghĩa cho thí sinh. Phải tận dụng tất cả thời gian dành cho môn thi, không nên rời phòng thi sớm.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:13.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-18286149238845855732011-04-20T07:57:00.002-07:002011-04-20T08:00:41.690-07:00ON THI DAI HOC NAM 2011 MON LICH SU<p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:17.0pt;mso-bidi-font-size:13.0pt;font-family: "Times New Roman"">TÀI LIỆU BỔ TRỢ KIẾN THỨC PHỤC VỤ THI ĐẠI HỌC<o:p></o:p></span></b></p> <div style="mso-element:para-border-div;border:none;border-bottom:solid windowtext 1.0pt; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .75pt;padding:0cm 0cm 1.0pt 0cm"> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center;border:none; mso-border-bottom-alt:solid windowtext .75pt;padding:0cm;mso-padding-alt:0cm 0cm 1.0pt 0cm"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:17.0pt;mso-bidi-font-size: 13.0pt;font-family:"Times New Roman"">MÔN: LỊCH SỬ<o:p></o:p></span></b></p> </div> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:12.0pt;mso-bidi-font-size:13.0pt;font-family: "Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><u><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">BÀI 1</span></u></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size: 11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">:<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">CÔNG CUỘC KHAI THÁC THUỘC ĐỊA LẦN THỨ 2 CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ NHỮNG<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">TÁC ĐỘNG ĐẾN KINH TẾ - Xà HỘI VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN I<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">1. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>a/. Nguyên nhân:<o:p></o:p></span></i></b></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:1.0cm"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), mặc dù là nước thắng trận nhưng Pháp vẫn bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kinh tế sa sút.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:1.0cm"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Nhằm phục hồi lại đất nước sau chiến tranh, Pháp đổ xô sang các thuộc địa để vơ vét, bóc lột nhằm phục vụ cho việc khôi phục kinh tế và tiếp tục phát triển tư bản. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:1.0cm"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Đông Dương là một thuộc địa quan trọng và béo bở nên Pháp đẩy mạnh khai thác ở đây.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:1.0cm"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">b/. Quá trình khai thác thuộc địa ở Việt Nam:<o:p></o:p></span></i></b></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:1.0cm"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Để tiến hành khai thác thuộc địa Pháp tăng cường đầu tư nhanh và mạnh vào Việt Nam. Chỉ 6 năm (1924-1929) Pháp đã đầu tư vốn gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh .<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyText" style="text-indent:1.0cm"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Số vốn đó Pháp tập trung đầu tư vào 4 lĩnh vực chủ yếu để khai thác:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:2"> </span>+ <b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Nông nghiệp</i></b>: Cướp đất lập đồn điền (chủ yếu là đồn điền cao su). Năm 1930 Pháp đã chiếm đến 1,2 triệu hecta đất để trồng cao su.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:2"> </span>+ <b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Công nghiệp</i></b>: Pháp đẩy mạnh khai thác mỏ (chủ yếu là mỏ than). Nhiều công ty than ra đời như: công ty than Hạ Long, Đông Triều… Ngoài ra Pháp còn mở thêm một số cơ sở công nghiệp không có khả năng cạnh tranh với Pháp (chủ yếu là công nghiệp chế biến).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:2"> </span>+ Thương nghiệp: Ban hành luật đóng thuế nặng hàng ngoại nhập của các nước khác (nhất là của Trung Quốc, Nhật Bản) để độc chiếm thị trường Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:2"> </span>+ <b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Giao thông vận tải</i></b>: Pháp đầu tư mở thêm nhiều tuyến đường nhằm phục vụ đắc lực cho việc lưu thông hàng hóa và chuyên chở vật liệu xuất khẩu.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">2. Tác động của cuộc khai thác thuộc địa đến kinh tế Việt Nam <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Quá trình khai thác thuộc địa của Pháp làm cho nền kinh tế Việt Nam có sự chuyển biến theo hướng tư bản chủ nghĩa.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Tuy nhiên, do mục đích của Pháp muốn biến Việt Nam thành thị trường cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ hàng hóa nên tác dụng của phương thức sản xuất TBCN du nhập vào cũng rất hạn chế.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Mặt khác, do Pháp vẫn tiếp tục duy trì quan hệ sản xuất phong kiến ở Việt Nam, vẫn sử dụng giai cấp địa chủ phong kiến làm chỗ dựa nên Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế đan xen phương thức sản xuất TBCN và phương thức sản xuất phong kiến.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">3. Tác động của cuộc khai thác thuộc địa đến xã hội Việt Nam <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam bị phân hóa sâu sắc. Bên cạnh những giai cấp cũ đã xuất hiện các giai cấp mới.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Mỗi giai cấp xã hội có địa vị và quyền lợi khác nhau nên thái độ chính trị cũng khác nhau trong các cuộc đấu tranh.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>a/. Đối với giai cấp cũ:<o:p></o:p></span></i></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- <b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Giai cấp địa chủ phong kiến</i></b>: bị chia làm 2 bộ phận, mỗi bộ phận có thái độ chính trị khác nhau.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:2"> </span>+ Bộ phận nhỏ là đại địa chủ giàu có nhờ dựa vào Pháp, vì thế bộ phận này theo Pháp chống lại cách mạng. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:2"> </span>+ Bộ phận lớn là tiểu địa chủ và trung nông, do bị Pháp chèn ép về kinh tế nên ít nhiều có tinh thần chống đế quốc và tham gia phong trào yêu nước khi có điều kiện.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- <b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Giai cấp nông dân</i></b>: chiếm hơn 90% dân số, là nạn nhân của các chính sách sưu thuế, địa tô, phu phen… dưới chế độ phong kiến. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp càng làm cho nông dân bị bần cùng hóa. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Do bị áp bức, bóc lột nặng nề bởi thực dân và phong kiến, lại là giai cấp giàu lòng yêu nước nên tinh thần chống đế quốc và phong kiến của nông dân rất cao. Họ chính là lực lượng hăng hái và đông đảo nhất của cách mạng.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>b/. Đối với giai cấp và tầng lớp mới:<o:p></o:p></span></i></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:36.0pt"><i style="mso-bidi-font-style: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">- Giai cấp tư sản</span></i><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">: Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời sau chiến tranh thế giới lần thứ I, trong quá trình phát triển phân hóa thành 2 bộ phận<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Một bộ phận <b style="mso-bidi-font-weight:normal">tư sản mại bản</b> có quyền lợi gắn với đế quốc nên cấu kết chặt chẽ về chính trị với Pháp.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>+ Một bộ phận là <b style="mso-bidi-font-weight:normal">tư sản dân tộc</b> có khuynh hướng kinh doanh độc lập, phát triển kinh tế dân tộc nên ít nhiều có tinh thần dân tộc, chống đế quốc và phong kiến. Nhưng tư sản dân tộc không có lập trường kiên định, dễ thỏa hiệp khi đế quốc mạnh.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- <b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Tầng lớp tiểu tư sản</i></b>: ra đời cùng thời gian với giai cấp tư sản.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Tầng lớp tiểu tư sản cũng bị đế quốc bạc đãi, đời sống bấp bênh, dễ bị xô đẩy vào đường thất nghiệp và phá sản.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Tầng lớp tiểu tư sản nhạy bén với tình hình chính trị, có tinh thần cách mạng, hăng hái đấu tranh <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Tầng lớp tiểu tư sản là một lực lượng quan trọng của cách mạng Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- <b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Giai cấp công nhân</i></b>: Ra đời vào những năm đầu thế kỷ XX và trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai càng phát triển về số lượng và chất lượng (từ 14 vạn năm 1914 lên 22 vạn năm 1929).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Ngoài những đặc điểm chung của công nhân quốc tế, công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như sau:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Giai cấp công nhân chịu nhiều tầng áp bức bóc lột nên cuộc sống vô cùng khốn khổ và là giai cấp có tinh thần cách mạng cao nhất<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Có quan hê tự nhiên gắn bó với giai cấp nông dân<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Kế thừa truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Có điều kiện sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào cách mạng thế giới.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Giai cấp công nhân Việt Nam với những đặc điểm của mình đã trở thành lực lượng chính của cách mạng, là giai cấp nắm giữ ngọn cờ lãnh cờ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">4. Các mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Do tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 của Pháp làm cho xã hội Việt Nam nảy sinh 2 mâu thuẫn cơ bản:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>+ Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Hai mâu thuẫn này vừa là nguồn gốc vừa là động lực làm nảy sinh và thúc đẩy phong trào yêu nước, chống thực dân và phong kiến ở Việt Nam./.<o:p></o:p></span></p> <span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language: EN-US;mso-bidi-language:AR-SA"><br /> </span> <p class="MsoNormal"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><u><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">BÀI 2</span></u></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size: 11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">:<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN I<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">I. Phong trào yêu nước (1919 - 1925)<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>1. Điều kiện ra đời và phát triển của phong trào yêu nước<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Sau chiến tranh thế giới lần I giai cấp tư sản và tiểu tư sản Việt Nam xuất hiện và bước lên vũ đài chính trị.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc) chi phối mạnh mẽ đến phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span><b style="mso-bidi-font-weight:normal">2. Các phong trào đấu tranh<o:p></o:p></b></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>a/. Phong trào của giai cấp tư sản dân tộc:<o:p></o:p></span></i></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Năm 1919 tư sản dân tộc tổ chức phong trào chấn hưng hàng nội hóa, bài trừ hàng ngoại hóa.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Năm 1923 đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn và độc quyền xuất khẩu lúa gạo ở Nam kỳ của Pháp.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Một số tư sản và địa chủ Nam kỳ (đại biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long…) thành lập đảng Lập Hiến để tập tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng làm áp lực với Pháp, nhưng khi thực dân Pháp nhượng bộ cho ít quyền lợi thì họ thỏa hiệp với Pháp.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">b/. Phong trào của các tầng lớp tiểu tư sản<o:p></o:p></span></i></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Các tầng lớp tiểu tư sản thể hiện lòng yêu nước bằng cách tham gia các phong trào dân chủ công khai và tập hợp nhau lại trong những tổ chức yêu nước mới.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Những tổ chức chính trị tiêu biểu của tiểu tư sản là Việt Nam Nghĩa Đoàn (1925), Hội Phục Việt (1925), Hội Hưng Nam (1926), Đảng Thanh niên (1926)…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Các tổ chức này cho ra đời những tờ báo tiến bộ như: <i style="mso-bidi-font-style: normal">Chuông Rè, An Nam trẻ</i>… và lập ra những nhà xuất bản tiến bộ như: Cường Học Thư Xã (Sài Gòn), Nam Đồng Thư Xã (Hà Nội)… <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Họ dùng sách báo làm phương tiện truyền bá tư tưởng yêu nước, tiến bộ và nêu lên quan điểm chính trị của mình.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span></span></i></b><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Trong cao trào yêu nước giai đoạn này có 3 sự kiện tiêu biểu, đó là: Tiếng bom Sa Diện của Phạm Hồng Thái (1924), cuộc đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925) và đám tang Phan Châu Trinh (1926).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>* <b style="mso-bidi-font-weight: normal"><u>Nhìn chung</u></b>: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Phong trào đấu tranh của giai cấp tư sản dân tộc tuy thể hiện lòng yêu nước nhưng mang tính chất thỏa hiệp, cải lương và ngày càng xa rời và đối lập với quần chúng.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Hoạt động của tầng lớp tiểu tư sản mạnh mẽ hơn, chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ, được quần chúng ủng hộ, song do thiếu đường lối chính trị đúng đắn nên cũng không thể đưa cuộc đấu tranh đến thắng lợi.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">II. Phong trào Công nhân (1919 - 1925)<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>1. Sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất và trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai càng phát triển về số lượng và chất lượng (từ 14 vạn năm 1914 lên 22 vạn năm 1929).<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Ngoài những đặc điểm chung của công nhân quốc tế, công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như sau:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman""><span style="mso-spacerun:yes"> </span>+ Giai cấp công nhân chịu nhiều tầng áp bức bóc lột nên cuộc sống vô cùng khốn khổ và là giai cấp có tinh thần cách mạng cao nhất<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Có quan hê tự nhiên gắn bó với giai cấp nông dân<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Kế thừa truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Có điều kiện sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào cách mạng thế giới.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Giai cấp công nhân Việt Nam với những đặc điểm của mình đã trở thành lực lượng chính của cách mạng, là giai cấp nắm giữ ngọn cờ lãnh cờ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">2. Phong trào Công nhân giai đoạn 1919 – 1925<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Thời kỳ đầu do số lượng ít, trình độ giác ngộ còn thấp nên những cuộc đấu tranh của công nhân chỉ diễn ra<span style="mso-spacerun:yes"> </span>lẻ tẻ, rời rạc.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Mục đích đấu tranh thời kỳ đầu chủ yếu đòi quyền lợi về kinh tế như tăng tiền lương, giảm giờ làm…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Từ cuối năm 1919 trở đi phong trào công nhân ngày càng phát triển cao hơn<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Trong những năm từ 1919 – 1925 ở Việt Nam đã nổ ra 25 cuộc đấu tranh riêng lẻ của công nhân, có quy mô tương đối lớn.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Mở đầu là cuộc bãi công của công nhân thủy thủ Hải Phòng và Sài Gòn<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Năm 1924 nổ ra nhiều cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay gạo ở Hà Nội, Nam Định, Hải Dương.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Nổi bật nhất là cuộc bãi công của công nhân xưởng đóng tàu Ba Son (Sài Gòn) năm 1925.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Cuộc bãi công của công nhân Ba Son nhằm không cho tàu chiến Pháp đưa lính sang đàn áp cách mạng Trung Quốc.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Cuộc bãi công của công nhân Ba Son thắng lợi đánh dấu bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-left:36.0pt;text-align:justify;text-indent: 36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">+ Mở đầu thời kỳgiai cấp công nhân đi từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span><span style="mso-spacerun:yes"> </span><b style="mso-bidi-font-weight:normal">* <u>Nhìn chung</u></b>: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Phong trào công nhân giai đoạn 1919-1925 còn mang tính chất tự phát<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>- Tuy vậy, phong trào công nhân cũng đã giữ một vị trí quan trọng trong phong trào cách mạng Việt Nam giai đoạn sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất./.<o:p></o:p></span></p> <span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language: EN-US;mso-bidi-language:AR-SA"><br /> </span> <p class="MsoNormal"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><u><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">BÀI 3</span></u></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size: 11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">:<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">QUÁ TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman"">VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">I. Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoBodyTextIndent2" style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-align: justify;line-height:normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span></span><span style="font-size:11.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-05-1890 tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoBodyTextIndent2" style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-align: justify;text-indent:36.0pt;line-height:normal"><span style="font-size:11.0pt; font-family:"Times New Roman"">- Lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên lấy tên là Nguyễn Tất Thành.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Sinh trong một gia đình nhà Nho nghèo yêu nước, trên miền quê có truyền thống đấu tranh cách mạng và sớm được tiếp xúc với nhiều nhà cách mạng đương thời.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn và trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại từ các thế hệ yêu nước đi trước, Nguyễn Tất Thành quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:11.0pt;font-family: "Times New Roman"">2. </span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Quá trình tìm đường cứu nước<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Ngày 5-6-1911 Nguyễn Ai Quốc lấy tên là Ba, xin làm phụ bếp trên tàu Trevile rời cảng Nhà Rồng bắt đầu cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Năm 1912, Nguyễn Ai Quốc xin làm thuê một chiếc tàu khác để từ Pháp đi đến nhiều nước khác như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Mỹ…<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Qua nhiều năm đi nhiều nước khác nhau trên thế giới, Nguyễn Ai Quốc nhận rõ: “<b style="mso-bidi-font-weight:normal">Giai cấp công nhân và nhân dân các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thu</b>”.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Năm 1917, khi Cách mạng tháng Mười Nga diễn ra thắng lợi, Nguyễn Ai Quốc từ Anh về Pháp, tham gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và tìm hiểu về Cách mạng tháng Mười Nga.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Năm 1919, các nước đế quốc thắng trận họp ở Vecxây, Nguyễn Ai Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi tới hội nghị <b style="mso-bidi-font-weight:normal">bản yêu sách 8 điểm</b> đòi các quyền tự do dân chủ, bình đẳng và quyền dân tộc tự quyết. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Bản yêu sách 8 điểm gây tiếng vang lớn đối với thế giới, từ đây tên Nguyễn Ai Quốc được nhiều người biết đến.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Năm 1920 Nguyễn Ai Quốc đọc được “<b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa</i></b>” của Lênin, luận cương chỉ ra Nguyễn Ai Quốc con đường giải phóng dân tộc. Từ đó Nguyễn Ai Quốc quyết định đi theo Lênin và Quốc tế cộng sản.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Tháng 12-1920, Nguyễn Ai Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Từ đó, Nguyễn Ai Quốc khẳng định: <b style="mso-bidi-font-weight: normal">“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.<o:p></o:p></b></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">* <b style="mso-bidi-font-weight:normal"><u>Như vậy</u></b>: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản, con đường kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Đây là công lao to lớn đầu tiên của Nguyễn Ai Quốc.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">II. Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và thành lập ra chính đảng của giai cấp vô sản<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family: "Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>1. Thời kỳ ở Pháp (1920 - 1923)<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Tại Pháp Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào công nhân để tranh thủ sự ủng hộ của giai cấp công nhân Pháp đối với Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Nguyễn Ái Quốc tham gia “<b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp</i></b>” để vận đồng bà con Việt Kiều tại Pháp ủng hộ cách mạng Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập “<b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Hội liên hiệp thuộc địa ở Paris</i></b>” để gây tình đoàn kết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập báo “<b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Người Cùng Khổ</i></b>” và viết cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp”<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Những sách báo do Nguyễn Ái Quốc viết nhằm tố cáo tội ác của thực dân Pháp, đồng thời còn để tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và vận động quần chúng đấu tranh.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">2. Thời kỳ ở Liên Xô (1923 - 1924) <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị <span style="mso-tab-count:1"> </span>Nông dân quốc tế.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Sau đó Nguyễn Ái Quốc ở lại Liên Xô để hoạt động trong Quốc tế cộng sản và học tập thêm lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội V của Quốc tế cộng sản, tại đây Nguyễn Ái Quốc trình bày quan điểm của mình về cách mạng thuộc địa.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian này đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc hình thành 2 tư tưởng quan trọng là:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>+ Chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân dân các nước thuộc địa<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><span style="mso-tab-count:1"> </span>+ Xác định giai cấp công nhân là giai cấp có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">Những tư tưởng này chính là cơ sở để thành lập ra chính đảng vô sản ở Việt Nam về sau.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman"">3. Thời kỳ ở Trung Quốc (1924 - 1927) <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Năm 1924 Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) để tập hợp những người yêu nước ở Việt Nam, truyền bá và giáo dục cho họ chủ nghĩa Mác-Lênin.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập ra tổ chức “<b style="mso-bidi-font-weight: normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Hội Việt Nam cách mạng thanh niên</i></b>” và sáng lập ra <b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style: normal">báo</i></b> “<b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Thanh niên</i></b>”.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">- Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc xuất bản cuốn “<b style="mso-bidi-font-weight:normal"><i style="mso-bidi-font-style:normal">Đường Cách Mệnh</i></b>” được tập hợp từ những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp huấn luyện cho cán bộ cách mạng Việt Nam tại Trung Quốc.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman"">* Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã có tác dụng quyết định trong việc chuẩn bị<span style="mso-spacerun:yes"> </span>về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Đây là công lao rất to lớn của.<o:p></o:p></span></p> <span style="font-size:13.0pt;font-family:"Times New Roman";mso-fareast-font-family: "Times New Roman";mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language:EN-US; mso-bidi-language:AR-SA"><br /> </span> <p class="MsoNormal"><span style="font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal"><span style="mso-bidi-font-size:12.0pt;font-family:"Times New Roman""><o:p> </o:p></span></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-28283488772738085332011-04-20T07:57:00.001-07:002011-04-20T07:57:55.620-07:00DAT HA TIEN VOI HO MAC<p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA; mso-fareast-language:FR-CA"><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA; mso-fareast-language:FR-CA">ĐẤT HÀ TIÊN VỚI HỌ MẠC VÀ HỌ LÂM<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt; mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-style:italic"><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt; mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-style:italic">Nguyễn Hiến Lê</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA; mso-fareast-language:FR-CA"><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><br /></span><b><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt; mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA">Đất Hà Tiên</span></b><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal"><br /><br />Nam Việt là một “tặng phẩm” của sông Cửu long. Hàng vạn năm trước là biển, sông Cửu long chở phù sa xuống, rồi lần lần mà thành đồng ruộng. Thời tiền chiến, tôi không nhớ rõ là năm một ngàn chín trăm ba mươi mấy, người ta đào được những đồng tiền vàng La Mã ở Óc eo (gần chân núi Ba thê), vậy thì vào khoảng đầu công nguyên, biển vô tới Óc eo hoặc cách Óc eo không bao xa, chỉ vài ba cây số. Hồi đó các núi ở Hà tiên, Ba hòn, Hòn trẹm chắc còn nằm ngoài biển, không biết từ thế kỷ thứ mấy, miền ấy mới được bồi xong. Ngày nay ai đi qua Ba hòn, còn thấy trên những núi đá vôi ở sát lộ Rạch giá – Hà tiên, có những ngấn nước cao hơn mặt đất khoảng một thước. Vậy thì vùng bờ biển đó chắc cũng đã được dâng lên nữa, ngoài hiện tượng được phù sa bồi.<br /><br />Dãy núi từ Hà tiên tới Hòn trẹm ấy hiện nay nằm sát hoặc gần bờ biển, nhìn ra các hòn ngoài khơi: hòn Phụ tử, hòn Heo, hòn Ngang, hòn Một, hòn Phú Quốc… và quay lưng lại một cánh đồng bát ngát (xụa là rừng, nay vẫn còn đất phèn), xa xa vài chục cây số mới có dãy núi Thất sơn. Như vậy là Hà tiên là một miền hẻo lánh nơi chân trời góc biển. Trước năm 1930, khi chưa có con đường trải đá Rạch giá – Hà tiên thì thị trấn ấy gần như cô lập với các miền chung quanh: muốn xuống Rạch giá phải dùng đường biển, mất nữa ngày, mà muốn vô Châu đốc thì phải đi vòng lên biên giới, mượn một con đường trên phần đất Cao miên.<br /><br />Nó đã cô lập mà lại kì đặc, không giống một miền nào khác. Thi sĩ Đông Hồ trong cuốn Văn học Hà tiên (1) đã tả nó như sau:<br />“Ở đó (Hà tiên), kỳ thú thay, như gồm hầu đủ hết.<br /><br />Có một ít hang sâu động hiểm của Lạng sơn. Có một ít ngọn đá chơi vơi giữa biển của Hạ long. Có một ít núi vôi ở Ninh bình, có một ít thạch thất sơn môn của Hương tích. Có một ít Tây hồ, một ít Hương giang. Có một ít chùa chiền của Bắc ninh, lăng tẩm của Thuận hóa. Có một ít Đồ sơn, Cửa tùng, có một ít Nha trang, Long hải.<br /><br />Ở đây không có cảnh nào to lớn đầy đủ; ở đây chỉ nhỏ nhắn, xinh xinh, mà cảnh nào cũng có”.<br /><br />Tóm lại, nó là một tiểu vũ trụ biệt lập, rất hợp cho kẻ nào có chí vẫy vùng, muốn nghênh ngang một cõi.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal">* * *<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><b><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA">Họ Mạc</span></b><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal"><br /><br />Kẻ đó là họ Mạc ở cuối thế kỷ XVII.<br /><br />Cũng như Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu không chịu nhận chủ quyền Mãn Thanh, bỏ quê hương mà dắt bộ hạ xuống miền Nam Hải, nhưng Dương và Trần ghé vào Quảng nam (1679) qui phục chúa Nguyễn Phúc Tần, được chúa cho vào chiếm đất Đồng nai và Mĩ tho để tự kinh lí lấy mà lập nên một nơi buôn bán thịnh vượng là Cù lao Phố (Biên hòa); còn Mạc thì tiến xa hơn, tới địa phận Chân lạp (cũng gọi là Giản phố trại) – tức Cao miên, tức Campuchia – vào khoảng 1671 (theo Trần Kinh Hòa trong <i>Hà tiên Mạc thị thế hệ khảo</i> – Hoa Cương học báo) làm chức “ốc nha”, một chức quan lớn Chân lạp, năm 1700 xin vua Chân lạp ra khai khẩn miền Banteay Meas, tức Mang khảm, mới đầu mở sòng bạc, sau qui tụ các người Hoa, Việt, Miên, lập ấp, mở khẩu, thành lập một tiểu quốc, nhưng thường bị giặc Xiêm quấy nhiễu, nên năm 1708, nhận sự bảo hộ của chúa Nguyễn Phúc Chu. Mạng khảm từ đó đổi tên là Hà tiên, thành một cửa ngõ Chân lạp mà thuộc về Việt Nam, xuất cảng hầu hết các sản phẩm Chân lạp (*).<br /><br />Nếu chỉ là một hải khẩu thì dù ghe tàu tấp nập, cũng chưa có gì đặc biệt. Điều đáng cho ngày nay chúng ta nhắc nhở nhất là tiểu quốc đó chỉ trong nửa thế kỉ đã thành “một văn hiến quốc” ở giữa một miền hẻo lánh, y như một đầm sen giữa cánh đồng hoang vậy, khiến ai cũng phải ngạc nhiên.<br /><br />Công ấy là nhờ Mạc Thiên Tích (2), con của Mạc Cửu. Thiên Tích kế nghiệp cha, là đô đốc Hà tiên năm 1735, thì ngay năm sau, 1936, thành lập Chiêu Anh các, một tao đàn kiêm một nghĩa thục, có thờ Khổng Tử. Ông cha Trung hoa, mẹ Việt (3), rất đa tài: trị nước, ngoại giao, cầm quân, đặc biệt là có tài văn thơ mà lại rất trọng tiếng Nôm, chiêu tập được 36 (có sách chép là 32) văn nhân thi sĩ vô Chiêu Anh các (gọi là tam thập lục kiệt), trong số đó sáu vị là người Việt, còn thì là Trung hoa, người Minh hương, họ từ Thuận, Quảng vô hoặc từ Gia định tới, hoặc từ Quảng đông, Phúc kiến sang. Thiên Tích làm nguyên soái (**).<br /><br />Theo Trịnh Hoài Đức, họ sáng tác được sáu bộ sách gồm ba tập truyện và ba tập thơ. Ba tập truyện này đã lạc, còn ba tập thơ thì có lẽ là:<br /><br />- Tập <i>Hà tiên thập vịnh</i> gồm 320 bài, (4) toàn bằng thơ Hán, mỗi bài do Mạc Thiên Tích thủ xướng, còn các bài kia do các vị trong Chiêu Anh các họa.<br /><br />- Tập <i>Hà tiên thập cảnh khúc vịnh</i> bằng thơ môm của Mạc Thiên Tích.<br /><br />- Tập <i>Minh Bột di ngư thi thảo</i> gồm những bài thi, phú chữ Hán cũng của Thiên Tích.<br /><br />Hai tập trên còn được trọn vẹn, tập cuối chỉ còn sót vài bài.<br /><br />Những sáng tác của nhóm Chiêu Anh các nổi tiếng ngay từ thời đó, và Lê Qúi Đôn trong tập “<i>Phủ biên tạp lục</i> (1776) đoạn chép về họ Mạc ở trấn Hà Tiên, khen rằng: Không thể bào ở hải ngoại xa xôi không có văn chương”, rồi trong Kiến văn tiểu lục lại khen: “văn thơ nhiều bài hay lắm”. Có giá trị nhất là những bài thơ cả chữ Hán lẫn chữ Nôm của Mạc Thiên Tích.<br /><br />Ngay những người ngoại quốc cũng nhận Hà tiên là đất văn hiến. Các giáo sĩ trong dòng Franciscan bảo:<br /><br />“Trong xứ (Hà tiên) có miếu thờ Khổng Tử mà từ vương (tức Thiên Tích) đến dân ai cũng thờ. Có một nhà nghĩa học dạy các thanh niên ưu tú, nghèo không thể tự túc theo học được. Những người Trung hoa sang đây mà có khả năng văn học thì mới được mời đến đó dạy học” (5).<br /><br />Còn sách <i>Văn hiến thông thảo</i> đời Thanh vào năm 1747 chép rằng “phong tục (Hà tiên) trong văn học , thích thi thơ, có cả một hàn lâm viện nhỏ” (6).<br /><br />Trong khi đó đừng nói chi Gia định, ngay cả ở Thuận hóa cũng chẳng có một thi đàn nào cả. Sự kiện ấy quả thực chưa hề xảy ra trong lịch sử văn học. Ta thử tưởng tượng một nhóm người di cư qua một nước tuy là đồng văn nhưng vẫn là lạ, dựng nghiệp ở một nơi hẻo lánh nhất, mà chỉ nữa thế kỉ sau, làm cho nơi đó thành một đất văn vật nhất trong cõi, góp công vào văn học xứ đó bằng chữ của mình và bằng cả thổ ngữ, thì có lạ không chứ!<br /><br />Tiếc thay nền văn học Hà tiên bừng lên rực rỡ được có 31 năm; đến năm 1771, Hà tiên bị quân Xiêm đánh chiếm, Thiên Tích phải chạy về Gia định. Chiêu Anh các tan rã, sách vở bị tiêu hủy; năm 1778 Thiên Tích phải trốn tránh Tây Sơn, qua Xiêm, và hai năm sau, 1780, ông tuẩn tiết ở kinh đô Xiêm; từ đó Hà tiên cũng cùng họ Mạc mà suy tàn. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><br /><span style="mso-no-proof:yes">--------------------------</span><br /><br /> <!--[if !supportLineBreakNewLine]--><br /> <!--[endif]--><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal">(1) Quình Lâm xuất bản – 1970<br />(2) Chính tên là Tông, tự Thiên Tứ. Chữ Tứ này bộ bối, có nghĩa là cho; sau chúa Nguyễn Phúc Chu (1725-38) tứ danh cho, mới đổi bộ bối ra bộ kim, thành chữ Tích cũng có nghĩa là cho.<br />(3) Theo Đông Hồ (<i>Văn học Hà tiên</i> – tr. 142), “căn cứ trên bia mộ dựng ở núi Bình sao (Hà tiên), hiện vẫn còn, khi Thiên Tích lập thạch cho mẹ, đề Thái phu nhân là họ Nguyễn, thì chúng ta có thể quyết được mẹ Thiên Tích là người Việt. Bởi người Tàu ít có người họ Nguyễn”.<br />Theo <i>Gia định thành thông chí</i> (quyển II), ông Hàn Nguyên dẫn trong bài “Hà tiên, chìa khóa Nam tiến của dân tộc Việt Nam xuống đồng bằng sông Cửu Long”, tập san Sử Địa số 19-20, năm 1970, tr. 265, thì mẹ Mạc Thiên Tích là người Việt, tên là Bùi thị Lẫm, gốc ở Đồng môn, thuộc Biên hòa.<br />Cũng trong bài ấy, ông Hàn Nguyên còn dẫn lời của Pierre Poivré, cũng nhận Thiên Tích là người lai.<br />Chúng ta có thể tin lời trên mộ bia hơn lời trong Thông chí. Dù theo thuyết nào thì mẹ của Thiên Tích cũng là người Việt, cho nên Thiên Tích mới giỏi thơ nôm được.<br />(4) Có 320 bài thì ta có thể đoán rằng Chiêu Anh các gồm 32 thi sĩ thôi (mỗi nhà làm 10 bài), kể cả Thiên Tích. Con số 36 cũng như con số 12, 72… không đáng tin lắm.<br />(5) Hãn Nguyên – Bài đã dẫn. <i>Tập san Sử Địa</i> 19-20, tr. 270.<br />(6) Theo Gaspardone – Hãn Nguyên trong bài kể trên. Hàn lâm viện đó là Chiêu Anh các.<br />(*) Trong bài <i>Cộng đồng người Khmer Nam Bộ</i>, TS Nguyễn Văn Huy cho rằng Mạc Cửu chọn thủ phủ, lúc còn theo Chân lạp, là Mán Khảm sau đổi thành Căn Khẩu (Căn Kháo hay Căn Cáo), và vùng đất do Mạc Cửu khai khẩn gọi là Căn Khẩu quốc. Năm 1714, Mạc Cửu xin làm thuộc hạ của chúa Nguyễn và được phong chức tổng binh cai trị đất Căn Khẩu. Năm 1724, Mạc Cửu dâng luôn toàn bộ đất đai và được phong làm đô đốc cai trị lãnh thổ Căn Khẩu, đổi tên thành Long Hồ dinh. Mặc Cửu mất năm 1735, con là Mạc Sĩ Lân, sau đổi thành Mạc Thiên Tứ kế nghiệp, Long Hồ dinh đổi tên thành trấn Hà Tiên.<br />(**) Tác giả N.T.D.M trong bài <i>Chiêu Anh Các</i>, Tạp chí Chiêu Anh Các số 2 (được đăng lại trên website Mạng Giáo dục) ghi nhận “thành phần nhân sự” như sau: “Theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức ghi kỹ hơn: Văn nhân tỉnh Phúc Kiến 15 người, Quảng Đông 13 người, Phủ Triệu Phong (Việt Nam) 4 người, phủ Gia Định 2 người, phủ Qui Nhơn 2 người. Cộng là 36 vị”.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><b><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA">Họ Lâm</span></b><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal"><br /><br />Trong một trăm rưởi năm, Hà tiên thiêm thiếp ngủ yên trên bờ vịnh Thái Lan, chỉ còn là một thị trấn nhỏ ở biên giới không ai nhắc nhở tới. Tới khoảng 1926-28 nó mới lại được nhắc nhở, vì là quê hương của Đông Hồ Lâm Tấn Phác, một nhà văn mới cầm bút mà đã nổi tiếng ngay về bài khóc vợ <i>Linh Phượng</i> (tức Trác Chi lệ kí tập – Trác Chi là tên tự của ông (*), Đông Hồ là tên hiệu), và bài Phú Đông Hồ, lại sáng lập Trí Đức học xá, trường đầu tiên trong nước chuyên dạy tiếng Việt.<br /><br />Ngày nay tên Đông Hồ đã quá quen thuộc, phải lùi lại thời đó, trên bốn chục năm trước – mới thấy ngôi sao Đông Hồ rực rỡ ra sao. Khắp nước chỉ có mỗi một tạp chí văn học, tờ Nam Phong; ai muốn được coi là trí thức cũng phải đọc Nam Phong, có thể nói ở Nam Việt làng nào cũng có người mua dài hạn Nam Phong; mà nhóm Nam Phong hầu hết gồm các học giả Bắc, chỉ có vài nhà gốc ở Trung. Vậy mà một người Nam, lại ở Hà tiên nữa, mới ngoài hai mươi tuổi, chẳng có bằng cấp, thành tích gì cả mà chen chân được vào cái “hội” đó thì quả là phi thường. Chẳng những chen chân lại còn sắp vào hàng kiện tướng, viết nhiều và đủ loại, thơ, nghị luận, tùy bút, lịch sử, du kí. Đặc biệt nhất là giọng văn, y như một nhà cựu học đất Bắc có pha chút tân học, bóng bẩy, tô chuốt, du dương, trang trọng, thường dùng tiếng Bắc, khác hẳn giọng quá tự nhiên và hơi thô của các cây bút trong Nam thời đó.<br /><br />Sở trường ấy của ông, khoảng mươi năm nay một số người chê là sở đoản. Trong văn chương cũng như trong mọi nghệ thuật khác, thị hiếu thường thay đổi, có vậy mới tiến hóa, nhưng có người quá khích không nhận ông là nhà văn miền Nam nữa, trách ông sao không theo trào lưu văn học miền Nam từ trước tới đầu thế chiến vừa rồi, nghĩa là trào lưu văn học bình dân, giữ màu sắc và ngôn ngữ địa phương, chẳng hạn như nhà văn Hồ Biểu Chánh.<br /><br />Dĩ nhiên những lời chê đó tới tai ông, nhưng tôi không bao giờ thấy ông lên tiếng, chỉ mới rồi trong cuốn <i>Văn học Hà tiên</i>, ông gián tiếp trả lời như sau:<br /><br />“Đọc những sách báo quốc ngữ miền Nam xuất bản khoảng từ 1900 đến 1920, chúng ta thấy có một lối viết lỏng lẻo, hời hợt, mất hẳn văn hóa cố hữu, tế nhị, cổ truyền của hai miền Trung, Bắc (…)<br /><br />Mãi cho đến sau thế chiến thứ nhất 1914-18, nhờ cuộc giao thông tiện lợi, phong trào sách báo ở Hà nội truyền được vào Nam, tình trạng bế tắc này mới thay đổi. Bắt đầu là <i>Nam Phong tạp chí</i> (1917-1934) rồi đến <i>Phong Hóa, Ngày nay</i> ở Hà nội (1932-40) báo <i>Tiếng Dân</i> ở Huế (1927) (…)<br /><br />Và từ 1925 về sau, có những nhà thơ, nhà văn giả từ miền Bắc, miền Trung vào làm báo ở Sàigòn, như những Tản Đà, Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Đào Trinh Nhất, Bùi Thế Mỹ, Thiếu Sơn v.v… Chính họ là sứ giả văn hóa cho thời kỳ này (…)<br /><br />Từ đó văn học miền Nam dần dần khởi sắc và cũng từ đó mất dần tính cách đặc thù địa phương mà hòa đồng, thống nhất với văn hóa dân tộc hai miền Trung Bắc”.<br /><br />Vậy thì chủ trương của ông thật rõ rệt: phụng sự văn học dân tộc chứ không phải văn học địa phương, để thống nhất ba miền.<br /><br />Sở dĩ ông có chủ trương ấy – từ hồi nào tôi không rõ, nhưng chắc là sớm lắm – nhờ ông sinh ở Hà tiên trong một gia đình Nho học.<br />Hà tiên thuộc về miền Tây mà miền Tây chịu ảnh hưởng đậm của những lưu dân Trung hoa. Sách <i>Văn hiến thông thảo</i> (do Hãn Nguyên trích bài dẫn trên) chép về sinh hoạt ở Hà tiên thời Mạc Thiên Tích:<br /><br />“Nhà cửa không khác Trung quốc, từ nhà vương (Mạc Thiên Tích) tất cả đều làm bằng gạch lợp ngói. Trong cách ăn mặc, họ bắt chước triều đại trước (nhà Minh), Vương bới tóc lưới, đội khăn hay mũ bằng nhiễu, mình mặc áo thêu rồng, đai bằng sừng, mang hia. Ngày thường họ dùng đủ màu (…) Gặp thì họ chấp tay chào nhau.”<br /><br />Tới gần đây, nghĩa là sau hơn hai thế kĩ, Hà tiên còn giữ được ít nhiều màu sắc Trung Hoa từ phong tục, cách ăn ở tới ngôn ngữ, giao tế; còn miền Đông, từ Vĩnh long trở ra Biên hòa, Bà rịa, chịu ảnh hưởng của những lớp Nam tiến cuồn cuộn từ miền Trung vô; hạng người tiền đạo này tháo vát, tự nhiên, ưa thứ văn chương bình dân hơn.<br /><br />Tổ tiên của Đông Hồ gốc gác ở Phúc Kiến (Hoa Nam) có lẽ cũng qua Việt nam với họ Mạc (Mạc Cửu có dùng một quan kí lục họ Lâm), đời đời theo Nho học, và cụ Hữu Lân, bá phụ của Đồng Hồ nổi tiếng văn hay chữ tốt. Thiếu thời Đông Hồ được cụ dạy dỗ, đào tạo trong nền cổ học, gần như không ra khỏi Hà tiên, không được đọc gì khác ngoài văn thơ Hán Nôm. Vì vậy tâm hồn ông gần với tâm hồn các nhà Nho Bắc, Trung hơn các người Nam đồng thời với ông ở miền Đông, chẳng hạn Hồ Biểu Chánh. Vì vậy mà hai mươi mốt tuổi ông đã làm được bài <i>Phú Đông Hồ</i>, khiến các nhà Nho phải phục. Vì vậy mà ông được nhận ngay vào phái Nam Phong, và suốt đời có nếp sống của nhà Nho, có thiện cảm với các nhà văn Bắc, Trung. Lần lần tinh thần ông hơi thay đổi, mới hơn nhiều nhà trong nhóm Nam Phong, mà rán hòa với trào lưu mới, nhưng cốt cách, bút pháp thì hồi ba mươi tuổi đã định rồi. Nhờ vậy, ông là nhà văn, nhà thơ đầu tiên trong Nam bắt cầu Nam Bắc, mở đường cho sự “thống nhất văn học dân tộc” như ông nói.<br /><br />Đó là mục đích thứ nhất trong đời ông. (**)<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><br />----------------<br />Chú thích của Goldfish:<br />(*) Theo ghi nhận trong bài <i>Đông Hồ</i> (không rõ tác giả, <a href="http://www.nguyenkynam.com/" target="_blank"><span style="mso-bidi-font-size: 14.0pt;color:windowtext">www.nguyenkynam.com</span></a>) thì: “Họ Lâm, nhũ danh là Kỳ Phác (bộ ngọc), hộ tịch chép là Tấn Phác (Biện Hoà Tấn Phác), ông bác đặc tiểu tự là Quốc Tỉ (Truyền quốc ngọc tỉ) sau đổi là Trác Chi (Hữu phác ngọc, nghi sử ngọc nhân điêu trác chi)”. Theo <i>Tự điển Hán Việt Thiều Chửu</i>: Phát </span><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt; font-family:"MS Mincho";mso-ascii-font-family:"Times New Roman";mso-hansi-font-family: Arial;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal">璞</span><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"> là ngọc trong đá và Trác </span><span lang="FR-CA" style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;font-family:"MS Mincho";mso-ascii-font-family: "Times New Roman";mso-hansi-font-family:Arial;mso-ansi-language:FR-CA; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal">琢</span><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal"> là sửa ngọc, mài giũa ngọc. Cụ Nguyễn Hiến Lê, trong thư gửi cho Quách Tấn, có nhắc đến một biệt hiệu nữa là Đại Ẩn Am (theo <i>Hồi ký Quách Tấn</i>).<br />Nhân đây tôi mạn phép nêu lên chi tiết sau: Trong bài <i>Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên</i>, cụ NHL có nhắc đến dấu son “Lâm Đông Thủy Cổ Nguyệt”, nhưng trong <i>Hồi kí Nguyễn Hiến Lê</i>, tác giả lại viết “(…) đóng dấu son “Đông Thủy cổ nguyệt” (tức Đông Hồ: chữ Hồ gồm 3 chữ thủy, cổ và nguyệt)”; không có chữ Lâm? Trong bài <i>Đông Hồ</i> nêu trên ghi nhận, ngoài 2 biệt hiệu Đông Hồ và Đại Ẩn Am, ông Đông Hồ còn có biệt hiệu “Thủy Cổ Nguyệt (chiết tự chữ hồ)”; tức là không có chữ Lâm Đông!<br />(**) Trong thư gửi cho Quách Tấn, ngày 25/1/1983, cụ NHL viết: “Đông Hồ có hai công lớn: Phụng sự Việt Ngữ, thúc đẩy người ta trau dồi Việt Ngữ từ 1924-1925; làm cho văn xuôi Miền Nam hóa thanh nhã, “có văn”, như văn xuôi Miền Bắc. (So sánh văn anh ấy viết từ 1925 với văn các cây bút đương thời, như Nguyễn Chánh Sắc... thì thấy một trời một vực)” (sđd)<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal">* * *<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal">Mục đích thứ nhì là nối lại sự nghiệp văn học của Mạc Thiên Tích đã bị gián đoạn trong một thế kĩ rưỡi.<br /><br />Một thanh niên sanh trong một gia đình có truyền thống văn học, tại một nơi danh thắng đã có một thời nổi tiếng là “văn hiến quốc”, từ hồi nhỏ, mắt đã được thấy làn nước Đông Hồ, ngọn núi Tô châu, chân được dạo những chốn còn lưu lại di tích tiền nhân như Kim Dự, Bình San, Tiêu Tự, Giang Thành, tai được nghe những chuyện hồi thịnh thời Mạc Thiên Tích cùng những văn thơ Hán, Nôm của nhóm Chiêu Anh các, một thanh niên được gặp những hoàn cảnh may mắn đó mà lại anh tuấn, mới mười bốn, mười lăm tuổi đã được khen là thơ có khẩu khí, rồi hai mươi hai tuổi danh vang ra tới đất Bắc, nhờ một bài có giọng lãng mạn như Từ Trẩm Ái (bài <i>Linh Phượng</i>) và một bài cổ kính mà hoa mĩ như văn Lục Triều (bài <i>Phú Đông hồ</i>); một thanh niên như vậy nhất định là yêu quê hương tha thiết, tự hào về nó nữa và hoài bão cái chí làm vẻ vang cho quê hương, nếu không nối nghiệp được tiền nhân thì ít nhất cũng làm cho người trong nước nhớ rằng “nơi hải ngoại (*) xa xôi này không phải không có văn chương” (lời Đông Hồ).<br /><br />Ông nhũn nhặn, kín đáo, không thổ lộ tâm sự, chí hướng với bạn, nhưng trong một lúc xúc động mạnh, viết thư cho tôi, ông đã thú rằng “làm con, tôi đã để cho bác tôi nỗi khổ tâm vì tôi nghĩ rằng tôi “quá” thông minh”. Vậy ông đã tự tin lắm, nhận được giá trị của mình ngay từ thiếu thời và điều tôi đoán rằng ông có lúc muốn lập nên một sự nghiệp về văn học như Mạc Thiên Tích, điều đó chắc không xa sự thực.<br /><br />Thời đại ông không phải thời đại Mạc Thiên Tích, Hà tiên không còn là một tiểu quốc mà chỉ là một thị trấn nhỏ, mà địa vị một giáo viên sơ học dưới thời Pháp thuộc lại càng không thể so sánh được với địa vị một vị hầu dưới triều chúa Nguyễn (Thiên Tích được phong là Tông Đức hầu), cho nên sự nghiệp của ông khác hẳn của Thiên Tích.<br /><br />Không thể lập được một Chiêu Anh các thì ông rán dựng Trí Đức học xá, cũng là một nghĩa thục như nghĩa thục của Chiêu Anh các; chưa có đủ tư cách kết nạp các anh tài trong nước để thành lập một tao đàn thì ông đào tạo lấy một số môn sinh cho giỏi Việt ngữ, hiểu được thơ văn, nhất là thơ văn cổ, rồi ông lại khuyết trương thêm, mở lớp hàm thụ đầu tiên dạy Việt văn, và ảnh hưởng của ông lan khắp lục tỉnh, nhiều người yêu văn chương ở Hà tiên, Biên hòa, Tây ninh… nghe tiếng gọi là “hồn Đại Việt” của ông mà cùng với ông trau giồi “giọng Hàn Thuyên”.<br /><br />Không có Đại thành điện, Khuê văn lâu… như Tông Đức hầu, thì ông có Vạn quyển thư lâu, Vương giả hương đình, Quình Lâm thư thất… tuy chẳng lộng lẫy, nhưng sách quí, tranh quí và nét bút của cổ nhân và của chính ông thì chất, treo đầy tường; mà hương trầm, hương mai, hương lan, hương huệ thường tỏa ngào ngạt mỗi khi có bạn văn tới; ai cũng phải nhận rằng về phương diện đó ông là bậc “vương giả” trong giới tao nhân Việt nam. Cho nên năm 1961, khi viên thư kí Hàn lâm viện Ấn Độ, K.F. Kripalani, qua Sàigòn để tìm những kỉ niệm về thi hào Tagore thì nha Văn hóa bối rối, không biết tiếp vị khách ấy ở đâu cho trang nhã, có vẻ “văn hóa” một chút, phải xin mượn Yễm Yễm thư trang vậy.<br /><br />Những hoạt động cùng phong cách đó của họ Lâm có thể chỉ là ngẫu nhiên ám hợp với những hoạt động cùng phong cách họ Mạc, nghĩa là xuất phát từ phần tiềm thức, nhưng dù vậy đi nữa, tôi nghĩ cũng cần ghi lại cho văn học sử.<br /><br />Tôi không rõ môn sinh của Đông Hồ tại Trí Đức học xá và trong các lớp hàm thụ, trước sau được bao nhiêu người; một số có khiếu văn chương , nhưng rồi chẳng viết lách gì cả, và rốt cuộc chỉ còn một mình nữ sĩ Mộng Tuyết, sau thành bạn văn và bạn trăm năm của ông, là không phụ công lao của ông. Bà viết ít hơn ông, nhưng văn thơ đều có giọng như ông, cũng trang trọng, du dương, tô chuốt, có phần đa cảm hơn và khi miêu tả cảnh vật, như một khóm cây, một con ong, một cành hoa… nhận xét có phần sắc bén hơn ông. Ai đọc văn thơ của bà cũng nhận thấy ngay rằng bà chịu ảnh hưởng của ông rất đậm; mà văn thơ của hai ông bà có một địa vị riêng biệt ở Nam, có thể nói là thuộc về một phái riêng, phái Hà Tiên.<br /><br />Phái này chỉ còn vài ba nhà nữa (như Trúc Hà, có họ hàng với Đông Hồ, cũng quê ở Hà Tiên, hơi có tiếng tăm, mất trước 1945, và ông Trọng Toàn), nhưng sự nghiệp không kém gì phái Chiêu Anh các.<br /><br />Không kể rất nhiều bài đăng rải rác trên các tạp chí, hiện nay chưa in thành sách (**), Đông Hồ đã lưu lại cho chúng ta mười lăm tác phẩm, trong số đó có sáu bảy tập thơ.<br /><br />Nữ sĩ Mông Tuyết cũng đăng lác đác ít bài thơ, hồi kí, đã xuất bản được một lịch sử tiểu thuyết: <i>Nàng Ái cơ trong chậu úp</i>, một tập tùy bút <i>Dưới mái trăng non</i> và có một tập văn cảo: <i>Hà tiên tạp thuyết</i>. Bà vẫn còn sáng tác và chắc còn cống hiến cho quốc dân vài tập nữa.<br /><br />Đã có người nhận định về phần mà người ta gọi là “văn chương thuấn túy”, tức thơ, tùy bút… trong sự nghiệp của Đông Hồ; ở đây tôi chỉ xin giới thiệu những trứ tác của hai ông bà liên quan đến Hà tiên, để đọc giả thấy rõ hai ông bà đã đền đáp cho nơi chôn nhau cắt rún được những gì. Phần đó là phần hai ông bà quan tâm tới suốt đời mà cũng rất quan trọng, nhưng từ trước tới nay ít ai để ý tới.<br /><br />Ở trên tôi đã dẫn một đoạn Đông Hồ tả Hà tiên, và độc giả đã thấy lòng yêu quê hương của ông ra sao, ông cho Hà tiên gồm đủ các thắng cảnh trong nước, không khác gì một Việt nam thu nhỏ lại cho thêm phần xinh xinh mà để thưởng ngoạn.<br /><br />Ngay từ khi mới nhập tịch làng văn, Đông Hồ đã giới thiệu quê hương với độc giả Nam Phong:<br /><br />- Năm 1926 ông viết thiên <i>Hà tiên Mạc thị sử</i> (Nam Phong số 107) theo một bản Nôm của Trần Đình Quang hồi đầu thế kĩ.<br /><br />Ba năm sau ông can đảm nhận rằng vì “sở học còn kém mà không tìm được bản chánh Gia phả họ Mạc”, nên thiên đó “còn khiếm khuyết”, sai suyển rất nhiều, không thể để lầm cho người sau được”, ông viết lại. Nam Phong số 143 (năm 1929) đăng lại.<br /><br />Lần này ông dùng bản Hán văn Mạc thị gia phả của Vũ thế Dinh, tự Thân Di, viết năm 1818. Tài liệu này tới nay vẫn được coi là tài liệu chính, đầy đủ hơn cả, tuy nhiên có nhiều chỗ cần phải xét lại, chia ra chương tiết, sau khi “tham khảo thêm các sách Nam sử và ngoại truyện”, tăng bổ thêm những chổ thiếu sót, cải chính những chỗ sai lầm.<br /><br />Năm 1948 ông sửa chữa, cho in lại trong cuốn Danh nhân nước nhà của Đào Văn Hội.<br /><br />Sau khi lên Sàigòn rồi, ông kiếm thêm được nhiều tài liệu khác trong các bộ sử Việt, như bộ Đại Nam liệt truyện tiền biên, <i>Un Chinois des mers du Sud, le fondateur de Hà tiên, Journal asiatique 1952</i> của Gaspardone, bản dịch và chú thích rất kĩ lưỡng cuốn <i>Mạc thị gia phả</i> kể trên, của Trần Kinh Hòa, Văn hóa Á châu số 7 tháng 10 năm 1958, ông thấy cần sửa lại lần nữa tập <i>Hà tiên Mạc thị sử</i>, nhưng chưa kịp làm thì đã qui tiên. Ông thực là kiên nhẫn và thận trong. Mặc dù chưa sửa lại, tập đó đến nay vẫn tạm dùng được.<br /><br />- Năm 1927, nhân dịp đi chấm thi ở Phú quốc, ông được thăm gần hết cảnh đẹp và di tích trên đảo, về viết một thiên du kí rất đầy đủ, đăng trong Nam Phong số 124 (1927), nhan đề là <i>Thăm đảo Phú quốc</i>. Ông nhận xét, ghi chép rất tỉ mỉ, mà văn du kí của ông tươi đẹp, nên ngày nay đọc lại còn thấy thú.<br /><br />- Trong khoảng mấy năm sau, ông cho đăng trên Nam Phong nhiều thơ văn tả cảnh Hà tiên như <i>Bơi thuyền chơi Đông hồ, Đông hồ cảnh sớm, Lên chơi núi Đại Tô châu, Chơi Tô châu, Cảnh trăng trên Đông Hồ…</i>, đáng để ý hơn cả là:<br /><br />Bài kí <i>Chơi Châu Nham</i> (Nam Phong số 154, năm 1930). Núi Châu nham tức núi Đá dựng cách chợ Hà tiên sáu, bảy cây số, cảnh hoang tịch mà đẹp hơn Thạch Động.<br /><br />Và bài <i>phú Đông Hồ</i> rất nỗi tiếng (N.P số 145 năm 1929 – sau sửa lại vài chỗ, đăng lại trong số 158 năm 1931).<br /><br />- Non hai chục năm sau, hai ông bà cho ra chung một tập nhan đề là <i>Hà tiên thập cảnh và đường vào Hà tiên</i> (Bốn phương – 1960). Tập này mõng, nhỏ chỉ bằng bàn tay, giúp độc giả biết rõ ràng về mười thắng cảnh Hà tiên. Về mỗi cảnh Đông Hồ dẫn một bài thơ Nôm, thất ngôn Đường luật của Mạc Thiên Tích rồi giảng giải, tả cảnh, kể tích xưa cho ta hiểu rõ thêm. Cuối tập có mươi trang tả bốn năm con đường đưa vào Hà tiên. Tác phẩm có ích cho khách du lịch.<br /><br />Trong mấy chục năm đó, Đông Hồ vẫn tiếp tục khảo cứu thêm về Hà tiên, thu thập tất cả sách báo Việt, Hán, Pháp viết về Hà tiên được trên mười tập… Tôi đã thấy ông ghi chú kĩ lưỡng từng tài liệu một, gom lại thành một bó lớn, một phần được dùng trong cuốn <i>Văn học Hà tiên</i> (Quình Lâm – 1970). Cuốn này dày trên ba trăm trang khổ lớn, có nhiều hình ảnh, gồm những bài giảng của ông ở Đại học Văn khoa Sàigòn. Tôi nhận thấy công trình khảo cứu công phu, cách trình bày sáng sủa – giọng ông ở đây là giọng một giáo sư kiêm một nghệ sĩ. Ông rất thận trọng trong phần chú giải, nhất là trong những bài dịch thơ chữ Hán của Mạc Thiên Tích. Ông dịch sát mà giữ đúng cả thể lẫn vần trong nguyên tác, như bài Lộc trĩ thôn cư nguyên tác là thất ngôn Đường luật và dùng những vần tinh, thinh, thanh, linh, đình thì ông dịch ra thất ngôn Đượng luật và dùng những vần mình, tranh, xanh, thanh, thinh.<br /><br />Ông đã trình bày cặn kẻ chẳng riêng mười bài thơ nôm, mà trọn tập ngâm khúc Nôm và mười bài thơ Hán của Mạc Thiên Tích về mười cảnh Hà tiên. Về phần giới thiệu nhóm Chiêu Anh các, tiểu sử Mạc Thiên Tích, tài liệu cũng dồi dào, sau này khó có ai viết hơn ông được.<br /><br />Đó là công của Đông Hồ với Hà tiên. Sự đóng góp của Mộng Tuyết cũng rất đặc biệt. Bà chỉ mới có một tập truyện <i>Nàng Ái cơ trong chậu úp</i> (Bốn phương – 1961) và vài bài ngắn, chép hồi kí về Hà tiên trong tập <i>Dưới mái trăng non</i> (Mặc Lâm -1969) nhưng nội cuốn Nàng Ái cơ cũng đáng được chú ý rồi.<br /><br />Mộng Tuyết bổ túc công việc của Đông Hồ. Đông Hồ cho ta biết lịch sử Hà tiên, đời sống và sự nghiệp các nhân vật Hà tiên, Mộng Tuyết cho ta thở cái không khí cổ của Hà tiên, sống với các nhân vật Hà tiên.<br /><br />Truyện có thực, còn lưu lại di tích, tức chùa Phù Dung ở Hà tiên mà <i>Đại nam nhất thống chí</i> chép đúng, là chùa Phù Cừ, người sau không hiểu nghĩa đổi thành Phù Dung.<br /><br />Nhân vật chính, Dì Tự, một ái cơ của Mạc Thiên Tích, đã đẹp lại hay chữ, khiến bà chính thất họ Nguyễn ghen tương mà lập mưu hãm hại, nhốt vào một cái chậu úp cho ngộp mà chết, may được Thiên Tích ngẫu nhiên cứu sống, rồi chán chường thế sự bà xin phép chồng đi tu, Thiên Tích cất cho bà ngôi chùa Phù Cừ đó để bà lánh đời (***).<br /><br />Truyện chỉ có vậy, tác giả đã tưởng tượng thêm để viết thành một lịch sử tiểu thuyết dài non hai trăm trang làm sống lại một thịnh thời ở Hà tiên với những hội hoa đăng, hội thơ, cảnh duyệt binh, cảnh tết Đoan ngọ… Tuy là tưởng tượng nhưng vẫn dựa vào sử, theo sát tài liệu lịch sử, giữ đúng niên đại trong sử. Tác giả đã khảo cứu công phu, dựng truyện chặt chẽ, mà văn thì đẽo gọt, đối với một tiểu thuyết, có lẽ đẽo gọt quá theo quan niệm hiện thời. Từ đầu thế kĩ đến nay, ít cuốn trong loại đó có thể so sánh được: tiểu thuyết của Lan Khai chỉ là truyện tình mang tên “lịch sử” còn tiểu thuyết của Nguyễn Triệu Luật ngoài cuốn <i>Bốn con yêu và ba ông đồ</i> chỉ là lịch sử kí sự mượn cái tên “tiểu thuyết”. Đúng tên lịch sử kí sự tiểu thuyết chỉ có Nàng Ái cơ trong chậu úp. Tiếc thay, tác phẩm được ít người hoan nghênh có lẽ chỉ vì xuất hiện không đúng lúc.<br /><br />Tuy là của Mộng Tuyết nhưng công của Đông Hồ cũng đáng kể, không phải trong việc đề tựa và trình bày (có mấy bức tranh của ông) mà cả trong việc thu thập tài liệu, xây dựng cốt truyện nữa.<br /><br />Vậy ông đã trả ơn quê hương một cách xứng đáng. Hiện nay chúng ta biết được chút gì về Hà tiên hầu hết là nhờ ông cả.<br /><br />Thật cũng lạ! Họ Mạc và họ Lâm đều gốc gác ở Hoa Nam: Mạc ở Quảng đông, Lâm ở Phúc kiến, cùng qua Nam Việt một thời, cùng yêu ngay quê hương thứ hai của mình, rồi coi quê hương đó là quê hương thứ nhất, cũng tận tâm phục vụ cho tiếng mẹ đẻ; họ Mạc đến đời thứ bảy chỉ có hai đứa con gái, còn họ Lâm đến đời thứ tám cũng chỉ có hai người con gái (Đông Hồ là con trai duy nhất đời thứ bảy, sanh hai con trai đều không nuôi được).<br /><br />Hiện nay ngoài Mộng Tuyết ra (****), còn có nhà văn, nhà thơ nào gốc gác ở Hà tiên nữa không? Và Hà tiên bao giờ mới lại có được một họ làm rạng danh Hà tiên như họ Lâm? Nếu có thì thời đại đã thay đổi, Hà tiên sẽ không còn là nơi hẻo lánh nữa, văn học Việt Nam đã thống nhất thì sự nghiệp của người sau tất khác của người trước. Và chúng ta có thể nói rằng lịch sử văn học Hà tiên sẽ vĩnh viễn gắn liền với với hai họ Mạc, Lâm. Họ Mạc làm cho Hà tiên thành “văn hiến quốc”, họ Mạc mở đường, họ Lâm nối nghiệp: người sau sẽ chuyển qua một hướng khác chứ không tiếp tục nữa.<i><o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoNormal"><i><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><o:p> </o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal"><i><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal">Sàigòn 1-3-1971<o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><br />--------------------------<br /> <!--[if !supportLineBreakNewLine]--><br /> <!--[endif]--><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal">Ghi chú của Goldfish:<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal"><br />(*) Trong bài <i>Tao Đàn Chiêu Anh Các Hà Tiên</i> (Tạp chí Chiêu Anh Các số 62), N.T.D.M giảng từ hải ngoại trong câu “Không thể bảo rằng hải ngoại không có văn chương vậy” của Lê Quý Đôn như sau: “(…) người Đàng Ngoài muốn vào đến (Hà tiên) thì phải đi vòng đường biển, nên gọi là “hải ngoại”.<br />(**) Trong thư gửi cho Quách Tấn ngày 14/02/1984, cụ NHL viết: “(…) anh ấy (Đông Hồ) mới nằm xuống, vợ con lo xuất bản tất cả những bản thảo còn lại của anh ấy!” (Trích <i>Hồi Ký Quách Tấn</i>)<br />(***) Trong bài <i>Chùa Phù Dung – Hà Tiên </i>đăng trên website Diễn đàn trường Đại học Cần Thơ, tác giả tndung cho rằng: “Chùa Phù Dung do Mạc Thiên Tích con của Mạc Cửu xây ngay chân núi Bình San, để cho bà vợ thứ tu hành. Trước đó chùa có tên là am Phù Cừ. Phù Cừ và Phù Dung là tên hai giống Sen, một trắng, một hồng”. Trong bài <i>Di tích</i> (không rõ tác giả, <a href="http://www.vietshare.com/quehuong/kiengiang" target="_blank"><span style="mso-bidi-font-size:14.0pt;color:windowtext">www.vietshare.com/quehuong/kiengiang</span></a>) ghi: “Chùa Phù Dung: Còn gọi là Phù Cừ Am Tự, do tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tích (Mạc Thiên Tứ) dựng vào khoảng thế kỷ 18 tại chân Bình Sơn, thị xã Hà Tiên cho nàng Ái Cơ Phù Cừ (Nguyễn Thị Xuân), vợ thứ hai của ông”.<br />(****) Bà mất ngày 1-7-2007, thọ 93 tuổi. Ngoài các tác phẩm được cụ NHL nêu ra ở trên bà còn có cuốn hồi ký <i>Núi Mộng Gương Hồ</i> gồm ba tập, NXB Trẻ, 1988.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-style: italic"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-style: italic">Nguyễn Hiến Lê. <i>Mư</i></span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal">ời Câu Chuyện Văn Chương</span></i><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size: 10.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal">. </span><st1:place st="on"><st1:city st="on"><span lang="EN-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language:EN-CA; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal">Westminster</span></st1:city><span lang="EN-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language: EN-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal"> <st1:state st="on">CA</st1:state></span></st1:place><span lang="EN-CA" style="font-size: 13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language:EN-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal"> : </span><span lang="EN-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt;mso-ansi-language:EN-CA; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-style:italic">Văn Nghệ, 1986.<br /></span><span lang="FR-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt; mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-style:italic">Nguồn : </span><span lang="EN-CA" style="font-size:13.0pt;mso-bidi-font-size:10.0pt; mso-ansi-language:EN-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal">http://thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?t=10231<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span style="font-size:17.0pt;mso-bidi-font-size:14.0pt"><o:p> </o:p></span></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-66237359421163399922011-04-20T07:54:00.000-07:002011-04-20T07:57:15.494-07:00NGUOI HOA MINH HUONG O GIA DINH<p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:3"><b><span lang="FR" style="font-size:16.5pt;mso-ansi-language: FR">Vài nét về lịch sử người Minh Hương và người Hoa ở Nam bộ <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:3"><b><span lang="FR" style="font-size:14.5pt;mso-bidi-font-size: 11.5pt;mso-ansi-language:FR">Nguyễn Đức Hiệp </span></b><i><span lang="FR" style="font-size:14.5pt;mso-bidi-font-size:11.5pt;mso-ansi-language: FR;mso-bidi-font-weight:normal"> <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:3"><i><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight: normal">Thiên phục khả phong</span></i><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal"><br />(Hoành phi trong đình Minh hương Gia Thạnh)<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Trong lịch sử khẩn hoang ở <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ, sự đóng góp của người Minh hương và Hoa từ xưa đến nay về kinh tế, văn hóa thật là to lớn. Bao nhiêu danh nhân Việt nam trong lịch sử là có gốc Minh hương, từ Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản, Phan Xích Long.. đến những nhân vật có tên tuổi trong văn hóa nghệ thuật gần đây như Hồ Dzếnh, Trịnh Công Sơn, Vương Hồng Sễn, Lý Lan... Họ đã hòa nhập thành người Việt. Đã có nhiều tư liệu viết về Mạc Cửu và xứ Hà Tiên, với văn học Hà Tiên độc đáo, đỉnh cao của người Minh hương đến khai khẩn <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ. Ở đây tôi sẽ chú trọng về người Minh hương và Hoa ở những vùng khác trên <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ, chủ yếu là vùng Đồng Nai-Gia Định.<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:4"><b><span style="font-size:12.0pt">Lịch sử ban đầu - Những nhân vật tiên phong khai phá<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Ngoài Hà Tiên, thì nơi phát triển đầu tiên của người Minh hương là xứ Đồng Nai, gồm Cù lao phố, Biên Hòa, Bến Nghé-Chợ Lớn. Nông Nại đại phố tức là Chợ Lớn của xứ Đồng Nai. Đồng Nai âm theo tiếng Quảng Đông là Nông Nại. Một trong những người đến cùng thời với Trần Thượng Xuyên (hay còn gọi là Trần Thắng Tài) là ông nội của Trịnh Hoài Đức từ tỉnh Phúc Kiến. Trong miếu Quan Đế ngày nay, ông có tên trong danh sách những người sáng lập ra miếu này ở Cù Lao phố năm 1684 (nay là xã Hiệp Hoà). Miếu Quan Đế (Chùa Ông) hiện nay vẫn còn và là miếu thờ cổ nhất ở <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ. Và cha của Trịnh Hoài Đức sau đó cũng góp công vào hương khói của chùa Quan Đế.<br /><br />Tư liệu quí giá và phong phú nhất về lịch sử khai khẩn Nam bộ là quyển Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức. Trịnh Hoài Đức lúc thiếu thời học với Võ Trường Toản.<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Trịnh Hoài Đức viết về Cù lao Phố (18):<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"> "Nông Nại (tức Đồng Nai) đại phố, lúc đầu do Trần Thượng Xuyên khai phá, tức Trần Thắng Tài chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố xá mái ngói tường vôi, lầu cao, quán rộng, dọc theo bờ sông liên lạc dài 5 dặm, chia và vạch làm 3 đường phố, đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lát gạch xanh, đường rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đến đậu, ấy là một chỗ đại đô hội mà những nhà buôn bán giàu có ở đây là nhiều nhất hơn thảy những nơi khác".<br /><br />Cù lao Phố trở thành một cảng quan trọng đầu tiên của Nam bộ, đón nhận thương thuyền nước ngoài, hưng thịnh suốt khoảng 90 năm từ khi Trần Thượng Xuyên đến với quân đội, suy thoái từ khoảng 1775, tức là khoảng sau 90 năm, để nhường cho Chợ Lớn, Bến Nghé (Sài Gòn) sau này. Trước khi Trần Thượng Xuyên được chúa Nguyễn đưa đến cù lao Phố, đã có người Việt từ miền Trung đến ở núi Dinh (Mô Xoài) vùng Bà Rịa từ năm 1658 và vùng Long Thành. Nhờ vậy, khi Trần Thượng Xuyên đến cù lao Phố đã có dân Việt, dĩ nhiên người dân tộc như người Mạ, người Khmer, Chăm cũng tới lui trao đổi hàng hóa.<br /><br />Trần Thượng Xuyên đến với quân sĩ và gia đ ình mang theo, nhiều binh sĩ này vẫn tiếp tục cầm vũ khí theo đuổi binh nghiệp nhưng một số lập nghiệp tại vùng đất mới. Sau một thời gian, thêm một số cư dân và thương gia đến sau, với vốn liếng để lập chợ. Cù lao Phố trở thành cảng sầm uất xuất nhập khẩu, với kho hàng dự trữ hàng hóa nhập vào và dự trữ hàng hóa thâu mua từ nhiều nguồn của cư dân sống trong vùng Đồng Nai như lâm sản, ngà voi, nai, heo rừng, sừng tê giác..<br /><br />Nguyễn Hữu Cảnh, do chúa Nguyễn gởi vào sau này để cai quản vùng đất mới, đến Cù lao Phố ngay lúc cù lao với cảng đang hưng thịnh, nhưng trụ sở hành chánh và đồn binh đặt ở Sài Gòn. Ông Nguyễn Hữu Cảnh vào cù lao Phố với thủy quân. Khi ông mất ở Rạch Gầm, quan tài được đưa về Cù lao Phố, rồi từ đấy về miền Trung theo đường thủy, chôn ở quê ông là Quảng Bình. Chứng tỏ Cù lao Phố lúc đó là cảng quan trọng, sầm uất nơi cập bến của tàu bè khi đi và đến Đồng Nai, cửa ngỏ của <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ. Hiện nay ở Cù lao Phố còn đền thờ mộ tượng trưng ông, do dân chúng thiết lập để nhớ ơn ông.<br /><br />Cù lao Phố bắt đầu suy thoái khi lưu dân càng xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long càng nhiều, biến vùng Mỹ Tho và các vùng phụ cận thành nơi sản xuất lúa gạo, cây trái, thủy sản lớn nhất của miền đất mới Gia Định - Đồng Nai. Hơn nữa Cù lao Phố thiếu hàng hóa đưa ra ngoài vì lâm sản dần dần ít đi và không còn là sản phẩm chính cần ở thị trường. Nhiều thương gia lần đời xuống Sài Gòn-Chợ Lớn để mua bán nguồn lúa gạo dồi dào của đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu dư để xuất đi nhiều nơi ở Đàng Ngoài và nhiều nơi khác mà lúa gạo là nhu yếu phẩm chính. Cù Lao Phố tàn lụi và chấm dứt khi quân Tây Sơn do Nguyễn Nhạc đến tấn công, đốt phá phố cù lao và giết rất nhiều người Minh hương trong vùng. Đại Nam nhất thống chí ghi rõ quân Tây Sơn đến "dỡ lấy hết nhà cửa, gạch đá của cải chở về Quy Nhơn, từ đời Gia Long trung hưng tuy người ta có trở về, nhưng trăm phần chưa được một". Những người sống sót đều chạy xuống vùng Bến Nghé và Chợ Lớn lập phố xá và chợ mới gần chợ Tân Kiểng. Từ đó Chợ Lớn càng trở nên phát triển hơn và là trung tâm thương mại ở Gia Định và miền <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>. Thương thuyền khắp nơi vào buôn bán và chở sản phẩm như lúa gạo đi các vùng và các nước như Trung quốc và Mã Lai.<br /><br />Năm 1822, khi người Anh ỏ Bengal (Ấn độ) và Singpapore gởi ông John Crawfurd vào Gia Định gặp Tổng trấn Lê Văn Duyệt để tìm hiểu về thương mại, Crawfurd có viết về Chợ Lớn (lúc đó gọi là Saigon) và Bến Nghé như sau “..Đây là lần đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ thấy rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt trông nó còn sầm uất hơn, không khí mát mẻ hơn, hàng hóa phong phú hơn, giá cả hợp lý hơn và an ninh ở đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giác như đây là một vương quốc lý tưởng. . . . Dinh Tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm. Các thành trì nằm ở bờ sông An Thông hà. Nơi đây buôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đây được Tổng trấn cho nhập hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Định. Đông nhất nơi đây là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ đều có nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành. Trộm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm. Tổng trấn rất nhân từ, tha cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây.. . . Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi, sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp.”. Cũng theo Crawfurd thì ở Chợ Lớn nhà cửa của thương gia Trung Hoa đồ sộ hơn nhà cửa của người Việt nhiều. Đang khi John Crawfurd đi thơ thẩn, ba gia đình Trung Hoa loại khá giả nhất đã ra cửa mời ông vào chơi (20).<br /><br />Nếu cảng cù lao Phố vẫn còn thì đây là khu phố cổ thương mại thứ hai ở Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> sau phố cổ Hội An, được thành lập với sự đóng góp lớn của người Hoa. Cách đây 14 năm (1993), mộ tướng Trần Thượng Xuyên được khám phá nằm ở Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, cạnh hữu ngạn sông Đồng Nai, mà tôi có dịp đến thăm (9). Đình Tân Lân, ỏ thành phố Biên Hòa, cạnh cù lao Phố là nơi thờ tướng Trần Thượng Xuyên có sắc phong của vua Minh Mạng. Được xếp hạng là một di tích lịch sử văn hóa. Đình ở vị trí rất đẹp, trước măt đền là sông Đồng Nai với cây cổ thụ lớn ngay cạnh sông. Tân Lân là tên gọi của vùng bên phía chợ Biên Hòa nơi tướng Trần Thượng Xuyên xưa kia đóng quân, sử ghi là xứ Bàn Lân, sau đổi là Tân Lân. Bàn Lân có thể là do chữ Bằng Lăng nói trại ra. Cây bằng lăng là cây bản địa, mọc rất nhiều trước đây trong vùng Đồng Nai và Gia Định. Hiện nay cây bằng lan còn có thể tìm thấy trong các rừng còn lại ở Đông Nam bộ (như rừng Cát Tiên) và một vài tỉnh ở Tây nguyên (Lâm Đồng, Dak Lak).<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:4"><b><span style="font-size:12.0pt">Văn hóa<br /> <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Có thể thấy được sinh hoạt văn hóa sinh động của người Hoa trước đây và hiện nay thì không có gì hơn là đến khu Chợ Lớn. Tôi đi cùng với một người bạn gốc Hoa vào Chợ Lớn thăm viếng các nhà văn hóa người Hoa. Trong Nhà truyền thống góc đường Triệu Quang Phục và Nguyễn Trãi (xưa gọi là đường Cây Mai) thường có triễn lãm và các hình ảnh xưa ở Chợ Lớn cùng các sản phẩm mỹ thuật. Nhà Truyền thống trước đây là nhà hát Tam Đa của người Hoa trong vùng. Cạnh nhà truyền thống ở số 137 đường Triệu Quang Phục là trụ sở Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc, chủ yếu là của người Hoa. Trụ sở là Hội quán của chùa bà (Thiên Hậu) cho mượn. Chùa Thiên Hậu nằm ở góc đường Nguyễn Trãi và Triệu Quang Phục. Đường Triệu Quang Phục xưa là đường Canton (Quảng Đông) trong thời Pháp và là trung tâm Chợ Lớn. Phim “Người Tình”, phỏng theo tự truyện ‘L’Amant‘ của nhà văn nữ Pháp Margurette Durras, được quay ở đường này. Nhà Xã Tây ở cạnh đây (gọi là Xã Tây vì là tòa nhà hành chính của Pháp chuyên lo chuyện nhập, xuất cảnh và giấy tờ). Vùng này ngày xưa cũng được gọi là Minh Hương xã.<br /><br />Anh Trần Đại Tân, người Triều châu, quê ở Sóc Trăng là người biết nhiều về lịch sử người Minh hương ở Nam bộ. Anh Tân tặng tôi quyển sách của anh viết về người Hoa ở <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ (4). Nói chuyện về các địa lý và phố xưa cũng như các người Hoa danh tiếng trong lịch sử và hiện nay, như Trần Thành trước đây và Lý Ngọc Minh hiện nay, với xưởng gốm ở Bình Dương. Hoạt động của Hội gồm hội họa, thư pháp, nhiếp ảnh, xuất bản văn học. Ngoài ra còn có ban bảo trợ văn hóa người Hoa, với chi hội ca múa nhạc có trụ sở là nhà văn hóa Quận 5, gần Đại Thế giới, đường Trần Hưng Đạo.<br /><br />Từ hội quán, chúng tôi đi bộ đến thăm chùa Thiên Hậu do người Hoa Quảng Đông xây dựng, rất nhiều du khách nước ngoài viếng thăm. Kiến trúc chùa rất đẹp với các tượng trên nóc, mái chùa bằng sành sứ rất công phu và các tranh khắc trên tường là những tuyệt tác rất trang nhã của nghệ thuật người Hoa. Cạnh chùa Thiên hậu là đền Tam Sơn, trên đường Triệu Quang Phục, của người Phúc Kiến (Phúc Châu), nơi đây thờ Ngọc Hoàng, Quan âm, Quan công.., không có chữ quốc ngữ chỉ có chữ Hán trong và ngoài đền. Theo anh Tân, thì kế bên đền Tam Sơn, xưa kia có Thất phủ cổ miếu, nhưng đã bị phá đi, hiện nay là xí nghiệp in, chỉ còn lại một bức tường. Đây là một mất mác văn hóa to lớn.<br /><br />Đến Đình Minh Hương Gia Thạnh trên đường Trần Hưng Đạo, gặp lại bác Vương Quang Tâm, hiện nay là người cai quản đình mà năm trước tôi có đến. Đình là tòa nhà cổ nhất <st1:place st="on">Saigon</st1:place>, xây năm 1789, được công nhận là một di tích lịch sử. Năm 1698, ở vùng này đã hình thành nên làng Minh Hương ở Gia Thạnh, làng Minh hương còn để lại câu ca dao<br />Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng<br />Đố ai lịch sự cho bằng làng Minh Hương.<br /><br />Lần trùng tu cuối cùng của đình là vào năm 1921. Trong đình, bên phải thờ Trần Thượng Xuyên (có 2 di ảnh tướng Trần Thượng Xuyên) và Nguyễn Hữu Cảnh, bên trái thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Gia Tịnh. Cạnh đó là 1 chuông đồng do vua Minh Mạng tặng, với sắc phong và chuyển tên từ làng thành đình. Chuông được gióng một năm một lần vào ngày 16/1. Sau chánh điện là sân rất rộng gọi là Thiên Quang Tỉnh (giếng trời). Đình Minh hương Gia Thạnh cũng là nơi tề tựu, gặp gỡ của nhóm Bình Dương thi xã, sáng lập bởi Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, với nhiều nhân sĩ đến đây để ngâm thơ, xướng họa vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19.<br /><br />Chùa Giác Lâm là ngôi chùa thuộc loại xưa nhất <st1:place st="on">Saigon</st1:place>. Chùa nằm ở Phú Thọ Hoà kế quận 5 (nay là đường Lạc Long Quân, quận Tân Bình), vẫn còn giữ nguyên không thay đổi nhiều sau bao năm từ lúc thành lập. Chùa được cư sĩ người Minh hương tên là Lý Thụy Long xây dựng vào năm 1744 ở vùng thanh vắng nhiều cây cối không xa chùa Cây Mai và Gò cây mai, một nơi thanh lam thắng cảnh của Gia Định mà Gia Định thi xã của Trịnh Hoài Đức thường hay nhóm họp làm thơ. Lý Thụy Long có tên riêng là Cẩm, chuyên nghề đan đệm bán nên người địa phương gọi là ông Cẩm Đệm. Vì thế chùa còn có tên là Cẩm Sơn, Sơn Can hay Cẩm Đệm. Năm 1772 hòa thượng Viên Quang tới trụ trì, từ đó mới đổi tên chùa là Giác Lâm. Khi xưa lúc chùa được xây dựng như một cái am, xa cư dân, rất thanh vắng, cây cối rậm rạp, thích hợp cho sự tu dưỡng, tu hành. Trong quyển Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã miêu tả cảnh chùa như sau: "Chùa toạ lạc trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán Bích ba dặm..., cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tuy nhỏ mà nhã thú!...". Chùa hiện nay được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.<br /><br />Nghề làm gốm là nghề tiểu công nghiệp lâu đời, bắt đầu từ khi người Minh hương đến định cư ở xứ Đồng Nai. Hiện nay ở tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, đa số các chủ lò gốm là do người Việt gốc Hoa, hay Minh hương đảm trách. Họ đã làm nghề này cha truyền con nối bao nhiều đời cho đến nay. Đây là hai trung tâm gốm sứ lớn nhất <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ với nhiều thợ, nghệ nhân người Hoa. Vào thế kỷ 18, đã tồn tại một trung tâm gốm sứ mang tên Xóm Lò Gốm ở vùng quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (phía Chợ Lớn). Xung quanh vùng này còn có nhiều địa danh như Lò Rèn, Xóm Lò Siêu, xóm Lò Gạch .. Địa bàn xóm Lò Gốm xưa khá rộng, gồm các làng Hòa Lục (quận 8), Phú Định-Phú Lâm (quận 6), Phú Giáo-Gò Cây Mai (quận 11) trải dài đôi bờ kênh Ruột Ngựa, kênh-rạch Lò Gốm. Những con kênh này là tuyến đường giao thông chính của khu vực Chợ Lớn, dùng ghe xuồng chở hàng sản xuất đến các tỉnh miền Tây (15).<br /><br />Gốm vùng Saigon-Gia Định-Đồng Nai ở thế kỷ 18,19 và 20 nổi tiếng có đặc thù riêng và nổi tiếng tốt mà nhiều nhà văn hóa sử, khảo cổ trước đây gọi là gốm "Cây Mai" (được biết đến qua những gốm xưa tìm được ở gò Cây Mai và khu vực đường Cây Mai, Chợ Lớn) nay được xếp loại và gọi chung là gốm Biên Hòa, Saigon. Ngày nay chỉ còn lại di tích lò gốm Hưng Lợi thuộc làng Hòa Lục (phường 16 quận 8), gần làng Phú Định, nằm ven kênh Ruột Ngựa, của xóm Lò Gốm xưa. Cuộc khai quật năm 1997-1998 đã tìm thấy tại đây phế tích 3 lò gốm, trên một gò lớn chứa đầy mảnh gốm của các loại lu, khạp, siêu, chậu.. (15) Ngày nay những nơi còn tiếp tục truyền thống gốm cổ truyền của người Hoa hiện nay còn rõ nhất ở những lò làm lu gốm ở Biên Hòa hoặc ở khu vực Q.9 TPHCM (Thủ Đức cũ, gần Công viên Văn hóa dân tộc đang xây dựng), và một số cơ sở nhỏ sản xuất đồ gốm gia dụng ở vùng Lái Thiêu.<br /><br />Ngoài ra, anh hưởng văn hóa mà người Minh Hương để lại sâu đậm nhất trong đời sống <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ là ngôn ngữ. Tiếng Việt miền <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> được lưu dân Minh hương và Hoa mang vào bổ xung cho tiếng Việt thêm phong phú. Theo Bình Nguyên Lộc, những từ sau có nguồn gốc Minh hương (19)<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:4"><b><span style="font-size:12.0pt">Các từ gốc Triều Châu<br /> <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Lẩu: Có nguồn gốc từ lẩu là một món canh của Triều Châu, đựng trong một thứ bát đặc biệt bằng Laiton.<br />Tía: Chính các chú rể Triều Châu, lưu vong nhà Minh đã đưa ra danh từ Tía vào <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>, và bị ta hiểu là Cha.<br />Hên: Do Hưng. Triều Châu đưa vào và họ đọc là Hinh thì đáng lý ta phải viết là Hênh.<br />Xui: Tiếng nầy đất Bắc có nhưng vay mượn lâu đời hơn và nói là Xúi Quẩy. Do chữ Suy mà ra, đọc theo Triều Châu, Hên Xui = May Rủi.<br />Khổ Tai: Một món ăn khác mà dân miền <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> rất ưa và họ gọi là KHỔ TAI. do người Triều Châu đọc Hô Tai (Hải Táo), một thứ rong biển mà họ nấu với đường để bán cho dân miền <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> ăn.<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:4"><b><span style="font-size:12.0pt">Các từ gốc Quảng Đông<br /> <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Xí Mụi: do Quảng Đông gọi Xíu Mụi, chữ Nho là Tiêu Mai.<br />Công xi: Công Ty, do Quảng Đông đưa vào.<br />Hủ tiếu: Không biết chữ ra sao, nhưng do Quảng Đông đưa vào, họ nói là Phải, không hiểu sao ta lại biến thành Hủ Tiếu.<br />Xíu Mại: Không biết chữ nghĩa ra sao, nhưng đa số các món ăn đều do Quảng Đông đưa vào.<br />Chạp Phô: Chỉ là Tạp hóa. Nhưng chính người Quảng Đông lại cho nó cái nghĩa hạn chế là thực phẩm: trứng vịt, tôm khô, cá khô,v.v. còn các cửa hàng bán các thứ khác cũng tạp nhạp lại không được gọi là chạp phô.<br />Giò Chá Quảy: Thật đúng là Dầu chá quảy tức con quỷ nướng trong dầu, chỉ loại bánh bột mì chiên mỡ.<br />Ly: Cốc bằng pha lê, người Quảng Đông gọi là Pò Lý Púi, tức Pha Lê Bôi, ta nuốt hết, chỉ chừa lại Lý và đọc là Ly.<br />Xì Thẩu: Chữ Nho là Sự Đầu, chủ sự, nhưng bị ta hiểu là Ông chủ.<br /><br />Điều này cho ta thấy miền <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> ban đầu chịu ảnh hưởng nhiều của phong tục, sinh hoạt, tập quán người Minh hương.<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:4"><b><span style="font-size:12.0pt">Các tỉnh ở <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Trong năm 2007, tôi đã có dịp đi thăm một số tỉnh, thị xã ở <st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region> bộ, sau đây là một vài nét sơ lược về người Minh Hương và Hoa ngày nay ở các tỉnh <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ<br /><br /></span><b><span style="font-size:11.5pt">Cần Thơ:</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal"> </span><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Dọc bến Ninh Kiều, bên sông Hậu có chùa Ông của người Quảng Đông. Chùa được xây ở một vị trí khác cách đây hơn 70 năm, chùa được dời đến vị trí đẹp ở bến Ninh Kiều gần đây sau này. Kiến trúc chùa bên trong được xây theo chữ Quốc. Bên trái khi bước qua công là tượng tướng Mã Tiền đứng cạnh tượng ngưa, bên phải là tượng thờ ông Phước mang đến may mắn. Giữa đền thờ Quan Công. Dọc theo bến Ninh Kiều, đường Hai Bà Trưng, gần phía khu chợ ngày trước, còn vài nhà xưa của người Hoa và nhiều cửa tiệm của người Hoa trên các đường Châu Văn Liêm, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Võ Văn Tần đổ ra bến Ninh Kiều. Sau năm 1975, cộng đồng người Hoa ở Cần Thơ có ít đi nhiều so với trước.<br /><br /></span><b><span style="font-size:11.5pt">Sóc Trăng:</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"> Ngoài thị xã Sóc Trăng, có rất nhiều cửa hiệu bán bánh pía từ các cơ sở làm <i>bánh pía</i> An Thành, Tân Hưng, Công Lệ Thành... bánh pía là đặc sản Sóc Trăng của người Hoa Triều Châu làm ra. Nhiều vùng ở tỉnh Sóc Trăng, như huyện Vĩnh Châu, nơi có nhiều vườn nhãn, có rất nhiều người Khmer và Hoa cư ngụ, hơn cả người Việt. Đa số dân ở vùng này nói 3 thứ tiếng Khmer, Triều Châu, Việt. Thị xã Sóc Trăng nay đã trở nên phồn thịnh phát đạt, phố xá ban đêm rất đông đảo xe cộ. Đường Hai Bà Trưng gần chợ có nhiều cửa tiệm người Hoa, không khác gì đường Trần Hưng Đạo, Chợ Lớn. Trên đường Trần Minh Phú góc đường Ngô Quyền là Hội tương tế người Hoa (18-20 Trần Minh Phú) gần bờ sông Sóc Trăng. Một trong những nhân vật văn hóa nổi tiếng sinh ra ở Sóc Trăng là ông Vương Hồng Sễn, người gốc Triều Châu. Ông đã ghi lại và sưu tập những chuyện xưa, sự kiện từ đầu thế kỷ 20 xảy ra ở Nam bộ và vùng Saigon Gia Định, để lại nhiều tài liệu quý giá. Hiện nay bộ sưu tập gốm của ông được đặt ở phòng mang tên Vương Hồng Sễn trong Viện Bảo tàng Lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh.<br /><br /></span><b><span style="font-size:11.5pt">Bảo Lộc: </span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Thị trấn lớn và trù phú nhất Lâm Đồng sau Đà Lạt là Bảo Lộc, giàu có nhờ các đồn điền trà và cafe chung quanh vùng. Ở đây có cộng đồng người Hoa khá đông so với các vùng khác trong tỉnh. Tôi có ghé vào tiệm bán trà, cafe Lâm Kim Hoa của người Hoa. Chủ là 2 chị em gốc Phúc Kiến, người chị đang ở Mỹ, có đồn điền mướn nhiều công nhân và người giúp việc ở tiệm trưng bày và thử trà, cafe. Gần Ninh Chữ, Ninh Thuận, có một nghĩa trang Triều Châu, ở Phan Rang cộng đồng người Hoa có khoảng từ 3000 đến 4000 người.<br /><br />Không thể liệt kê hết các nhân vật người Minh hương từ trước đến nay trong quá trình lịch sử nhiều thời đã đóng góp vào văn hóa Việt Nam như Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh, Phan Thanh Giản, Mạc Thiên Tích, Vương Hồng S</span><span lang="FR" style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language: FR;mso-bidi-font-weight:normal">ể</span><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal">n... Ở đây chỉ nêu lên vài nhân vật tiêu biểu của các thời kỳ đã qua trong lịch sử.<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><b><span style="font-size:11.5pt">Trịnh Hoài Đức</span></b><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Ông nổi tiếng và được nhớ đến nhiều trong lịch sử không phải là vì ông là một vị đại thần dưới hai triều vua Gia Long và Minh Mạng được trọng dụng và làm đến chức Thượng thư bộ Hộ mà là vì tác phẩm “Gia Định thành thông chí “ có giá trị văn hóa, địa chí về miền Nam trong giai đoạn mở mang cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Tác phẩm duy nhất này về miền <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> thời khai hoang mở đất, cho ta những tư liệu quí giá về con người, phong tục, đất đai, địa chí, lịch sử... Nếu nhà bác học Lê Quí Đôn có Vân Đài Loại Ngữ cho Bắc và Trung bộ thì Trịnh Hoài Đức có “Gia Định thành thông chí” cho giai đoạn miền Nam mở đất.<br /><br />Ngoài ra ông còn là một nhà thơ, để lại các bài thơ tả cảnh đất Gia Định trong tập thơ văn “Cấn Trai thi tập”. Ông là và các bạn thơ sáng lập “Bình Dương thi xã“ và là một trong “Gia Định tam thi” (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh) thường tập họp làm thơ ở những nơi như chùa Giác Lâm, gò Cây Mai (nay là Phụng Sơn tự, đường 3/2 Saigon), Minh hương gia thạnh, chùa Cây Mai..Trong bài thơ tả cảnh ở khu Đầm Sen (Saigon) cuối thế kỷ 18, cho ta thấy cảnh thanh tịnh, hoang sơ ở <st1:place st="on">Saigon</st1:place> hơn 200 năm nay (11).<br />Liên Chiểu Miên Âu<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt: auto;text-align:center"><i><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight: normal">Âm âm hạm đạm thủy trung tiêu<br />Dục bãi sa âu liễm ngọc kiều<br />Tầm mộng phù tung y lục cái,<br />Vong cơ nhàn khách chẩm hương miệu<br />Nặc tha xảo thước thu tang đỗ,<br />Nhiệm nhĩ lưu oanh chức liễu điều,<br />Du nữ thái liên hưu loạn động,<br />Cựu minh do đãi trục lai triều</span></i><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt: auto;text-align:center"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight: normal">Trịnh Hoài Đức<i><br />(Cấn trai thi tập)</i><br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt: auto;text-align:center"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight: normal">(Dịch nghĩa:<br />Chim âu (vịt trời, le le) ngủ ở Đầm Sen<br />Hoa sen sum suê vươn cao lên trong nước<br />Tắm xong, chim âu thu lông ngọc lại<br />Tìm mộng, bước chân trôi nổi đi theo các lọng xanh<br />Quên đời khách nhàn nhã gối đầu vào cỏ thơm,<br />Gần chim thước khéo léo lấy vỏ gốc cây dâu (để làm tổ)<br />Mặc chim oanh lanh lợi dệt cành liễu<br />Các cô g ái đến hái sen đ ừng làm kinh động<br />Hẹn cũ * còn chờ theo nước triều lên. )<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br />* Hẹn cũ: Dịch chữ Hán “cựu minh” do điển “âu minh” chỉ người ở ẩn chốn mây nước như có ước hẹn làm bạn với chim âu <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br /><br />Năm 1825, ông mất ở Phú Xuân, linh cửu được tổng trấn Lê Văn Duyệt thân hành hộ tống đưa về quê mẹ ở Biên Hoà chôn ở phường Trung Dũng, không xa Cù Lao phố. Năm 1938, trường Viễn đông Bác cổ xếp mộ ông là di tích và hiện nay là di tích lịch sử quốc gia.<br /><br />Diệp Văn Cương, Diệp Văn Kỳ<br /><br />Diệp Văn Cương, hiệu Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, vì quê quán ông ở An Nhơn (gần Gò Vấp), Gia Định. Thuở nhỏ, Diệp Văn Cương giỏi chữ Hán và quốc ngữ nên được học bổng du học và đỗ tú tài ở Pháp. Ông về nước dạy tại trường Chasseloup Laubat (tục danh trường “Bổn quốc”)(1). Sau làm thông ngôn cho toà Khâm sứ Huế và là thầy dạy học cho vua Đồng Khánh. Ông lấy công chúa, Công nữ Thiện Niệm, con của Thoại Thái Vương Hồng Y, em vua Dục Đức. Ông có vai trò trong việc đưa vua Thành Thái lên ngôi, sau khi vua Đồng Khánh mất.<br /><br />Là một trí thức lớn ở miền <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>, năm 1868, ông là chủ biên tờ Phan Yên báo tại Sài Gòn. Tờ báo quốc ngữ thứ hai sau Gia Định báo (1865) do Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của chủ biên. Nội dung tương tự như Gia Định báo (lúc đầu bài trong Gia Định báo đa số là công báo của chính quyền Pháp), với tin địa phương và thư độc giả bằng chữ quốc ngữ, nhưng sau đó có các bài chính trị, nên báo bị đóng cửa. Tác phẩm của Diệp Văn Cương gồm có: Syllabaire quốc ngữ (sách vần quốc ngữ) (1919), Recueil de morale annamite (1917), dịch tập Phong Hóa từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ.<br /><br />Hãy nghe Vương Hồng Sển (1) kể về ông:“Gần tuổi về hưu, ông trở lại dạy Sử học và Việt văn trường Chasseloup-Laubat như trước. Kẻ viết bài này khi còn học lớp dưới, đã từng đứng nghe lóm ngoài cửa và ân hận không được thọ giáo cùng ông. Khoảng năm 1919, dạy sử học, ông lấy Sử Diễn Ca Lê Ngọc Cát ra bình chú, dạy Việt Văn ông đã biết đem những đoạn xuất sắc trong Kiều, Lục Vân Tiên, và Chinh Phụ Ngâm ra giải thích cũng là mới lạ. Người ông nẫm thấp hùng vĩ, lịch duyệt Bắc Nam, ông ngâm thi sang sảng, nói tiếng Tây rất "giòn", bình sanh sở thích hát bội, roi chầu bóng bẩy rất mực phong lưu, tuồng hát nằm lòng, cô đào anh kép phục sát đất! Vãn hát ông rước luôn đào để cả y phục và áo mão về nhà hát lại ông thưởng thức riêng.”<br /><br /></span><b><span style="font-size:11.5pt">Diệp Văn Kỳ</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">, con trai của Diệp Văn Cương, đỗ cử nhân, luật sư, cũng là một nhà báo tiền phong rất có tiếng tăm như cha. Mua lại tờ Đông Pháp thời báo (1927) từ ông Nguyễn Kim Đính, sau đổi thành nhật báo Thần Chung, được sự cộng tác đắc lực của nhóm Nguyễn Văn Bá, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Đào Trinh Nhất, Trần Huy Liệu, Phan Khôi, v.v.. Từ khi làm chủ, ông đã chuyển Đông Pháp thời báo theo hướng một tờ báo đối lập và Đông Pháp thời báo trở thành tờ báo có rất đông bạn đọc khắp Nam, Trung, Bắc. Cũng như cha, ông viết nhiều, đôi khi cùng với Phan Khôi (dưới bút hiệu Tân Việt) và rất mê kịch, tuồng (13). Ông là nhà báo dân tộc, lên tiếng bảo vệ sự hợp nhất chữ quốc ngữ ở 3 kỳ chống lại sự chia rẽ trong những tranh luận tách riêng sách giáo khoa quốc ngữ ở trong Nam (14) và là người rất rộng lượng, giúp đở nhiều nhà văn, nhà báo như Mộng Đài, Tản Đà..<br /><br />Ông giúp đỡ thi sĩ Tản Đà, khi Tản Đà thất bại làm báo “An Nam tạp chí” thiếu nợ phải vào Nam kiếm sống khoảng năm 1926, trong lúc tình cờ gặp Tản Đà đang lang thang trên đường Catinat (đường Đồng Khởi) trước nhà hàng Continental mà ông và một số bạn đang ngồi bên trong. Mến tài Tản Đà, ông cho 2000$ (một số tiền lớn thời đó) để Tản Đà trở ra Bắc trang trãi nợ nần và vào <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> viết cho tờ Đông Pháp thời báo. Ông trã rất hậu hĩnh mỗi tháng cho thi sĩ Tản Đà bằng tiền lương quận trưởng (12) và giúp đỡ định cư ở Saigon (Xóm Gà, Gia Định) trong ngôi nhà rộng, tĩnh mịch để thi sĩ có cảm hứng. Tuy vậy thi sĩ Tản Đà cũng có lúc báo sắp lên khuôn mà chưa thấy đưa bài. Ông Kỳ phải kêu tùy phái vào Xóm Gà để hối thúc bài. Tản Đà vẫn thản nhiên thốt một câu lịch sử để đời trong văn học “Làm thơ đâu phải bửa củi mà muốn lúc nào có lúc ấy”.<br /><br />Nhà thơ thời tiền chiến Mộng Đài cũng là một người thuở còn trẻ khi vào <st1:place st="on">Saigon</st1:place> đã được ông giúp đỡ. Trong dịp cùng với nhà báo Hoa Đường xông đất đầu năm đến nhà Diệp Văn Kỳ thăm, Mộng Đài viết trong hồi ký như sau<br /><br />“Sau khi cho phép Hoa Đường múa “Gioọc” (“Giọc” là giọc tẩu, ống hút thuốc phiện) đầu năm, cụ Diệp quay lại nắm lấy tay tôi và bằng giọng thật ấm áp nói:<br /><br />-“Xừ Mạnh đến với anh, anh chẳng biết chúc gì cho chú em mà chỉ có mỗi bài thơ này tặng nhau ngày Xuân”.<br /><br />Rồi cụ Diệp cất tiếng cao ngâm bài thơ ứng khẩu ấy như sau:<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt: auto;text-align:center"><i><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight: normal">Cái kiếp trần duyên, kiếp đọa đày<br />Non Tiên sao khéo lạc loài đây?!<br />Trớ trêu thu thủy hoa in nguyệt<br />Đỏng đảnh Xuân Tiêu liễu vẽ mày<br />Sóng sắc lập lòe con nước động<br />Gió hương phưởng phất cánh hoa lay.<br />Trông em khó nổi vô tình được<br />Mượn bút làm duyên để giải khuây.</span></i><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal"><br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Ngâm xong cụ lấy bút viết ngay vào tờ giấy đoạn vào<br />phòng trong bỏ trong phong bì đỏ ra trao tôi:<br /><br />-“Bài thơ này tặng em. Ý tứ của bài thơ thì em về chiêm nghiệm lấy”.<br />Đêm hôm ấy tôi về đến nhà, mở ra để đọc lại cho vui. Không ngờ ngoài tờ thơ cụ viết, cụ còn để ngay ngắn tờ “Con Công” năm đồng ngay trong phong bì để lì xì cùng mấy chữ ngoằn ngoèo trong tờ giấy đỏ:<br /><br />“Cho người em cưng nhất của ta”. Cụ ký vào bên dưới”.<br /><br />Năm 1945, ông Diệp Văn Kỳ bị ám sát ở Trảng Bàng (Tây Ninh) vì bị coi là thân Nhật, uổng mất một tài năng trong lịch sử báo chí Nam kỳ. Ngoài số bài báo ông viết và viết chung với Phan Khôi, còn có tác phẩm để lại: Thần ái tình (Rabindranath Tagore), Diệp Văn Kỳ dịch, 1929. Biệt thự nhà ông trên đường Trần Hưng Đạo, được quân đội Nhật trưng dụng dùng làm nơi chỉ huy, sau quân đội Anh giải giới giao cho Pháp và được chế độ củ dùng làm Bộ Tổng Tham Mưu.<br /><br /></span><b><span style="font-size:11.5pt">Vương Hồng Sển</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br /><br />Sinh ở Sóc Trăng, trong gia đình gốc Phúc Kiến đã định cư từ lâu đời ở Sóc Trăng. Ông là nhà văn rất Nam bộ trong cuộc sống và phong cách viết văn. Những tư liệu, dữ kiện, biến cố, nhân vật và nhận xét ông thâu thập trong suốt từ các năm ở thập niên 1920 cho đến hết thế kỷ 20 ở miền Nam và các nơi ông có dịp viếng thăm mà ông viết ra là những tài liệu lịch sử và văn hóa quý giá cho những ai muốn tìm hiểu về những vùng đất, tỉnh thành ở miền Nam. . Khi còn trẻ ở Sóc Trăng, ông làm công chức Phó ban hành chánh của chính phủ thời Pháp thuộc rồi sau đó lên Saigon làm quản thủ thư viện trong Viện bảo tàng <st1:place st="on">Saigon</st1:place>. Ông có trí nhớ rất giỏi từng chi tiết, rất mê sưu tầm tư liệu lớn, nhỏ và đồ cổ như đồ gốm sành, sứ.<br /><br />Cùng thời với Sơn <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>, ông ít viết truyện nhưng rất nhiều bút ký. Văn ông rất bình dân, dễ đọc và có duyên. Ngoài các nhân vật nổi tiếng ông có gặp và viết như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Đình Nhu .. ông còn viết về những người thân, người thầy, người bạn, quen biết trong sở làm, học đường, nhà trọ... đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Hãy xem một đoạn ông viết về Nguyễn An Ninh<br />“ Tôi làm quen với ông Ninh nhờ mua báo bằng Pháp văn đối lập chống chánh phủ đương thời, gọi là La Cloche fêlée (Cái chuông rè) do ông một mình vừa chủ trương, vừa viết báo, và vừa bổn phận đứng khắp Sài Gòn, mình mặc áo trắng, đi xe đạp, tay ôm mớ nhật trình, miệng rao lanh lẹ và chạy bán từ số, từ tờ cho mấy ông mấy thầy, bất chấp cách lườm ngó đầy ác ý và tiếng nặng nhẹ của nhóm thực dân, từ thằng biện chà gác đường đến thằng Cọt (Corse) ngồi nhà hàng uống rượu khai vị xưng mình là người cai trị da trắng mà sức học chưa có tới mảnh xẹt-ti-fi-ca (certificat)...<br />Nhưng mỗi tuần vào khoảng tháng hai tháng ba tây năm 1926 cứ mỗi thứ hai và thứ năm lối bảy tám giờ tối không sót ngày nào, ai muốn gặp Ninh cứ lại trước nhà hàng Yeng yeng thì gặp, không trật bữa nào... Trước khi giáp mặt chị em, tôi thường mua một tờ Chuông Rè để lấy le. Nhưng ông Ninh sau khi bán cho tôi đều đều, lại lầm tưởng, cho tôi đúng là nhà ái quốc có gan, không nữa cũng một tay cừ nào đó có sạn trong đầu. Một đôi khi sau khi nhận của tôi một cắc bạc tiền mua báo, ông chồng báo qua tay trái và chìa tay mặt bắt tay tôi niềm nở như hai bạn tương tri cách mặt lâu ngày. Có mấy lần tôi thẳng thắng kéo tay mời ông vô dùng cơm Yeng Yeng, nhưng ông lắc đầu lia lịa, xổ một dọc tiếng Tây cám ơn không ngớt, và tỏ vẽ cảm động thật tình. Nói cho đúng lúc ấy ai ai đều ngán ông Ninh và không dám giao thiệp công khai, vì sợ liên lụy không nhỏ. Riêng tôi, tôi lại nghĩ lại. Lúc bấy giờ chưa ai biết là nhà ái quốc dám hy sinh tánh mạng như ngày nay đã rõ, lúc ấy ông là người ai cũng e dè không dám lại gần, trừ những người cùng một chủ nghĩa với ông, Việt Tha, Le Jean de la Bâtie, Paul Marchet, vân vân. Còn tôi, tôi vẫn phục ông thật tình ...”<br /><br />Những bút ký ông viết cho ta thấy toàn thể đời sống, suy nghĩ, văn hóa của thời bấy giờ rất sống động và quý giá về xã hội năm xưa. Các tác phẩm nổi tiếng của ông gồm có: <st1:place st="on">Saigon</st1:place> xưa và nay, Hơn nữa đời hư.<br /><br />Khi ông mất, ông cống hiến hết thảy tài sản, tư liệu và đồ sưu tập của ông cho chính quyền thành phố. Hiện nay căn nhà của ông ở Saigon số 9/1 Nguyễn Thiện Thuật, phường 14, quận Bình Thạnh, được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TP HCM quản lý, sử dụng. Theo báo Người Lao Động thì năm 2002, tức 6 năm sau khi VHS qua đời, qua căn nhà của cố học giả gần như vô chủ và bị xuống cấp nặng nề. Theo di chúc, ông hiến toàn bộ tài sản của mình tại ngôi nhà cho Nhà nước, nhưng do có tranh chấp về quyền thừa kế nên thời gian qua các cơ quan chức năng chưa quản lý ngôi nhà này. Chỉ có số cổ vật và sách quý được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam TP HCM và Thư viện Khoa học Tổng hợp tạm thời cất giữ.<br /><br />Ngôi nhà cổ này hiện nay đã được trùng tu và có thể viếng thăm để hiểu và biết được cuộc đời của một con người rất Nam bộ đặc sắc đam mê văn hóa, nghiên cứu viết sách, hiến trọn đời mình cho sự đam mê ấy và những di sản quí báu mà ông để lại. Trong Viện bảo tàng lịch sử, Thảo cầm viên <st1:place st="on">Saigon</st1:place>, có một phòng đặt tên Vương Hồng Sển, trưng bày những hiện vật quý mà ông bỏ cả đời để thu thập như các đồ gốm Trung hoa, men lam Huế..<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><b><span style="font-size:11.5pt">Lý Lan</span></b><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal"><br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Nhà văn Lý Lan, sinh năm 1957 ở quê mẹ Bình Dương, quê nội ở Quảng Tây. Trưởng thành trong Chợ Lớn và dạy học ở Cần Giuộc. Chị là nhà giáo và cũng là nhà văn viết nhiều truyện ngắn với giọng văn tinh tế, ý nhị và đượm tình người. Trong những năm ở thập niên 1980, tôi đã đọc các truyện và tuỳ bút của Lý Lan trên báo Tuổi trẻ, và các tập truyện như Nơi bình yên chim hót, Chút lãng mạng trong mưa. Những chi tiết trong đời sống thường ngày ở trong phố, ở người chung quanh trong xã hội Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> mà thường ta không để ý, được chị viết rất ý nhị với văn trong sáng và cảm thông với người và cảnh. Một Thạch Lam mới trên văn đàn văn học Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>. Các tác phẩm của Lý Lan rất được ưa chuộng, đánh giá cao và được coi là nhà văn chững chạc có tiếng với nhiều độc giả trong nhiều năm qua. Ngoài ra chị cũng viết các truyện thiếu nhi như quyển Ngôi Nhà Trong Cỏ (1984) được giải thưởng văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>. Năm 2005, tập thơ Là Mình được giải thưởng thơ hội Nhà Văn Thành Phố Hồ Chí Minh.<br /><br />Các năm gần đây chị cũng là dịch giả các bộ Harry Potter ra tiếng Việt. Lý Lan hiện đang sống ở Mỹ, cho rằng Hoa kiều trong giai đoạn trước 1975 có văn học tiếng Hoa riêng ở Chợ Lớn và chị đang khuyến khích các nhà văn gốc Hoa ở Việt Nam viết hình thành một văn học Hoa văn như các văn học Hoa văn khác ở Singapore, Mã Lai, Hongkong, Đài Loan và viết một tuyển tập (anthology) về văn học Hoa ở Việt Nam. Lý Lan thường viếng quê nhà và vẫn còn sáng tác, cộng tác với các báo và xuất bản các tác phẩm trong nước mà gần đây nhất là tác phẩm Miên man tùy bút.<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:4"><b><span style="font-size:12.0pt">Kinh tế<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Hiện nay 30% doanh nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh là do người Hoa làm chủ, như các công ty lớn Bitis, Sacombank và các cơ sở thương mãi Thuận Kiều Plaza, An Đông Plaza. Chúng ta cũng nên để ý là trong khi chủ người Hoa hiện nay của công ty nước uống lớn nhất ở Phi Luật Tân, St Miguel, còn đang sống cực nhọc trong “xóm nhà lá” ở Manila trước khi thành công phát triển công ty lớn nhất ở Phi Luật Tân thì ở Chợ Lớn thời gian đó, các thương gia giàu có người Hoa đã có văn phòng, khách hàng, đối tác ở Singapore, Đài Loan, HongKong. Họ đã thiết lập một hệ thống thương mại với các người Hoa khác trong vùng Đông Nam Á để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Tôi nhớ khoảng đầu thập niên 1970, những sản phẩm dầu gió sản xuất ở Chợ Lớn như dầu Nhị Thiên Đường được ưa chuộng và xuất khẩu qua thị trường Đông Nam Á, nhất là ở Thái Lan, cạnh tranh với những sản phẩm dầu của một công ty Singapore, nay nằm trong tập đoàn Temasek, mà bà chủ hiện nay trở thành có thế lực và giàu có bậc nhất ở nước này.<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:4"><b><span style="font-size:12.0pt">(a) Giai đoạn trước 1975<br /> <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Trước đây phần lớn kỹ nghệ nhẹ như sản xuất đồ gia dụng là tập trung ở Chợ Lớn, trước khi các vùng kỹ nghệ Thủ Đức, Biên Hòa, Bình Dương được thành lập trong đầu thập niên 1970. Những cơ xưởng sản xuất nhỏ này phần lớn do các gia đình người Hoa hoặc các tiểu thương gầy dựng. Những cơ xưởng này đã và hiện nay vẫn còn đóng vai trò quan trọng vào kinh tế vùng thành phố Hồ Chí Minh. Ngày xưa trước 1975, Saigon có thể là nền kinh tế phồn vinh "giả tạo" không có cơ sở vật chất, do tiền viện trợ nước ngoài đổ vào, nhưng kinh tế ở Chợ Lớn cơ bản là tốt và có thực lực dựa vào sự làm ăn cần cù, chăm chỉ và chuyên tâm của người Hoa.<br /><br />Sau đây là tóm tắt về một số thương gia người Việt gốc Hoa từ thời Pháp thuộc tới nay (1).<br /><br />(1) </span><b><span style="font-size:11.5pt">Chú Hỏa: </span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Theo Vương Hồng Sển (1), tên thật là Hui Bon Hoa, ký âm theo tiếng Pháp sau khi nhập Pháp tịch, nên gọi "Chú Hỏa" như vậy cho đến đời đời (người miền <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> thường thân mật gọi các người Hoa là "Chú"), không rõ danh tánh theo Hán tư.. Lúc đầu là thợ dạo mua bán "lạc son", mua đồ </span><span lang="FR" style="font-size:11.5pt; mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal">cũ</span><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"> để chế biến và bán lạị Sau khi tạo dược một số vốn, hùn hạp với một người Pháp thầu khuếch trương các tiệm cầm đồ trong Nam kỳ và buôn bán bất động sản. Sau khi rã hùn, được chia một số tiền, làm chủ các sản nghiệp đất cát miền Lục Tỉnh. Các tài sản bất động sản ở trung tâm Saigon trên đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi của công ty Hui Bon Hoa được cho mướn. Công ty này được tiếng là rất "biết điều" và không eo sách, làm khó người mướn phố. Các con cháu của "Chú Hỏa" luôn luôn hòa thuận, gia tài gi</span><span lang="FR" style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language: FR;mso-bidi-font-weight:normal">ữ</span><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal"> nguyên vẹn không chia phần manh mún, chỉ cùng nhau chia lợi tức, và mỗi khi cần dùng một số tiền to tát thì người trong họ phải xin chữ ký của người trưởng huynh khi ấy ngân hàng mới phát bạc.<br /><br />Cùng thời với chú Hoả là một người Việt gốc Hoa nổi tiếng ở Lục Tỉnh, Chú Hỷ. Ông cạnh tranh với công ty Pháp, công ty Vận tải đường sông rạch "Compagnie des Messageries fluviales" chuyên chở hàng và người trên sông ngòi miền Tây nam bộ. Tàu Chú Hỷ giá vé rẻ hơn và hành khách được lo chu đáo. Bởi vậy có câu " Đi tàu Chú Hỷ, ở phố Chú Hỏa".<br /><br />Hồi về thăm Việt Nam đầu năm 2007, tôi có viếng nhà của chú Hỏa ngày xưa (nay là viện Mỹ thuật thành phố), và có may mắn nói chuyện với chị giám đốc về đề tài chú Hỏa. Ngoài các toà nhà bên cạnh Viện, chú Hoả ngày xưa còn xây khách sạn Majestic ngay bến Bạch Đằng cạnh sông Saigon, Bệnh viện Saigon và các dinh thự khác ở Saigon, Vũng Tàu theo kiểu nhà Tây. Vào dịp viếng thăm Vũng Tàu, tôi có dự đám cưới con nhà văn Xuân Sách ở khách <st1:place st="on"><st1:placename st="on">sạn</st1:placename> <st1:placetype st="on">Palace</st1:placetype></st1:place>. Xưa kia khách <st1:place st="on"><st1:placename st="on">sạn</st1:placename> <st1:placetype st="on">Palace</st1:placetype></st1:place> là biệt thự của chú Hỏa. Ngày nay thì hiện đại nhưng mất đi dáng cổ kính của kiến trúc Tây ngày xưa. Giữa sân vào khách sạn giờ đây là một hồ bơi rất sang của khách san, nhưng bên cạnh vẫn còn cây cổ thụ to lớn mấy người ôm cũng không xuể, tàn lá xum xuê.<br /><br />Ngày nay ta có thể đến thăm một căn nhà của chú Hỏa trên đường Phó Đức Chính, gần chợ <st1:place st="on">Saigon</st1:place>. Toà nhà này hiện nay là Viện Mỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh, bên cạnh trụ sở của bộ Văn hóa Thông tin thành phố đồ sộ không kém (xưa kia cũng là nhà của chú Hỏa). Giá vé vào cửa thăm quan rất rẽ (5000 đồng). Tòa nhà Bảo tàng Mỹ Thuật đồ sộ, rất đẹp, xưa kia là của chú Hỏa (Hứa Văn Bon). Tổng thống Mỹ Bill Clinton khi dến <st1:place st="on">Saigon</st1:place> đã có viếng thăm Viện Bảo tàng Mỹ thuật này. Rất ít khách Việt, đa số là khách nước ngoài nhưng tuy vậy vẫn còn rất vắng vẽ. Giữa tòa nhà 3 tầng là một sân lớn, chung quanh là các phòng với sân balconỵ và hành lang nhìn mở ra phía sân trong.<br /><br />Tòa nhà xây theo kiểu Pháp (chỉ có mái là có dạng Việt), rất kiên cố chắc chắn với trần cao. Các bậc thang làm bằng đá cẩm thạch (marble), giữa sân lobby vào cửa chính có 1 thang máy làm đầu thế kỹ 20, giống như thang máy c</span><span lang="FR" style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal">ổ</span><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">ỗ xưa ở Paris, vẫn còn chạy nhưng ít dùng. Tòa nhà này có rất nhiều phòng, mỗi phòng đều có đèn treo từ trần và lót gạch bông vẫn còn như xưa. Các tranh trưng bày trong Viện đa số về các sinh hoạt và chiến tích, thành tích trong thời chiến tranh chống Mỹ không có gì xuất sắc ngoài bức sơn mài to lớn "Vui xuân" của Nguyễn Công Trí (một nghệ sĩ tạo hình nổi tiếng của Trường Mỹ thuật Đông Dương mà xưa kia toàn quyền Pháp đã mua 1 bức sơn mài đặt trong phủ toàn quyền ở Hà Nội). Ở lầu hai có trưng bày đồ gốm, bàn ghế xưa và các tượng thờ trong vùng <st1:place st="on">Saigon</st1:place> từ thế kỷ 19, 20. Đằng sau trên lầu 3 nhìn xuống sân vườn giữa tòa nhà, có trưng bày bức tượng ông Trương Vĩnh Ký (sau giải phóng được mang vào đây).<br /><br />Trong lúc tôi đang xem gốm Biên Hòa, thì tình cờ gặp chị giám đốc Viện trong phòng tri</span><span lang="FR" style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language:FR; mso-bidi-font-weight:normal">ể</span><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight: normal">n lãm. Tôi hỏi về lịch sử gốm Biên Hòa và được chị tiếp chuyện. Qua đó tôi có góp ý với chị là các tranh nên có đề năm sáng tác (ngoài tên tác giả), chị cho biết sẽ có tập sách viết về lịch sử viện trong dịp 20 năm thành lập và các mục lục tranh và tiểu sử các tác giả. Nói chuyện với chị về huyền thuyết "con ma" nhà chú Hỏa ly kỳ rùng rợn về con gái chú Hỏa với bệnh cùi và huyền thuyết thuở hàn vi "đi bán ve chai". Tất cả đều không đúng sự thật. Chú Hỏa không có con gái chỉ có 3 người con trai và sau này đã về Tàu chết ở đó. Chú Hỏa làm việc với một chủ người Pháp, vì tính siêng năng và tốt nên ông chủ Pháp thương và đã giúp chú Hỏa vốn mở tiêm cầ</span><span lang="FR" style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal">m</span><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"> đồ buôn bán. Tiệm cầm đồ đầu tiên là tòa nhà góc đường Phó Đức Chính và Nguyễn Thái Bình, văn phòng ông ở trước cửa viện bên kia đường, trên một khu đất vẫn còn trống. Khi nhà ông được xây, thì từ chợ <st1:place st="on">Saigon</st1:place> và phía đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ, có thể thấy được biệt thự của ông. Ông xây 3 căn trên sát nhau trên đường Phó Đức Chính, mỗi căn cho một người con trai. Căn giữa (hiện nay là trụ sở Bộ Văn hóa Thông tin) cho người con trai lớn có đặt bàn thờ tổ tiên. Theo chị giám đốc thì trụ sở Bộ sẽ di về chỗ khác, giao tòa nhà (cũng đồ sộ với kiến trúc Pháp) lại cho bảo tàng Mỹ Thuật.<br /><br />Cách đây vài tháng (kho</span><span lang="FR" style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language: FR;mso-bidi-font-weight:normal">ả</span><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal">ng cuối năm 2006), con cháu chú Hỏa về thăm và có nói là cũng thấy nhà đã được dùng cho công chúng và chưa có ý đòi lại tòa nhà và các tòa nhà chung quanh (đất gồm diện tích giữa 4 góc đường Lê Thị Hồng Gấm, Calmette, Phó Đức Chính và Nguyễn Thái Bình).<br /><br />Trên lầu ba là các phòng trưng bày hiện vật của nền văn hóa Óc Eo tìm được ở nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long (Rạch giá, Kiên Giang, Sóc Trăng, Long An, Tây Ninh...), phòng văn minh Champa với các phù điêu, tượng thần tìm được ở Trà Kiệu, Bình Định, và phòng trưng bày các gốm, tượng, đồ đồng Việt Nam.<br /><br />Ở góc sân giữa tòa nhà là bức tượng đồng rất đẹp ông Quách Đàm, một người Hoa nổi tiếng ở <st1:place st="on">Saigon</st1:place>. Người đã xây dựng chợ Bình Tây. Trên bức tượng ở ngực ông đầy huy chương. Trước đây tượng được đặt ở chợ, sau giải phóng, cũng như tượng Trương Vĩnh Ký, đã được mang về đây. Hai phòng bên cạnh sân giữa tòa nhà là hai phòng trưng bày tranh (gallery) để bán, chủ tiệm của phòng tranh bên trái có treo ảnh chụp của bà với tổng thống <st1:place st="on"><st1:city st="on">Clinton</st1:city></st1:place> khi ông vào đây thăm viếng.<br /><br />Hôm viếng thăm, tôi có dịp dừng lại nói chuyện với các du khách từ Pháp giải thích cho họ về bức tượng Petrus Ký và Quách Đàm và sơ lược tiểu sử của hai nhân vật lịch sử này. Phải nói là Viện Bảo tàng nên có hướng dẫn viên hay sách chỉ dẫn cơ bản về những hiện vật trong Viện để du khách có thể hiểu biết về nghệ thuật và học hỏi về các đặc thù nghệ thuật Việt Nam nói chung và thành phố nói riêng.<br /><br />(2) </span><b><span style="font-size:11.5pt">Quách Đàm:</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Miền Nam có câu nói về những người giàu có trong giữa thế kỷ 20 “Nhất Hỏa, nhì Đàm, tam Xường, tứ Ích”, cho thấy Quách Đàm là nhân vật thứ hai sau chú Hỏa. Xuất thân thuở hàn vi bán ve chai, kèm theo mua da trâu, vi cá và bong bóng cá. Ddàm nhờ lanh trí, nhập giới thương mại thấy việc mau lẹ hơn ai hết, nên làm giàu nhanh chóng.<br /><br />Ông là người xây lập chợ Bình Tây hiện nay vẫn còn ở Chợ Lớn. Lúc đó Chánh tham biện Chợ Lớn thấy Chợ C</span><span lang="FR" style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language: FR;mso-bidi-font-weight:normal">ũ</span><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal"> (hiện nay là nền nhà Bưu Điện Chợ Lớn, Quận 5) nhỏ hẹp, không đủ cho bạn hàng nhóm họp. Ông nghe biết được nên mua ngay vùng đất ruộng Bình Tây, biến đất ruộng thành đất thổ trạch châu thành, rồi cho người đến dâng miếng đất, chỉ đòi được xây chợ và cất phố kiểu buôn bán chung quanh chợ để cho mướn. Chính quyền đồng ý và sau này cơ sở phát triển còn cho phép tượng Quách Đàm được tạc và dựng ở chợ. Trụ sở của nhà buôn Quách Đàm nằm ở đường Quai de Gaudot (nay là đường Khổng Tử).<br /><br />Về sau Quách Đàm rất giàu, xoay qua đứng bảo lảnh cho các con nợ nhà băng "Đông Dương Ngân hàng". Mỗi lần xin chữ ký bảo chứng, họ phải chịu cho Đàm một huê hồng qui định trước. Nhưng gặp năm kinh tế khủng hoảng 1929, các nhà buôn vỡ nợ không đủ sức trả bạc vay, nhà băng phát mãi phá sãn, lôi kéo sự nghiệp nhà họ Quách sụp đổ theo cơn khủng hoảng kinh tế trầm trọng ở <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> kỳ.<br /><br />Sau này, khi Quách Đàm chết, đám ma lớn không đám nào bằng. Bàn đưa không thể đếm. Đủ thứ nhạc Tây, Tàu, Ta, Miên... Khách đi dường có việc, miễn nối gót theo đám ma vài bước là có người lễ phép đến dâng một ly nước dừa hay la ve (bia) và riêng tặng một quạt giấy có kèm một tấm giấy "ngẫu" (năm đồng bạc) đền ơn có lòng đưa đón! Quách Đàm được chôn ở gần chùa Giác Lâm giáp ranh Chợ Lớn và Gia Định (1)<br /><br />(3)</span><b><span style="font-size:11.5pt"> Mạc Phúc Sử: </span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Nổi tiếng với sản phẩm dầu cù là Macphsu. Dầu cù là Macphsu do ông làm chủ và sản xuất. Macphsu là tên ký âm bằng Pháp ngữ khi Mạc Phú Sử ra cầu chứng tại tòa. Vì không biết đọc, biết viết tiếng Pháp nên khi được hỏi dầu cù là cầu chứng tên gì, ông tưởng là nhân viên tòa hỏi tên mình là gì, ông bèn nói Mạc Phúc Sử và được người Pháp viết theo phiên âm Pháp ngữ là Macphsu. Sản lượng và tiếng tăm dầu cù là Macphsu rất lớn, ngoài thị trường miền Nam, Mạc Phúc Sử còn xuất cảng sang Lào, Cambodia, Singapore và Thái Lan.<br /><br />(4) </span><b><span style="font-size:11.5pt">Trương Văn Bền,</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"> sinh năm 1883, trong một gia đình người Hoa gốc Triều Châu đến Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> lập nghiệp từ đầu thế kỷ 19. Trương Văn Bền có dịp sang Pháp du học và đã học được nghề sản xuất xà bông. Năm 1918, ông dùng dừa có sẵn rất nhiều ở miền Tây <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ để thành lập xưởng ép dầu dừa và từ đó sản xuất xà bông cục đáp ứng nhu cầu rửa ráy, giặt giũ của dân chúng hằng ngày. Khi cơ sở phát triển, năm 1932, ông cho xây một hãng lớn hơn và làm chủ nhân hãng xà bông “Trương Văn Bền”. Sản phẩm nổi tiếng nhất của hãng ông là xà bông thơm Việt Nam hiệu Cô Ba, rất thịnh hành ở miền Nam và sau đó trên khắp thị trường Đông Dương. Cô Ba tượng trưng cho một phụ nữ đẹp, giản dị, trong trắng của cô gái miền Nam trong huyền thoại. Xà bông Cô Ba cạnh tranh về chất lượng và giá thành rẽ đã đánh bạt được xà bông nước ngoài, nhập từ Pháp (17). Ông là người Hoa Triều Châu đi trước trong thương mại và làm gương cho những người sau này như Trần Thành. Ông Trương Văn Bền nổi tiếng như Bạch Thái Bưởi cùng thời ở miền Bắc và trở thành giàu có, có hạng ở <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> kỳ. Gia sản của ông tương đương với ông Phủ Kiểng ở Bến Tre, ông Kho Gressier Remy ở Sóc Trăng, hay gia đình Lâm Quang ở Trà Vinh. Ông Bền cũng chính là người xuất tiền cất một dãy phố 50 căn, gần Ngã Sáu Chợ Lớn, nằm góc đường Armans Rousseau và Général Lizé (nay là đường Ngô Gia Tự và Hùng Vương) (17).<br /><br />Còn nhiều câu truyện của các doanh nhân người Hoa ở Chợ Lớn đã phát triển kinh doanh đóng góp vào nền kinh tế Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> từ các năm xưa. Tôi trước đây có đọc một bài trong tạp chí nghiên cứu lịch sử hồi năm khoảng năm 1977 đã liệt kê nhiều nhà kinh doanh người Hoa, nhưng hồi ấy là đả phá họ, cho họ là tư bản bóc lột. Nay thì đã khác hẳn rồi, họ là những những người đã giúp cho nền kinh tế phát triển và có ích cho đất nước, xã hội. Trước 1975, có những tư sản Việt gốc Hoa cỡ lớn, kể sơ lược như sau (2):<br /><br />(5) </span><b><span style="font-size:11.5pt">Trần Thành</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">: Ông xuất thân từ gia đình nghèo qua Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> đầu thế kỷ 20. Th</span><span lang="FR" style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language: FR;mso-bidi-font-weight:normal">u</span><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal">ở còn thanh niên tìm việc ở Chợ Lớn, ông được vào làm công trong một xưởng chế biến dầu thực vật của một chủ người Hoa họ Trịnh, cạo rữa các thùng chứa. Được sự tín nhiệm của chủ, ông được giao trọng trách đi mua nguyên liệu chủ yếu là đậu nành và đậu phọng cho xưởng. Với uy tín của ông với nông dân và đối tác ở nông thôn miền Nam và cả ở Cao Miên (Cambodia), ông không những cung cấp hiệu quả kinh tế cho cơ sở xưởng chủ ông mà sau này khi được chủ giúp đỡ cho vốn ra riêng còn cung cấp cho các xưởng khác nữa.<br /><br />Trong công việc làm ăn, ông coi trọng nhất là chữ tín. Ông nói:" Chữ TÍN. Làm nghề gì cũng phải giữ cho được chữ TÍN mới có thể thành công được. Ông lập ra hãng bột ngọt Vị Hương Tố. Được coi là “vua bột ngọt và vua mễ cốc”, ông được bầu vào chức vụ bang trưởng Triều Châu, khi tuổi chỉ mới xấp xỉ 40. Ông đại diện cho người Hoa liên hệ với chính quyền miền Nam Ngô Đình Diệm và sau này trong thập niên 1960-1970 và được chính quyền kiêng nễ. Ông giúp đỡ nhiều người có chí mượn vốn. Nhà ông lúc nào cũng có người đến xin ý kiến làm ăn. Ông đi thăm các nhà máy, xí nghiệp lớn ở Đài Loan, Nhật Bản để học hỏi kinh nghiệm tổ chức, điều hành các xí nghiệp cỡ lớn và nghiên cứu thị trường.<br /><br />(6) </span><b><span style="font-size:11.5pt">Vương Đạo Nghĩa</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">, chủ hãng kem đánh răng hiệu Hynos cạnh tranh với các hãng kem Việt <st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region> hiệu Perlon và Leyna ở miền <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> và kem ngoại quốc như Colgate (Mỹ), C’est it (Pháp). Vào thập niên 1960, hồi tôi còn nhỏ khi được bác tôi dẫn ra Saigon và bây giờ vẫn còn nhớ là hình ảnh rất lớn trên cửa chính của chợ Bến Thành đường Nguyễn Huệ một anh “chà và” da đen cười tươi với hàm răng trắng đều và đẹp của kem đánh răng hiệu Hynos. Lúc đầu, vào mới hơn 20 tuổi, ông làm cho hãng kem nhỏ ít biết tiếng Hynos do một người Mỹ gốc Do Thái có vợ Việt Nam mở hãng sản xuất kem đánh răng ở Việt Nam. Sau này khi người vợ mất, ông chủ buồn rầu bỏ đi giao lại cho ông vì ông được tiếng là trung thành, cần cù làm ăn.<br /><br />Vương Đạo Nghĩa là người Việt gốc Hoa tiên phong trong lãnh vực tiếp thị làm ăn kiểu Tây Phương. Ông là người biết được giá trị của thương hiệu và sự quan trọng của tiếp thị trong kinh doanh thương mại. Quảng cáo kem Hynos của ông xuất hiện ở khắp nơi từ thành thị đến nông thôn trên mọi phương tiện, ở các cửa hàng ăn uống, loa phóng thanh, dọc đường, chợ búa, báo chí, hệ thống truyền thanh và truyền hình, ngay cả trên các thùng xe vận tải chạy khắp miền Nam. Ông cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Trung Hoa vào quảng cáo, sau khi gặp lại người anh họ (con ông bác) ở Hong Kong là tài tử Vương Vũ và được ông mời đến Việt nam nhiều lần trong các dịp nghĩ hè. Người dân miền Nam khó có thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp nhưng tất cả bảo tiêu đã bị chết, chỉ còn Vương Vũ và khi ông mở xe hàng thì trong đó không phải là vàng bạc châu báo mà là các hộp kem đánh răng Hynos hay anh Bảy Chà cười toe toét với hàm răng trắng sáng chói có mặt khắp nơi trên các hang cùng ngõ hẻm. Thương hiệu Hynos gắn liền với kem đánh răng trong tâm trí người dân. Sản phẩm của hãng kem đánh răng Hynos có mặt khắp nơi tại Việt <st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region>, và sau đó ở thị trường Đông Nam Á và <st1:place st="on">Hong Kong</st1:place>. Khác với các hãng và doanh nghiệp Việt Nam thời bấy giờ, ông đã trích ra nhiều hơn từ lợi nhuận vào quảng cáo thương hiệu, giới thiệu sản phẩm với tầm cỡ quốc tế, tương đương với quảng cáo của các thương hiệu nổi tiếng nước ngoài như Coca-Cola, Seiko, Adidas...<br /><br />(7) </span><b><span style="font-size:11.5pt">Trương Vĩ Nhiên</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">,"vua ciné": Xuất thân từ một gia đình người Hoa, anh em họ Trương được ăn học và giáo dục theo phong cách quý phái người Hoa. Trương Vĩ Nhiên thấm nhuần đạo Phật và say mê triết lý Đông phương (11), có đầu óc phóng khoáng và nhạy cảm hiểu biết về tâm lý quần chúng và thị trường. Ông là chủ nhân hãng xuất nhập cảng phim Viễn Đông, đại lý độc quyền các phim của hảng phim nổi tiếng Shaw Brothers (Đài Loan) và Golden Harvest (Hồng Kông). Điện ảnh Hong Kong và Đài Loan cuối thập niên 1960, được coi là thời vàng son, đã sản xuất các phim dã sử kiếm hiệp thu hút khán giả nhiều nơi ở Đông Nam Á cạnh tranh và làm các hảng phim Âu Mỹ nể sợ và khâm phục. Ở miền Nam thời bấy giờ, các tài tử Lý Thanh, Trịnh Phối Phối, Khương Đại Vệ, Vương Vũ, Địch Long, Hà Lợi Lợi... với các phim Độc Long Đàm, Hiệp Khách Hành, Độc Thủ Đại Hiệp, Nhất kiếm trấn ải, Long hổ quyết đấu... đã chinh phục khán giả với doanh thu vượt kỷ lục hơn cả các phim Âu Mỹ thời đó như Cleopatre, Love Story, Romeo Juliet, Deux hommes dans la ville.. của các tài tử Liz Taylor, Ali Mc Graw, Steve McQueen, Alain Delon, Jean Belmondo..<br /><br />Trương Văn Vĩ đã nhìn thấy trước qua sự say mê của người dân với các truyện võ hiệp Kim Dung và sau này Quỳnh Dao ở các nước Á châu và ông đã mua lại các rạp làm ăn ế ẩm, tân trang lại và làm chủ các rạp hát ciné ở nhiều nơi vùng Sài Gòn - Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Palace, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Thủ Đô... (ngoài các rạp Rex, Văn Hoa Dakao, Văn Hoa Sài Gòn, Mini Rex A, B, C của ông Ưng Thi, trong hoàng gia nhà Nguyễn, chuyên chiếu phim cao cấp). Tất cả các rạp của Trương Văn Vĩ đều được sửa sang xây dựng mới mẻ, với hệ thống máy lạnh tốt, ghế ngồi bọc da, trang hoàng đẹp mắt và hấp dẫn khách hàng với hệ thống máy móc như máy chiếu, âm thanh, ánh sáng nhiều màu trong rạp, cả buvette (quầy giải khát) phục vụ ngay trong rạp, cùng các phương tiện quảng cáo đa dạng và quy mô. Bắt đầu từ năm 1966, Trương Vĩ Nhiên nhập cảng các loại phim võ hiệp, kiếm hiệp dã sữ Hồng Kông và Đài Loan, sau là phim tình cảm phỏng theo truyện của các tác giả nổi tiếng như Kim Dung, Ngọa Long tiên sinh, Quỳnh Dao.... Ông trở thành tỉ phú giàu có khi chỉ mới hơn 30 tuổi. Ông có ảnh hưởng rất lớn về nghệ thuật và văn hóa điện ảnh trong cuối thập niên 1960 và đầu 1970.<br /><br />(8) </span><b><span style="font-size:11.5pt">L.N</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"> ("vua bột mì"): L.N giàu có bằng "cho vay lúa", nhập cảng thóc gạo miền Tây, kinh doanh bột mì . L.N xây dựng "<st1:place st="on">Saigon</st1:place> kỹ nghệ bột mì công ty" (Sakybomi), hùn vốn vào công ty bột mì khác Viflomico. Để nắm độc quyền hai nhà máy cỡ lớn nhất ở Đông Nam Á này, L.N đã đóng cổ phần vào 3 ngân hàng: Trung Nam ngân hàng (100 triệu), Đồng Nai ngân hàng (40% cổ phần), Nông Doanh ngân hàng và vào hai công ty xuất nhập cảng Mỹ Liên (21 %), Hứa Nhuận Chân (70%), đồng thời lập hai công ty nhập khẩu 18 mặt hàng khác (3).<br /><br />(9) </span><b><span style="font-size:11.5pt">Tập đoàn đại gia tộc họ Ông</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">, chủ dầu cù là hiệu Con Cọp, được gọi là Cọp Saigon (Ông Nghiệp Hùng, Ông Nghiệp Sơ, Ông Nghiệp Kỳ, là con của Ông Tích). Ngoài ra tập đoàn này khống chế một nhà máy dệt lớn, một công ty vận tải đường bộ, đường sông, công ty xuất nhập cảng, một xưởng đóng tàu, một công ty bốc dở hàng ở Thương cảng Saigon, một ngân hàng và nhiều nhà cho thuê. Trong thời này cũng có nhiều tập đoàn và các nhân vật khác như các tập đoàn tư bản họ Trương, họ Mã, vua "xăng dầu" Lý Hớn, "vua cà phê" Trần Thiện Tứ, "vua vải sợ" Lưu Tú Dân, "vua thuốc lá" Siou Phong ....<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:4"><b><span style="font-size:12.0pt">(b) Thời kỳ đổi mới sau 1975<br /> <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Đất nước Việt Nam có nhiều người Hoa và Minh Hương giỏi, nhưng do những chính sách sai lầm, chính quyền trước đây đã đánh đổ họ qua mấy chiến dịch đánh tư sản sau 1975: vua thép, vua gạo, vua bột giặt, vua </span><span lang="FR" style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language: FR;mso-bidi-font-weight:normal">x</span><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal">à bông, vua bột mì ... đều bị đánh tan hoang bại sản. Trong khi trong thời gian ấy mấy người Hoa chủ các công ty lớn ở các nước Đông Nam Á như Temasek của Singapore, St Miguel của Philippines..) vẫn còn không bằng một góc các công ty Hoa ở <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Vietnam</st1:country-region></st1:place>.<br /><br />Ngày nay có một người Minh hương nổi tiếng không kém chú Hỏa, Trần Thành xưa kia. Đó là “vua gốm” Lý Ngọc Minh, chủ công ty gốm Minh Long ở Bình Dương. Kế thừa truyền thống nghề gốm của người Minh hương ở Gia Định- Đồng Nai, ngày nay các cơ xưởng làm gốm (đa số ở Biên Hòa và Bình Dương) tiếp tục phát triển làm gốm, nhất là sau giai đoạn Đổi mới, với các sản phẩm đặc sắc xuất khẩu đi nhiều nơi trên thế giới. Ông đã tạo những bộ gốm nổi tiếng Cẩm Tú, Sơn Hà, Hồn Việt ..Trước đây ông có nhờ gs Cao Xuân Phổ và Trần Quốc Vượng cố vần để ông tạo con rồng Việt Nam theo kiểu triều đại Lý - Trần, lúc cổ thành Thăng Long vừa được khám phá, trên sản phẩm gốm của ông. Công ty ông cũng là nơi làm các "cup" gốm làm quà tặng cho các nguyên thủ quốc gia tham gia Hội nghị APEC năm ngoái ở Hà Nôi.<br /><br />Cuộc đời của ông Minh trước 1975 đến nay đã được dựng thành phim "Miền đất phúc" làm nhiều tập chiếu trên truyền hình Tp Hồ Chí Minh. Xuất phát từ một gia đình có truyền thống làm gốm sứ ở Tân Phước Khánh (Tân Uyên - Bình Dương), gia tộc Lý Ngọc Minh đã có ba đời theo nghề gốm sứ. Năm 1975, đất nước thống nhất nhưng thương mại tư nhân bị cấm và hạn chế. Trãi qua bao khó kh ăn, ông vẫn kiên trì sản xuất và đến khoảng những giữa thập niên 1980 và đầu 1990 sản phẩm của ông bắt đầu có mặt tại thị trường các nước Đông Âu và tư bản. Nay thì ông Lý Ngọc Minh là người chính phủ Việt Nam trọng vọng (Ủy viên của mặt trận Tổ quốc, đại biểu quốc hội, anh hùng lao động ...), công ty ông có gần 2000 công nhân làm việc và thương hiệu gốm Minh Long xuất khẩu qua nhiều nước làm các công ty Nhật, Hàn, Âu Mỹ gờm vì cạnh tranh và qua mặt họ.<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:4"><b><span style="font-size:12.0pt">Chính Trị<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Từ lúc Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch được chúa Nguyễn cho vào miền Nam mở đất, lập nghiệp, người Minh hương tiên phong cùng lưu dân người Việt và dân bản sứ Khmer đã khai hoang mở mang bờ cỏi làm vùng đất Gia Định-Đồng Nai (tức cả miền Nam thuở đó) trở nên trù phú. Miền <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> trở thành miền đất hứa của nhiều dân nghèo từ miền Trung vào lập cuộc đời mới. Người Minh hương đã tham gia bình đẳng trung thành nhớ ơn phục vụ phò chúa Nguyễn ngay cả lúc Nguyễn Ánh phải trốn chạy Tây Sơn bôn ba khắp nơi ở vùng đất mới. Các tướng Minh hương như Châu Văn Tiếp, Đỗ Thành Nhân, Võ Tánh .. là những tướng đã ra giúp Nguyễn Ánh trong cuộc tranh hùng với Tây Sơn. Vì sự giúp đỡ chúa Nguyễn, quân Tây Sơn năm 1783 đã giết rất nhiều người Hoa, hủy hoại hoàn toàn Cù lao phố, và năm 1785 lần nữa vào cướp giết, phá hủy cơ nghiệp người Hoa vùng Chợ Lớn, Mỹ Tho.<br /><br />Khi Gia Long (Nguyễn Ánh) lấy được giang sơn, trong hàng công thần phục vụ triều đình có rất nhiều người gốc Minh hương và nhà vua đã nhớ ơn và đãi ngộ xứng đáng. Nhân tài gốc Minh hương, từ Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Đức đến Trương Minh Giảng.. ra phục vụ triều đình và đất nước không phân biệt Việt hay Minh hương<br /><br />Tuy nhiên sau khi Gia Long mất, vua Minh Mạng không hài lòng với quyền tự chủ của tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt vẫn theo chính sách của Gia Long cho người Hoa các bang được tự trị, và không có thuế thân. Sau khi tổng trấn Gia Định mất, chính sách hà khắc của Minh Mạng đối với Lê Văn Duyệt, và trung ương tập quyền bãi bỏ hết chính sách nhu hòa ngày trước gây bất bình với nhiều người ở Gia Định trước đây đã phò Gia Long kể cả người Minh hương, gốc Hoa, người Chăm, giáo sĩ truyền đạo người Pháp. Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi bị dẹp mà trong hàng ngũ giúp Lê Văn Khôi có nhiều người Hoa, chính sách của Minh Mạng càng ngày càng khắc khe với người Hoa và người Minh hương. Trong tác phẩm thơ “Bốn Bang thư” của một người Hoa gọi là Bốn Bang (thực sự tên hiệu đại diện cho bốn bang Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến và Hải Nam) bị bắt và làm ra bài thơ dài 308 câu lục bát trước khi bị hành hình, có kể rõ về sự tình miền Nam trong cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi.<br /><br />Từ đó người Minh Hương và Hoa ít có tham gia vào triều đình chính quyền cho đến thời Pháp thuộc, họ chỉ chăm chú làm ăn vì đối với họ chánh quyền Việt và Pháp cũng không khác qua sự đối xử, phân biệt.<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><b><span style="font-size:11.5pt">Võ Tánh </span></b><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Một trong “Gia Định tam hùng” (Châu Văn Tiếp, Đỗ Thành Nhân, Võ Tánh). người Minh Hương, tổ tiên trước kia ở làng Phước An (Biên Hòa) sau dời về Bình Dương, Gia Định. Thuở còn thanh niên, ông luyện tập võ nghệ, nổi tiếng là một võ sư cao cường có sức mạnh hơn người, một mình Võ Tánh đã dùng tay không đánh cọp tại 18 thôn Vườn Trầu . Đương thời, ông cùng với Đỗ Thành Nhân và Châu Văn Tiếp họp thành Gia Định tam hùng. Quân Tây Sơn thường nói rằng: "Trong bọn tam hùng đất Gia Định, Võ Tánh là anh hùng bậc nhất, không nên phạm đến".<br /><br />Vì không chịu khuất phục Tây Sơn, Võ Tánh chiêu tập nghĩa binh cùng với anh là Võ Nhân phất cờ khởi nghĩa tại 18 thôn Vườn Trầu (Gia Định), rồi kéo binh chiếm giữ cả vùng đất Gò Công. Sau khi người anh mất, ông rút quân về án giữ thôn Vườn Trầu. Nghĩa quân của Võ Tánh có đến mấy vạn người, chia thành 5 đoàn, được đặt hiệu là đạo quân Kiến Hạ.<br /><br />Khi Nguyễn Phúc Ánh từ Xiêm La trở về nước có mời Võ Tánh về giúp. Năm 1788, Võ Tánh cùng các bộ tướng đến bái kiến Nguyễn vương. Nguyễn Phúc Ánh mừng rỡ, phong cho Võ Tánh làm Tiền phong dinh Khâm sai Chưởng cơ và gả em gái là Ngọc Du công chúa.<br /><br />Ngay từ buổi đầu, Võ Tánh đã giúp Nguyễn Phúc Ánh nhiều công trạng: vây đánh và bắt được tướng của Tây Sơn tên Phạm Văn Tham (1789), đánh bại tướng Đào Văn Hổ và thu phục thành Diên khánh (1790). Khi trấn thủ thành Diên Khánh, Võ Tánh dùng mưu đuổi quân Tây Sơn đến vây thành (1794). Sau đó về lại Gia Định, ông được phong tước Quận Công kiêm lãnh chức Đại Tướng Quân. Năm 1797, ông theo Nguyễn Ánh ra đánh Quảng <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>, thắng được tướng Nguyễn Văn Ngụ tại cửa Đại Chiêm (Cửa Đại), quân sĩ Tây Sơn về hàng rất đông. Thừa thắng, ông vượt sông Mỹ Khê (Quảng Ngãi), đánh bại Đô đốc Nguyễn Văn Giáp.<br /><br />Năm 1799, Võ Tánh lại theo Nguyễn Phúc Ánh ra đánh Qui Nhơn. Cùng với tướng Nguyễn Huỳnh Đức đánh thắng nhiều trận tại Thị Giả và cầu Tân An, giết được Đô đốc Nguyễn Thiệt và chiêu hàng Đô đốc Lê Chất. Thành Qui Nhơn được đổi tên là thành Bình Định và giao cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu ở lại trấn giữ. Lúc Võ Tánh cầm chân quân Tây Sơn tại thành Bình Định, Nguyễn Ánh đánh chiếm thành Phú Yên rất dễ dàng.<br /><br />Không lâu, quân đội Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Thái Phó Trần Quang Diệu, tướng giỏi của Tây Sơn phản công vây thành Bình Định. Nguyễn Ánh đưa binh ra giải cứu không nổi, cuộc bao vây măi kéo dài đến 14 tháng. Lâu ngày, trong thành binh sï thiếu lương thực rất nguy ngập. Ngày 7-7-1801, trong lúc bị vây ngặt, có người khuyên Võ Tánh bỏ thành mà chạy nhưng ông không chịu. Võ Tánh nói: "Không thể được. Ta phụng mạng giữ thành này, nên thề với thành cùng sống chết. Nếu bỏ thành mà hèn nhát trốn lấy một mình, thời sau này còn mặt mũi nào trông thấy Chúa thượng". Sau đó ông trao cho tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu một bức thư đại ý nói rằng: "Phận sự ta làm chủ tướng thì đành liều chết ở dưới cờ, ta đâu có ngại. Còn như các quân sĩ không có tội tình gì, xin chớ nên giết hại". Tiếp theo ông lấy rơm cỏ chất dưới lầu Bát Giác (Bình Định), đổ thuốc súng rồi tự đốt mà chết. Quan Hiệp trấn Ngô Tùng Châu cũng uống thuốc độc tự tử. Trần Quang Diệu đem quân vào thành, xúc động trước tấm gương tiết liệt của Võ Tánh, sai người làm lễ liệm tang tử tế và không làm tội hay giết hại một ai.<br /><br />Vua Gia Long, sau khi lên ngôi Hoàng đế, tưởng nhớ đến công lao của Võ Tánh cho lập đền thờ ở nền cũ lầu Bát Giác, sai người đưa di cốt của ông về chôn tại Phú Nhuận, Gia Định (nay nằm trong một hẻm ở đường Hồ Văn Huê, Saigon) và truy tặng tước Dực vận Công thần, Phụ quốc Thượng tướng công, Trụ quốc úy Thái trung liệt. Vua Minh Mạng truy phong làm Hoài quốc công.<br /><br />Ngày nay, người Bình Định vẫn còn lưu truyền câu hát nói lên cảm tình của dân với Võ Tánh:<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt: auto;text-align:center"><i><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight: normal">Ngó lên ngọn tháp Cánh Tiên<br />Cảm thương quan Hậu thủ thiềng ba năm !</span></i><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><b><span style="font-size:11.5pt">Châu Văn Tiếp </span></b><span style="font-size:11.5pt; mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br />Châu Văn Tiếp sinh năm 1738, tên tộc là Châu Doãn Ngạnh, quê huyện Phù Mỹ, Quy Nhơn. Khi Tây Sơn đánh chiếm thành Quy Nhơn, gia đình ông dời về Phú Yên. Ông thông thạo 2 ngoại ngữ Xiêm và Miên. Sau ông chiêu mộ người, dựng cờ khởi nghĩa chống Tây Sơn. Cờ thêu bốn chữ lớn Lương Sơn Bá Quốc. Được Nguyễn Nhạc chiêu hàng nhưng sau đó tách ra theo chúa Nguyễn Ánh ở Gia Định. Năm Canh Tý (1780) Nguyễn Phúc ánh xưng vương tài Sài Côn (Sài gòn) phong ông làm khâm sai đại đô đốc, nổi tiếng trong gia đình tam hùng. Năm 1781, ông đánh ra Diên Khánh, nhưng thua rút về Phú Yên. Không lâu sau đó, Gia Định cũng thất thủ, ông theo Chúa Nguyễn sang Xiêm. Năm Giáp Thìn (1784), Chúa Nguyễn đưa binh Xiêm về chống nhau với Tây Sơn. Ông làm Bình tây đại đô đốc chưởng quản các đạo quân Xiêm trên sông Mang Thít (Vĩnh Long). Trong trận thủy chiến, ông bị tướng của nghĩa quân Tây Sơn là chưởng tiền Bảo giết chết. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, sắc sai Đặng Đức Siêu soạn văn tế và truy phong ông Tả là quân đô đốc tước quận công, lập đền thờ tại thôn An hội (nay là làng Tân Long Hội), tỉnh Vĩnh Long và được thờ nơi miếu Hiển Trung của nhà Nguyễn ở Huế.<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><b><span style="font-size:11.5pt">Trương Minh Giảng</span></b><span style="font-size: 11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Trương Minh Giảng, sinh ở Bình Dương, thuộc trấn Gia Định. Đỗ cử nhân năm 1819, được bổ nhiều chức vụ, sau lên ch ức Thượng thư bộ Hộ. Ông là người văn võ song tài. Lúc Lê Văn Khôi nổi loạn ở Gia Định, vua Minh Mạng sai ông và tướng Phan Văn Thúy mang quân vào dẹp loạn. Sau đó, ông cầm quân đánh với quân Xiêm xâm nhập nước ta ở mặt trận Hà Tiên theo đường thủy và Châu Đốc và An Giang qua ngã Chân Lạp (Cao Miên). Lúc bấy giờ Xiêm đã chiếm đóng và cai trị Chân Lạp<br /><br />Ở mặt trận An Giang, tại sông Cổ Cắng Trương Minh Giảng và Nguyễn Văn Xuân đại phá quân Xiêm. Thắng thế tiến thẳng lên Nam Vang (<st1:place st="on"><st1:city st="on">Phnom Penh</st1:city></st1:place>), đưa vua nước nầy là Nặc Ông Chân về nước. Sau đó, Trương Minh Giảng cho lập đồn ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp. Khi Nặc Ông Chân mất (1843), Trương Minh Giảng xin lập người con gái của Ông Chân là Ang Mey, tục gọi là Ngọc Văn công chúa lên làm Quận Chúa, rồi đổi nước Chân Lạp ra Trấn Tây Thành, chia làm 34 phủ huyện và cắt đặt người lo việc chính trị, kinh lý, thanh sát các việc buôn bán, đo ruộng đất và đặt các thứ thuế đinh, điền, thuyền bè... Không bao lâu, dân Chân Lạp nổi loạn dưới sự lãnh đạo của em Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn, quan quân địa phương đánh mãi mà không dẹp nổi. Khi vua Minh Mạng mất, vua Thiệu Trị lên nối ngôi, sau một thời gian có nhiều khó khăn qua sự nổi dậy và chống đối của dân Chân Lạp mà Trấn Tây Tướng Quân (Trương Minh Giảng) không dập tắt được, một số triều thần tâu trình vua Thiệu Trị bỏ đất Trấn Tây, cho lệnh rút quân về An Giang. Năm 1841, Trương Minh Giảng về An Giang buồn phiền vì không giữ được thành Trấn Tây nên sinh bệnh rồi mất. Thật ra đây không phải là lỗi của ông mà vua Minh Mạng mới là người chịu trách nhiệm chính qua chính sách thật sai lầm, thiếu sáng suốt là thôn tính, xác nhập Chân Lạp vào Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>. Một di sản để lại nhiều hệ quả ngoại giao tai hại sau này mà người Chân Lạp không quên cho đến ngày nay.<br /><br /></span><b><span style="font-size:11.5pt">Phan Xích Long</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Sinh năm 1893, Phan Xích Long tên thật là Phan Phát Sanh, con của Phan Núi, một người cảnh sát gốc Hoa tại Chợ Lớn. Từ thuở nhỏ Phan Phát Sanh đã tỏ ra là một tay anh chị hảo hán, trừ gian diệt bạo, nhờ đó đã kết nạp rất nhiều đàn em và trở thành đại ca. Tháng 3, năm 1913 (Quý Sửu), "đại ca" Phan Phát Sanh tự xưng Phan Xích Long, tự nhận là Đông Cung con vua Hàm Nghi và tự tôn làm Hoàng Đế cùng với một số đàn em làm cách mạng chống Pháp. Họ chế tạo lựu đạn, trái phá, dán truyền đơn khắp chợ Sài Gòn, Chợ Lớn, Bình Tây kêu gọi dân chúng nổi dậy. Nhóm hội kín "Thiên Địa Hội" của Phan Xích Long đặt bom ở trụ sở bót cảnh sát, xưởng Ba Son, ở Chợ Lớn, Tân An, Sóc Trăng... đến tận Nam Vang (Cao Miên) làm thực dân Pháp sợ hải trước sự lớn mạnh và bạo gan của phong trào Phan Xích Long. Chẳng may Phan Xích Long bị bắt tại Phan Thiết cùng một số đồ đệ và. bị xử án chung thân khổ sai về tội khủng bố, phá rối trị an, giam tại nhà lao khám lớn <st1:place st="on">Saigon</st1:place>.<br /><br />Vụ án Phan Xích Long làm chấn động giới anh chị giang hồ mã thượng thời đó. Tháng 3-1916, thừa dịp Pháp đang bị Đức đánh tại mẫu quốc, một số đàn em dưới quyền của Hải Trí mặc áo đen, quần trắng, mang áo giáp da, trang bị bùa chú, tổ chức đánh phá Khám Lớn Sài Gòn để cứu "đại ca". Ban đầu rất nhiều thuyền nhỏ tứ xứ đến đậu chen nhau dưới gầm cầu Khánh Hội, đến ba giờ khuya là khởi sự. Dưới khẩu hiệu “Cứu đại ca”, các đồng đảng thảy đều uống bùa, cổ mang phù chú, tay cầm gươm mác, kéo lên Khám lớn Sài Gòn. Nhưng mã tấu và bùa chú không chống nổi súng đạn, nên ngoài một số bị chết tại trận, hầu như tất cả đều bị bắt, tất cả gồm 56 người. Vài ngày sau 56 "anh hùng" và "đại ca" đều bị xử tử và chôn chung trong một mộ ở Đất Thánh Chà (đường Hiền Vương, Chợ Lớn). Tiếng thơm vẫn còn lưu truyền trong giới giang hồ Chợ Lớn, tầng lớp lao động làm xấu hổ rất nhiều người trí thức, tự nhận làm cách mạng nhưng không có cái can đảm của những tay giang hồ hảo hán, với chí khí “trọng nghĩa khinh tài”, cùng chịu chết chung với nhau chứ không bỏ chạy. Trong dân gian, giai thoại về “tướng cướp” Phan Xích Long là đề tài của nhiều vỡ hát bội, hồ quảng hay cải lương sau này ở miền Nam.<br /><br /></span><b><span style="font-size:11.5pt">Trần Bội Cơ</span></b><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Trong kháng chiến chống Pháp, người con gái nữ sinh Trần Bội Cơ ở quận 5 (thành phố Hồ Chí Minh), người Hoa gốc Phúc Kiến, đã đấu tranh đòi bãi bỏ lệnh đóng cửa trường ngày 4/5 hàng năm. Chị bị bắt lúc đang diễn thuyết trước đám đông học sinh sau đó bị tra tấn và hy sinh lúc chỉ mới 18 tuổi, ngày 12/5/1950. Chị bị sát hại lúc cô em gái Trần Bội Anh đã về Vĩnh Long. Biết tình hình Sài Gòn bất ổn nên ba của chị, ông Trần Thủy <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>, tức tốc lên Sài Gòn định đón con gái về nhưng không kịp. Tại nhà xác Bệnh viện Chợ Rẫy, ông <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> đã ngất xỉu khi thấy thân xác không toàn vẹn của chị. Ngày 2-9-1950, chị được truy tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng 2. Sau ngày 30-4-1975, mộ chị được di dời từ Q.11 về nghĩa trang Lạc Cảnh, sau đó về yên nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ TP.HCM.<br /> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:4"><b><span style="font-size:12.0pt">Tổng luận<br /> <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal">Vùng đất Nam bộ khi mới khẩn hoang lập nghiệp, người Minh hương và người Hoa sau này cũng như dân Việt từ miền Trung vào tìm cuộc sống mới với những cư dân Miên, Mạ đã ở đấy trước đó. Để lại và quên đi những lầm than, sai trái, áp bức ở vùng đất mà họ phải ra đi, lưu dân sống mở vùng đất mới, họ dễ đồng cảm với nhau, không câu nệ và phóng khoáng coi những người cùng hoàn cảnh là anh em, coi vùng đất Nam bộ là quê hương mới. Tất cả coi nhau như anh em và chính thái độ này đã tạo ra phong cách đặc trưng của vùng đất này: thực thà, học hỏi lẫn nhau, phóng khoáng, thực dụng và không câu nệ.<br /><br />Một văn hóa mới đã được sinh ra dựa trên quan niệm và giá trị là mọi người đều bình đẳng không phân biệt với chí khí giúp kẻ cô thế, chống bất công và tinh thần hảo hán anh hùng “trọng nghĩa khinh tài”, không sợ, tiên phong tìm hay thử những cái mới, cái hay có thể áp dụng được làm tăng giá trị hay có lợi trong cuộc sống. Văn hóa <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ đã có những đóng góp to lớn từ người Minh Hương trong nhiều lãnh vực, đúng hơn là con người nam bộ một phần là con người Minh hương.<br /><br />Trong lãnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị, họ đã có những đóng góp lớn lao và hòa hợp như mọi công dân Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place>. Tùy theo từng thời kỳ của lịch sử, sự đóng góp tài năng có lên xuống là do thái độ và chính sách của chính quyền. Đã có những thời kỳ họ bị nghi kỵ và đối xử không công bằng như những đối tượng ngoại vi của cộng đồng dân Việt. Những chính sách sai lầm này là những kinh nghiệm quý báu mà chúng ta nên suy ngẫm và học hỏi. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="mso-margin-top-alt:auto;mso-margin-bottom-alt:auto; mso-outline-level:4"><b><span style="font-size:12.0pt"><br /><br />Tham khảo<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal"><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br />(1) Vương Hồng Sển, <st1:place st="on">Saigon</st1:place> năm xưa, Nxb Trẻ, 2002.<br />(2) Vương Hồng Sển, Hơn nữa đời hư, Nxb Trẻ, 2003.<br />(3) Cao Văn Lương, "Vài nét về giai cấp tư sản mại bản ở miền Nam dưới chế độ thực dân mới của Mỹ", Nghiên cứu lịch sử, số 2, tháng 3 và 4, 1976<br />(4) Phan An, Trần Đại Tân, Lưu Kim Hoa, Lê Quốc Lâm, “Gáp phần tìm hiểu văn hóa người Hoa ở Nam bộ”, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa-thông tin, 2006.<br />(5) Trần Hồng Liên, “Văn hóa người Hoa ở <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bộ”, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2005.<br />(6) Nguyễn Cẩm Thúy, Định cư của người Hoa trên đất Nam bộ (từ thế kỷ 17 đến năm 1945), Nxb Khoa học Xã hội, Hà nội, 2000.<br />(7) Trần Khánh, Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á, Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.<br />(8) Tsai Maw Kuey, Người Hoa ở miền Nam Việt <st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region>, Thư viện quốc gia, <st1:place st="on"><st1:city st="on">Paris</st1:city></st1:place>, 1968.<br />(9) Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Xuân Khoang - Phong tục Nam bộ xưa, tục thờ cúng thần thành hoàng tại làng thôn bắc bộ, Nxb Trẻ 1996.<br />(10) Nguyễn Đức Hiệp, Thăm mộ Trần Thượng Xuyên, <a href="http://213.251.176.152:8080/diendan/BanDocVaZD/thu-ban-111oc-15-1.2007/"><span style="font-size:12.0pt;mso-bidi-font-size:14.0pt;color:windowtext;text-decoration: none;text-underline:none">http://213.251.176.152:8080/diendan/BanDocVaZD/thu-ban-111oc-15-1.2007/</span></a></span><span style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal"> </span><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br />(11) Dương Đức Dũng, Những gương mặt tỷ phú Saigon trước năm 1975, Nxb Trẻ<br />(12) Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Khuê - Trần Khuê, SàiGòn Gia Định qua thơ văn xưa, Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.<br />(13) Huỳnh Minh, Gia Định xưa, Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 2007.<br />(14) Phạm Quỳnh, Một tháng ở Nam Kỳ, <a href="http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=2346&LOAIID=17&TGID=567"><span style="font-size:12.0pt;mso-bidi-font-size:14.0pt;color:windowtext;text-decoration: none;text-underline:none">http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=2346&LOAIID=17&TGID=567</span></a></span><span style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal"> </span><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br />(15) Lại Nguyên Ân, Một cuộc thảo luận về sách giáo khoa tiếng Việt trên báo chí Sài Gòn 1929–1930, Talawas 2006, <a href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8049&rb=06"><span style="font-size:12.0pt;mso-bidi-font-size:14.0pt;color:windowtext;text-decoration: none;text-underline:none">http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8049&rb=06</span></a></span><span style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal"> </span><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br />(16) Nguyễn Thị Hậu, Đi tìm quá khứ Sài Gòn, Xóm Lò Gốm xưa, <a href="http://www.vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=5238&LOAIID=18&LOAIREF=5&TGID=1046"><span style="font-size:12.0pt;mso-bidi-font-size:14.0pt;color:windowtext;text-decoration: none;text-underline:none">http://www.vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=5238&LOAIID=18&LOAIREF=5&TGID=1046</span></a>.</span><span style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal"> </span><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br />(17) Hứa Hoành, Những phú hộ lừng danh Nam Kỳ: Trương Văn Bền: nhà kỹ nghệ không bằng cấp kỹ sư, <a href="http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4nnntn1n31n343tq83a3q3m3237nnn0n"><span style="font-size:12.0pt;mso-bidi-font-size:14.0pt;color:windowtext;text-decoration: none;text-underline:none">http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4nnntn1n31n343tq83a3q3m3237nnn0n</span></a></span><span style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal"> </span><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br />(18) Li Tana, P. Van Dyke, Canton, Cancao and Cochinchina: New data and new light on eighteenth-century Canton and the Nanyang, Chinese Southern Diaspora Studies, Vol.1, 2007, p.10-28.<br />(19) Bình Nguyên Lộc, Lột trần Việt ngữ, <a href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9922&rb=08"><span style="font-size:12.0pt;mso-bidi-font-size:14.0pt;color:windowtext;text-decoration: none;text-underline:none">http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9922&rb=08</span></a></span><span style="font-size:11.5pt;mso-ansi-language:FR;mso-bidi-font-weight:normal"> </span><span style="font-size:11.5pt;mso-bidi-font-weight:normal"><br />(20) Vương Trí Nhàn, Ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa trong sự hình thành tiểu thuyết Việt <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> trước 1930 <a href="http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8433&rb=0102"><span style="font-size:12.0pt;mso-bidi-font-size:14.0pt;color:windowtext;text-decoration: none;text-underline:none">http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8433&rb=0102</span></a></span><span style="font-size:8.5pt;display:none;mso-hide:all;mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><o:p> </o:p></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-50175680565268327412011-04-20T07:53:00.000-07:002011-04-20T07:54:44.352-07:00QUOC HIEU VIET NAM QUA CAC THOI KY<p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:6.0pt;text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:16.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">Quốc hiệu Việt Nam</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:16.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:6.0pt;text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">Quản Hùng<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Quốc hiệu Việt Nam thay đổi khá nhiều theo dòng lịch sử của dân tộc Việt Nam . Nó còn biểu lộ sự tiến hóa của quốc gia và dân tộc Việt qua các thời kỳ lịch sử. </span><span style="font-size:11.0pt;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span style="font-size:11.0pt;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">I. ĐỊNH NGHĨA QUỐC HIỆU </span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">Quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia</span></b><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">. Quốc hiệu có nhiều ý nghĩa. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">1</span></b><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">. Nó biểu lộ chủ quyền của quốc gia trên vùng lãnh thổ của mình. Nó có thể khác với tên địa lý được gắn cho vùng đất hay vùng dân cư đó. Thí dụ : Chiêm Thành là tên Việt Nam gọi người Chàm, tên Giao Chỉ thường dùng để chỉ giống dân Cổ Việt trong vùng Bắc Việt Nam ngày xưa, nó khác với quốc hiệu Văn Lang thường được gán cho thời kỳ tiền sử này. Đó là phương diện địa lý của quốc hiệu. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">2</span></b><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">. Quốc hiệu cũng thường biểu lộ các yếu tố chính trị cho vùng đất hay cư dân chủ thể của quốc hiệu. Nó là danh xưng chính thức được dùng trong ngoại giao và bang giao quốc tế. Thí dụ: cho đến trước năm 1804 Việt Nam luôn luôn có hai quốc hiệu : một quốc hiệu dùng trong nước như Đại Cồ Việt, Đại Việt nhưng mặt khác người Trung Hoa láng giềng phương Bắc lại gọi Việt Nam là AN NAM. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">3</span></b><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">. Trong thời cận và hiện đại, quốc hiệu thường biểu lộ thể chế chính trị hay ước muốn chính trị của quốc gia. Quốc hiệu có thể nhấn mạnh về chế độ chính trị như chế độ xã hội hay cộng sản như Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, hay chế độ cộng hòa như Việt Nam Cộng Hòa. Đối với Việt Nam, chúng ta có đầy đủ những quốc hiệu theo địa lý hay chính trị theo dòng lịch sử vẻ vang của dân Việt <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">II. QUỐC HIỆU Việt Nam THEO THỜI GIAN <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Năm 2879 trước Tây Lịch: Kinh Dương Vương làm vua nước XÍCH QỦY <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Năm 690-258? trước CN: Vua Hùng Vương đặt tên nước là VĂN LANG <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Năm 257? - 208? trước CN : An Dương Vương chiếm Văn Lang, lập nước ÂU LẠC đóng đô ở Cổ Loa. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Năm 208- 111 trước CN: Triệu Đà (Zhao Tuo) tướng nhà Tần chiếm Âu Lạc, lập nước NAM VIỆT <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Năm 111 trước CN đến 542 sau CN: Việt Nam bị Trung Hoa đô hộ. Việt Nam lúc đó gọi là Giao Châu và được coi như một quận thuộc Trung Hoa, do các thai thú cai quản nên không có quốc hiệu. Năm 40-43, Hai bà Trưng lên làm vua nhưng không thấy ghi quốc hiệu. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Năm 542-602: Lý Bôn tự xưng Lý Nam Đế lập nước VẠN XUÂN, đóng đô ở Long Biên. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Năm 679-938: Nhà Đường lập AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ. Tên AN NAM có từ đây. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Năm 938 Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán mở đầu thời kỳ độc lập của nước ta nhưng phảỉ đợi đến năm 968 Đinh Tiên Hoàng dẹp được 12 sứ quân, thống nhất đất nước, mới đặt quốc hiệu là ĐẠI CỒ VIỆT. Năm 972, Trung Hoa chính thức công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập.nhưng vẫn phong cho Vua Đinh Tiên Hoàng làm GIAO CHỈ QUẬN VƯƠNG <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Tuy vậy Trung Hoa tiếp tục gọi Đai Cồ Việt là Annam và coi như là một phiên thuộc.Năm 1054, Lý thánh Tông đổi quốc hiệu là ĐẠI VIỆT. Năm 1164. Trung Hoa đổi tên GIAO CHỈ thành AN NAM QUỐC và phong cho vua Lý Anh Tông làm AN NAM QUỐC VƯƠNG <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">*Năm 1400-1407 Nhà Hồ đặt quốc hiệu là ĐẠI NGU <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Năm 1407-1804 : Quốc hiệu ĐẠI VIỆT được dùng trong nhiều thời kỳ. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Năm 1804: Trung Hoa công nhận quốc hiệu Việt Nam * Năm 1831, Vua Minh Mạng đổi thành ĐẠI NAM <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">9/3/1945-24/8/1945: Việt Nam <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>2/9/1945- 2/7/1976: Việt Nam DÂN CHỦ CỘNG HÒA <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>8/3/1949- 26-10-1955: QUỐC GIA Việt Nam <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>26-10-1955 đến 30-4-1975: Việt Nam CỘNG HÒA <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>2/7/1976: CỘNG HOÀ Xà HỘI CHỦ NGHĨA Việt Nam <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">III. Ý NGHĨA CỦ</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes">A QUÔ</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes">C HIỆU Việ</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-no-proof:yes">t Nam<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">A - Quốc hiệu: Ý nghĩa văn hóa <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Lịch sử của nhiều quốc gia dân tộc như Trung Hoa, Nhật, Việt, thường bắt đầu bằng những huyền thọai. Chính trong những truyện truyền kỳ thần thọai, tuy có thể do người đời sau sáng tác ra, nhưng đã lưu truyền trong nhiều ngàn năm nên có thể ẩn chứa những dấu vết văn hóa lịch sử. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Giống như vậy, quốc hiệu Việt Nam trong thời huyền sử cũng ẩn chứa những dấu vết của nền văn hóa Cổ Việt thời xa xưa. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Hai quốc hiệu thời huyền sử gây nhiều tranh cãi là XÍCH QUỶ và VĂN LANG. </span><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">Quốc hiệu Xích Quỷ</span></b><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language: VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">, còn gọi là Thích Quỷ, theo Việt Nam Sử Lược, là có nguồn gốc từ thủy tổ của người Việt là Kinh Dương Vương. Sách chép: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua Phuơng Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là XÍCH QỦY. Bờ cõi nước Xích Qủy bấy giờ phía Bắc gíáp Động Đình Hồ (hồ Nam) phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) phía đông giáp biển Nam Hải. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân. <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Đây là câu chuyện truyền kỳ, có thể do người đời sau viết ra nhưng phản ảnh nhiều điểm lý thú để tranh luận. Trước hết, nó có thể xác nhận sự khác nhau giữa hai nền văn hóa: văn hóa Trung Hoa ở phương bắc hồ Động Đình với nền văn hóa Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử. Danh xưng Xích Quỷ có liên hệ đến mầu đỏ (Xích = mầu đỏ). Xích Đế là Vị Thần Lửa phương Nam (1), Quỷ là Ma quỷ (2) Người Á Châu thường có thói gọi người lạ là quỷ như Bạch Quỷ, Hắc Quỷ. Chữ Quỷ còn có nghĩa là tên một vị sao trong nhị thập bát tú ( 3) <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Chúng ta hẳn còn nhớ rằng trên mặt những trống đồng Đông Sơn của dân Lạc Việt, tức dân Cổ Việt, đều có điêu khắc những vòng tròn vớí những ngôi sao. Các nhà nghiên cứu thường cho rằng những biểu tượng này liên hệ đến tục thờ Thần Lửa và tục thờ Thần Mặt Trời. Quốc hiệu đầu tiên của dân Việt là XÍCH QỦY phải chăng chính là tục thờ mặt trời này chăng? Trong địa phận người Cổ Việt cũng có từ Nhật Nam, mặt trời phương Nam, cũng có liên hệ đến truyền thuyết này chăng? Một trong những vua cổ Trung Quốc là Viêm đế ( viêm = nóng, tượng trưng cho lửa), ý nói đến hỏa đức tức lòng nhân ấm áp. Viêm Đế là vị Hoàng đế nhân từ thương dân (4) </span><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">Quốc hiệu thứ hai là VĂN LANG</span></b><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language: VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">, chắc cũng do đời sau thêm vào vì theo những thư tịch cổ sử thì vào đời các vua Hùng, chưa có văn tự rõ ràng. Văn Lang có nghĩa là quốc gia của những người có văn học, chứng tỏ không thua kém dân phương bắc. Theo Trần Gia Phụng thì Văn là vẻ đẹp, Lang theo chữ nho gồm chữ lương và bộ ấp”. Nói chung Văn Lang là vùng đất của những người lương thiện, thể hiện giá trị tư văn cao quý mà trời giao phó cho con người (5). Chữ LANG gợi cho chúng ta danh từ các quan Lang của những đồng bào Mường mà ngày nay thường được coi như cùng bọc trăm trứng với chúng ta không? Theo bác sỹ Hồ văn Châm dẫn theo GS Lê Hữu Mục thì VĂN tức là MÔN, LANG tức là LÀNG. Văn Lang là Làng Môn hay Làng của người Môn ( phát biểu trong Mạn đàm ngày 28-10-2007) <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">Văn Lang được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam</span></b><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"> . Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu, với lãnh thổ gồm khu vực đồng bằng Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Quốc gia này tồn tại cho đến năm 258 trước CN. Về sau, Thục An Dương Vương chiếm được Văn Lang của các vua Hùng, sát nhập các bộ lạc Lạc Việt với Âu Việt thành nước Âu Lạc. </span><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Theo Đào Duy Anh thì Âu Lạc gồm hai bộ tộc<span style="mso-spacerun:yes"> </span>quan trọng là Tây Âu và Lạc Việt. Cuộc liên kết giữa các bộ lạc Bách Viêt này biểu lộ qua Quốc hiệu thứ nhì là ÂU LẠC của dân Cổ Việt. Gần đây, theo tác gỉa Trương Thái Du, Âu Lạc là ký âm Hán tự của cụm từ “Đất nước xứ sở “.Ông cho rằng không có quốc gia Âu Lạc của Vua An Dương Vương. Suốt vùng Lĩnh Nam gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc Việt Nam, người ta gọi nơi sinh sống của mình là “Đất nước”, tức “Âu Lạc “(6) <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">B- Quốc Hiệu và thái độ nước lớn của Trung Hoa </span></b><b style="mso-bidi-font-weight: normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA; mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Khoảng năm 208 trước CN, Triệu Đà, một tướng của Tần Thủy Hoàng mang quân sang chiếm Âu Lạc. An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ. Triệu Đà đặt quốc hiệu là NAM VIỆT <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Nam Việt là quốc hiệu thời nhà Triệu (207 TCN-111 TCN). Vấn đề là quốc hiệu này có phải là một quốc hiệu của nước Việt Nam hay không? Triệu Đà là người Hán, quê huyện Chân Định, nhân lúc nhà Tần suy loạn đả nổi lên, lập ra nhà Triệu, lấy quốc hiệu là Nam Việt. Sử gia Lê văn Hưu và Ngô Sỹ Liên công nhận sự chính thống của nhà Triệu (7) và do đó công nhận quốc hiệu Nam Việt. Vua Quang trung, sau khi đánh bại quân Thanh năm 1789 đã có ý định đòi đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây với lý do đây là đất cũ của Nam Việt thời Triệu Đà <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Nếu coi như Triệu Đà và Nam Việt không nằm trong dòng chính thống của dân Việt thi cũng có thể coi Triệu Đà mở đầu cho hơn 1000 năm Bắc thuộc về sau. Trong thời gian này, Trung Quốc coi Việt Nam như môt quận huyện của Trung Hoa, nên vấn đề quốc hiệu không được đặt ra. Tuy vậy, mỗi khi nổi lên dành độc lập, thủ lãnh dân Việt thường tự xưng vương. Thí dụ: Năm 544 đến 602, Lý Nam Đế khởi nghĩa, đặt quốc hiệu là VẠN XUÂN mặc dù Trung Hoa coi như không có quốc hiệu này. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Trong suốt thời kỳ Bắc Thuộc, từ 110 TCN đất đai Giao Chỉ được chia thành 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân mà đứng đầu mỗi quận là thái thú, Năm 679 nhà Đường lập AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ. </span><span style="font-size:11.0pt;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Tên <b style="mso-bidi-font-weight: normal">An Nam</b> trở thành quốc hiệu người Trung Quốc chỉ quốc hiệu Việt Nam đã có từ đây. Còn danh từ An Nam đã có trong thư tịch cổ Trung Hoa từ lâu ( mạn đàm 28-10-2007) <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Ngay trong những thời gian đầu của thời kỳ Bắc Thuộc, Trung Hoa luôn luôn coi Xứ Giao Chỉ là nơi xa xôi man di mọi rợ. Theo học thuyết Khổng Mạnh, với tư tưởng Thiên Mệnh, người cầm đầu nhà Nước tự coi là Thiên Tử và coi Triều đại của họ là Thiên Triều. Họ tự coi mình ở giữa vũ trụ (Trung Quốc ) xem dân tộc mình là tinh hoa . Hoa làm chủ Trung Quốc còn các nước xung quanh là Nhung, Di, Man, Dịch. Họ gọi những người rợ phương bắc là Bắc Dịch, phương Tây là Tây Nhung, phương đông là Đông Di. Còn phương Nam la Nam Man, trong đó có người Việt Nam chúng ta. Chính vì thế nên danh từ An Nam có tính cách miệt thi và Trung Hoa tiếp tục sử dụng danh từ này như quốc hiệu chính thức cho Việt Nam đến tận năm 1804, đời Nguyễn Gia Long dù sau này Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lâp với những quốc hiệu khác nhau. </span><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Ngay cả năm 939, Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán, tự xưng vương, lập Hoàng Hậu, định triều nghi, Trung Hoa tiếp tục coi Việt Nam như là một quận huyện của họ.Vì thế họ chỉ phong cho Ngô Xương Ngập là con Ngô Quyền, làm TĨNH HẢI QUÂN TIẾT ĐỘ SỨ. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Năm 972 vua Đinh Tiên Hoàng cũng chỉ được Tống Thái Tổ phong cho làm GIAO CHỈ QUẬN VƯƠNG. Ba năm sau mới chiụ phong là NAM VIỆT VƯƠNG. Theo sử lệ Trung Hoa thì từ đời nhà Chu (1122-240 TCN ) chỉ có “cộng chủ” thiên hạ mới được phong tước Vương. Các vua chư hầu chỉ được phong là Công, Hầu, Bá,Tử, Nam. Về sau nhiều chư hầu cũng tự xưng là VƯƠNG. Đến nhà Tần, vua Trung Hoa mới xưng là Hoàng Đế. Đến nhà Hán, Trung Hoa chia các chư hầu thành quận huyện do Triều Đình trực tiếp cai tri. Đó là chính sách “Quận Quốc”. Tùy theo lớn nhỏ, người cầm đầu được phong tước VƯƠNG (Quốc Vương) hay HẦU (Vương Hầu) Tất cả đều là phiên thuộc(8). <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Đến năm 1175 đời Lý Anh Tông, Trung Hoa mới chịu cống nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập và phong cho Lý Anh Tông làm AN NAM QUỐC VƯƠNG. Phan Huy Chú nhận xét: “ </span><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Nhà Đinh, nhà Lê khi mới dựng nước,cầu phong chỉ phong làm KIỂM HIỆU THA1 SƯ, GIAO CHỈ QUẬN VƯƠNG, lâu rồi mới được tiến lên NAM BÌNH VƯƠNG. Các vua nhà Lý đều nối theo như thế cả. Đến Lý Anh Tông cầm chính quyền việc bang giao đầy đủ ân cần, được vua Tống khen ngợi mới cho tên nước, phong làm Chân vương. Về sau các triều nối nhà Tống nổi lên tuy muốn làm cho nhỏ đi mà không thể đổi khác được. Nghi điển long trọng ít có, mấy trăm năm chưa từng thấy, cái công khởi xướng kể cũng là to</span></i><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”(9) <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Tuy vậy, Trung Hoa ngoan cố vẫn coi Việt Nam như một quận huyện của mình dù phải công nhận Việt Nam là một quốc gia riêng. Nó biểu lộ trong cách gọi quốc hiệu AN NAM và phong cho vua Việt Nam là AN NAM<span style="mso-spacerun:yes"> </span>QUỐC VƯƠNG, dù biết rằng các vua Việt Nam thường có quốc hiệu riêng để dùng trong nước. Các vị vua Việt Nam thường phải chiều theo Thiên Triều Trung Hoa để Trung Hoa không tìm được lý do xâm lăng nước Việt. Việc xin phong vương, cũng như việc triều cống theo quy định là những việc đặc biệt trong quan hệ ngoại giao giữa nước ta và Trung Hoa. Việc xin phong vương của các triều đại phong kiến Việt Nam cũng trải qua nhiều khó khăn, không không phải là ngay từ đầu đã được phong vương ngay.Việc phong vương cho các vua Việt Nam có ý nghĩa khẳng định tính chính thống của một người đã được Thiên Triều đồng ý công nhận, chính danh định vị, khẳng định tính hợp pháp của một Triều đại hay một ông vua, nhất là khi có sự thay đổi từ triều đại này sang triều đại khác. Từ đó Thiên Triều Trung Hoa có nghĩa vụ bảo vệ an ninh, sự toàn vẹn lãnh thổ cho quốc gia hay xứ đuợc công nhận, không thể vô cớ sang xâm lăng, trừ trường hợp nước đó trái đạo trời. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Ngoại trừ những vua Việt Nam tiếm chiếm ngôi vua như Mạc hay Hồ, thái độ nước lớn của Trung Quốc, coi Việt Nam như phiên thuộc, khiến cho Triều Đình Việt Nam phải thi hành những chính sách đặc biệt. Trước hết, đấu tranh chống kỳ thị bằng cách: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Một mặt, trong các bài biểu, trần tình, thư, công văn phúc đáp, Triều đình Việt Nam và các sứ thần thường dùng những lời lẽ hết sức nhún nhường, khiêm tốn, hạ mình, tâng bốc sự sáng suốt của các Thiên Triều. Tuy hết sức nhún nhường nhưng bao giờ các văn biểu cũng giữ vững nguyên tắc là bảo vệ nền độc lập và chủ quyền dân tộc, khước từ mọi yêu sách vô lý làm hại đến quốc thể. Qua những văn kiện ngoại giao dưới đời Trần và Tây Sơn, ta thấy biểu lộ chính sách ngoại giao khôn khéo mà cương quyết này. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* Một mặt, khi đón tiếp sứ thần phương Bắc thì các vua Việt Nam thường tìm cách khoa trương sức mạnh quân sự và văn hóa của mình. Sử chép: Năm 990, Vua Tống Thái Tông sai hai sứ thần là Tống Cảo và Vương Thế Tắc đem chế sang phong cho Vua Lê Hoàn chức Đặc Tiến ( một chức quan to dưới hàng Tam công, chỉ những vua Chư Hầu có công đức được Triều Đình kính trọng mới được phong chức này) Vua Lê sai tướng là Đinh thừa Chính đem thủy quân gồm 9 chiến thuyền đến Thái Bình quân (Quảng Châu) đón sứ. Sự đón tiếp sứ thần cố làm vẻ sơ sài, kiêu ngạo. Khi sứ Trung Hoa sắp đến kinh đô mới có gian nhà lợp tranh đề chữ Àmao kinh dichÀ( Trạm qua đường lợp cỏ tranh) Đến khi quân ra đón ở ngoài thành thì quân dụng lộng lẫy, cờ xí dàn bầy khắp nơi. Vua Lê Đại Hành cùng sứ thần Tống Cảo dong ngựa đi song song. Theo sách Đại Việt Sử Ký Tòan Thư thì vua Lê đã cho bày thủy quân và chiến cụ để tỏ ra quân đội nghiêm minh, đã đánh thắng Chiêm Thành và cũng sẵn sàng bảo vệ đất nước nếu nhà Tống xâm lăng. Điểm đặc biệt là khi vào đến cung vua, đến cửa Minh Đức, vua giơ tay đón lấy bài chế của vua Tống từ tay sứ thần Tống Cảo để lên trên điện nhưng không lạy, lấy cớ bị đau chân vì ngã ngựa. Sử Trung Hoa cũng xác nhận vua Lê không chịu lạy. Nên nhớ là khi tiếp chiếu của Vua Trung Hoa, vua Việt Nam phải lạy 3 lạy 5 vái, vái Khâm sứ Tàu 2 vái (nhà Nguyễn)(10) </span><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">*</span><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Mặt khác, để tỏ nước Việt Nam là một nước có văn hiến, nên ngay từ nhà Đinh, các vua nước ta cũng rất thận trọng trong việc cử sứ thần đi sứ. Ngay từ đời Lý, vua cử sứ thần là những người có học vấn như Đào Tôn Nguyên, Lê văn Thịnh. Đời Trần cử những người gỉỏi như Phạm Sư Mạnh, Mạc ĐĩnhChi... Từ đời Lê, phần lớn những sứ thần đều là người đã đỗ Tiến sĩ, bởi vậy nhiều sứ thần như Mạc Đĩnh Chi được người Tầu kính phục văn tài đối đáp nên phong cho là Lưỡng Quốc Trạng Nguyên. Họ lại còn là những người có dũng khí can đảm, không sợ chết để bảo vệ chính nghiã quốc gia. Nhiều sứ thần đã hy sinh như Lê Quang Bí bi giam 18 năm thời nhà Nguyên, Nguyễn Biểu bi thử thách ăn thịt đầu người rồi bị dìm chết... </span><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">* </span><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Các sứ thần còn phải tranh đấu đòi Trung Hoa phải bỏ lệ cống người vàng thay thế tướng Liễu Thăng chết trận. Đó là công của sứ thần Nguyễn Công Hãn đời Hậu Lê (Lê Dụ Tông, 1718) Nhưng gay cấn và dai dẳng là cuộc đấu tranh chống thái độ của Trung Hoa coi Việt Nam là một nước Man Di mọi rợ. Rất nhiều phái đoàn bang giao Việt Nam đều tìm cách chống lại cách gọi khinh bỉ đó. Năm 1762 khi sứ bộ Trần Huy Mật sang cống, các quan lại nhà Thanh vẫn dùng chữ di quan, di mục để gọi sứ thần ta. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Lê Qúy Đôn đã phản bác lại cách dùng khinh miệt đó để buộc Trung Hoa phải gọi sứ thần Việt Nam là “An Nam Cống Sứ “. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Năm 1790 thời Tây Sơn, chúng vẫn gọi sứ thần ta là “di quan”, Võ Huy Tấn đã phản bác và làm thơ biện luận tỏ rõ sức mạnh của ta. Cho đến tận thế kỷ 19, năm 1831, khi Lý Văn Phúc đi sứ bọn quan lại nhà Thanh lại dùng chữ “di quan”,Lý Văn Phúc đã phản đối, buộc chúng phải sửa đổi. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">Mặc dù thế, quốc hiệu AN NAM do người Trung Hoa đặt cho Việt Nam không thay đổi đến tận năm 1804</span></b><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">, là năm họ công nhận quốc hiệu mới là Việt Nam. Quốc hiệu An Nam cũng bị người Tây phương dùng trong thời hiện đại để chỉ Việt Nam . <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Vua quan Việt Nam dùng hình thức khác để chống lại cái danh từ đầy tính cách miệt thị này. Trước hết, tuy bề ngoài nhận phong vương, được thiên triều gọi là AN NAM QUỐC VƯƠNG, ban cho sắc phong và ấn vàng tượng trưng cho quyền lực của thiên triều, nhưng những thứ đó luôn được cất kỹ. Ấn thiên triều chỉ dùng trong văn thư ngoại giao với Trung Hoa, còn trong nước thì các vua Việt Nam vẫn xưng là Hoàng Đế ngang hàng với Hoàng Đế Trung Hoa. Nước Việt Nam từ thời nhà Đinh đã có những quốc hiệu chính thức dùng trong nước và trong sử sách Việt Nam . Cũng để tỏ ra ngang hàng với Trung Hoa, các quốc hiêu này thường có ý nghiã nêu rõ một nước Việt to lớn, vĩ đại, đó là các quốc hiệu ĐẠI CỒ VIỆT, ĐẠI VIỆT, ĐẠI NGU. ĐẠI NAM. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">C-Quốc Hiệu Việt Nam thời độc lập </span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">1. Đại Cồ Việt (968-1053)<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Nếu <b style="mso-bidi-font-weight: normal">Vạn Xuân có thể là quốc hiệu đầu tiên của dân Việt thì Đạị Cồ Việt là quốc hiệu chính thức đầu tiên trong thời kỳ nước ta đã dành được độc lập</b>. Sau khi dẹp xong 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua năm 968, đặt quốc hiệu là ĐẠI CỒ VIỆT. Quốc hiệu này có hai cách gíải thích: Cách thứ nhất là xem Cồ là một chữ thuần Nôm.Theo Đại Nam Quấc Âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của, xuất bản tại Saigòn năm 1896, quyển I trang 177 thì Cồ là lớn, ví dụ vịt cồ, gà cồ. ( 11) Nếu theo cách giải thích này thì Đại Cồ Việt là nước Việt lớn, lớn tức là hai lần lớn. Vào thời Phùng Hưng, đã có danh hiệu thuần Nôm Cái trong Bố Cái Đại Vương và người Việt miền Bắc thường dùng từ “cáí “ để chỉ chữ lớn như sông Cái, chữ Cái... <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Cách gỉải thích thứ nhì là xem chữ Cồ là một chữ Nho. Trần Gia Phụng cho biết như sau : <i style="mso-bidi-font-style: normal">Căn cứ trên cách viết quốc hiệu Đại Cồ Việt theo lối chữ Nho của Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược và dựa vào sách Từ Hải, do Thương vụ Ấn thư quán xuất bản tại Thượng Hải năm 1935, trang 954, chữ “Cồ” gồm ở trên hai chữ ÀmụcÀtượng trưng cho cặp mắt (mắt sáng), ở dưới là chữ “ chuy” là tên chung của những loài chim đuôi ngắn. Ghép chung hai chữ mục và</i> <i style="mso-bidi-font-style: normal">chuy thành chữ cù đọc trệch là cồ có nghiã là loại chim ưng, mắt sáng đuôi cụt. Loại chim nầy cũng có thể là những chim cắt, chim đại bàng thỉnh thoảng ngày nay còn bắt gặp trong các vùng rừng núi Việt Nam</i> (12). <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Tự Điển Hán Việt của Đào Duy Anh cũng cho rằng cồ là sức trông xa của chim ưng (13). Nếu hiểu chữ cồ là loại chim ưng mắt sáng thì quốc hiệu Đại Cồ Việt có ý nghiã là Nước Việt có chim ưng lớn mắt sáng” hoặc Nước Việt lớn có loại chim ưng mắt sáng” <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Nếu Đào Duy Anh cho rằng vật tổ của dân Lạc Việt là những chim lạc có khắc trên trống đồng,thì có thể chim ưng là biểu tượng Việt Nam thời Nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý cho đến năm 1054 chăng? <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">2. ĐẠ</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">I </span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes"><span style="mso-spacerun:yes"> </span>VIET(1054-1399) </span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Nhà Đinh (968-980) trị vì được 12 năm thì Lê Hoàn thay thế, lâp ra nhà Tiền Lê (980-1009). Năm 1010, Lý Công Uẩn thay thế nhà Tiền Lê, lập ra nhà LÝ, mở đầu thời kỳ hưng thịnh của nước ta. Trong suốt thời kỳ này, Trung Hoa tiếp tục coi Việt Nam là một quận huyện của họ và chỉ phong cho vua ta chức GIAO CHỈ QUẬN VƯƠNG. Năm 1164, khi bi rợ Kim uy hiếp phía bắc và năm 1075, Lý Thường Kiệt đem quân sang đánh các châu Khâm, Liêm, Ung, Nhà Tống với vua Tống Hiếu Tông mới chịu đổi tên nước ta với quốc hiệu mới là AN NAM QUỐC và phong vua ta làm AN NAM QUỐC VƯƠNG năm 1175 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Phan Huy Chú cho biết: <i style="mso-bidi-font-style:normal">Về sau ở Trung Hoa, các triều đại nối nhà Tống, tuy muốn làm cho nhỏ đi mà không thể đổi khác được</i>. (14). <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">3. ĐẠI NGU (1400-1407) <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Đại Ngu là quốc hiệu Việt Nam đời nhà Hồ. Sau khi đảo chánh nhà Trần, Lê Quý Ly lên làm vua. Lê Quý Ly vốn dòng dõi người Chiết Giang bên Trung Hoa. Ông tổ là Hồ Hung Dật di cư sang Cổ Việt thời Ngũ Đại (907-959). sinh sống tại làng Bào Đột, huyện Quỳnh Lưu Diễn Châu ( Nghệ An ), sau con cháu Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm di sang Thanh Hóa, vào làm con nuôi Lê Huấn nên chuyển sang họ Lê tức Lê Liêm. Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm nên khi làm vua, Quý Ly trở lại họ Hồ. Theo truyền thuyết Trung Hoa, con của Ngu Yên là Vĩ Mãn, thuộc dòng dõi vua Thuấn, người nước Ngu, được Vua Vũ Vương nhà Chu phong cho ở đất Trần gọi là Hồ Công. Nên nhớ rằng chữ Đại Ngu thì chữ “ngu” ở đây có nghĩa là sự yên vui, chứ không phải là ngu si. Ngu còn là danh hiệu của nứơc Ngu thời Ngu Thuấn (2255-2208 tcn) Có lẽ Quý Ly mơ xây dựng một Đại Việt hoàng kim như thời Nghiêu Thuấn chăng? <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Năm 1407, nhà Minh, dù đã sắc phong cho Hồ Hán Thương làm An Nam Quốc Vương năm 1403, vẫn đem quân xâm lăng Đại Ngu, bắt gia đình Hồ Quý Ly, xóa quốc hiệu Đại Việt, thi hành chính sách đồng hóa triệt để. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">4. ĐẠI VIỆT (1428-1804) </span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Năm 1418, Lê Lợi khởi nghiã ở Lam Sơn. Mười năm sau, Lê Lợi toàn thắng quân Minh, lên làm vua tức vua Lê Thái Tổ, đặt trở lại quốc hiệu Đại Việt. Mãi đến năm 1431 sau nhiều thương thảo của nhiều sứ đoàn, Trung Hoa mới chịu công nhận và phong cho vua Việt làm “Quyền thự An Nam Quốc sự” (tạm quyền coi việc nước An nam). Mãi về sau mới phong làm An Nam Quốc Vương. Nhưng cũng như các đời trước, quốc hiệu Đại Việt vẫn được sử dụng cho đến tận đời Nguyễn Gia Long.(1804) <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">5. VIỆT NAM (1804-1837)</span></b><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language: FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Ngay từ khi mới lên ngội, vua Gia Long đã cử sứ thần sang Trung Hoa xin nhà Thanh phong vương và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt với lý lẽ rằng Nam là Annam, Việt là Việt Thường. Nhà Thanh từ chối vì cho rằng Nam Việt là tên nước của Triệu Đà ngày trước, bao gồm cả vùng Lưỡng Quảng Trung Quốc. Thanh triều cho đổi chữ Việt ra trước thành tên Việt Nam . <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Tháng giêng năm 1804, nhà Thanh sai sứ thần là Tế Bồ Sâm, Án sát sứ Quảng Tây sang Thăng Long tuyên phong Gia Long làm Việt Nam QUỐC VƯƠNG. Vua Gia Long chính thức đặt quốc hiệu là Việt Nam. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Về ý nghĩa từ Việt Nam, nhiều giả thuyết cho rằng từ Việt Nam kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam ). Có nhiều tác gỉả cho rằng Nguyễn Trãi trong Dư Địa Chí và sách Vân Đài Loại Ngữ có nói đến quốc hiệu Việt Nam từ trước đời Gia Long. Tác phẩm Dư Địa Chí có nói đến chữ “ Việt Nam ở mục số 2 và số 13. Vân Đài Loại ngữ, quyển thứ 3 là khu vũ loại có nhắc đến chữ Việt Nam.<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Nhưng theo Trần Gia Phụng thì đây không phải là quốc hiệu nước ta vì cả hai tác phẩm của Lê Quý Đôn và Nguyễn Trãi đều căn cứ vào bộ sử cũ như Toàn thư, Annam chí lược, Việt sử tiêu án, Cương Mục hoàn toàn không có nói đến quốc hiệu Việt Nam . Nguyễn Trãi và Lê Quý Đôn dùng chữ Việt Nam theo nghĩa nước Việt hoặc người Việt ở phương Nam, chứ không phải một nước có tên là Việt Nam (15). Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ thế kỷ 14 đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí ( nay không còn ) do Hàn Lâm viện học sĩ Hồ Tông Tốc biên soạn. Trong tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) ngay trang mở đầu tập Trình Tiên sinh quốc ngữ đã có câu “ Việt Nam khởi tổ xây nền “ Người ta cũng tìm thấy hai chữ Việt Nam trên những tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm(1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ(1590) ở Hà Tây, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “ Việt Nam hầu thiệt, trấn bắc ải quan” ( đây là cửa ngõ yết hầu Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc)... Hiểu theo nghĩa Việt Nam quốc hay Người Việt phương Nam.? ai có lý ?(16)) <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Sau đây là Chiếu tuyên cáo đặt quốc hiệu mới của Vua Gia Long do Phan Huy Ích soạn: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Xuống chiếu cho thần dân thiên hạ đều biết. Trẫm nghĩ: Xưa nay các bậc Đế Vương dựng nước,ắt có đặt quốc hiệu để tỏ rõ sự đổi mới. Hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp. Xét trong sách cũ đã có chứng cớ rõ ràng.Nước ta sao Dự, sao Chẩn, cõi Việt hùng cường. từ trước đã có Văn Lang, Vạn Xuân nhưng còn quê kệch. Đến đời Đinh Tiên Hoàng, gọi là Đại Cồ Việt, nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ đời nhà Lý về sau quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước đặt làm hiệu nước. Do vậy vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao dời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghiã chân 1inh dựng nước . Trẫm nối theo nghiệp cũ, gầy dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, tuần xét núi sông, nên đặt tên tốt để truyền lâu dài. <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Ban đổi tên nước là Việt Nam <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Đã tư sang Trung Quốc biết rõ <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Từ nay trở đi,</span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> </span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">cõi Viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền. <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Hễ ở trong bờ cõi đều hưởng phúc thanh minh. <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Vui thay. <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Nghĩa xuân thu nhất thống đã truyền khắp bốn phương, ân huệ lâu dài và muôn phúc cao dày mọi người cùng hưởng. Vậy bá cáo rộng khắp để mọi người cùng biết. <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Nay chiếu</span></i><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes"> <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Giáp tý xuân phụng nghĩ tân kiến quốc hiệu tuyên cáo <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Mùa xuân năm Gíáp Tý, vâng lệnh vua sọan bản tuyên cáo đặt quốc hiệu mới) <o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Theo Dụ Am văn tập,q. 5, tờ 14b-15b. Trần Lê Hữu dịch<span style="mso-spacerun:yes"> </span>(17) <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">6. ĐẠI NAM (1838-1945) </span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Vua Gia Long thăng hà vào năm 1820. Vua Minh Mạng nối ngối (1820-1840) Với chính sách trung ương tập quyền, Vua Minh Mạng đã đưa Việt Nam thành một quốc gia lớn rộng và tương đối hùng mạnh trong vùng Đông Nam Á. Do vậy, ngày 3 tháng 2 năm Mậu tuất (1938) Vua Minh Mạng quyết định đổi quốc hiệu từ Việt Nam sang ĐẠI NAM. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Đại ý lời chiếu của nhà vua nói rằng... Đức Triệu Tổ (Nguyễn Kim) dựng nên cơ nghiệp ở cõi Nam, Đức Thế Tổ (Gia Long) lấy được cả đất Việt Thường, nhân dân thêm đông, lãnh thổ thêm rộng, nay đổi tên là Đaị Nam, kể từ năm thứ 20 (Minh Mạng), hoặc gọi là Đại Việt Nam cũng được(18) <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Việc thay đổi quốc hiệu lần này, nằm trong chiều hướng một quốc hiệu cho nước Việt vĩ đại ở Trời Nam, dành cho người nước Nam, đã bắt đầu từ quốc hiệu Đại Cồ Việt ngày xưa. Đó cũng là sự tiép nối chính sách coi quốc hiệu Việt Nam như là biểu tượng cho một cộng đông người Việt ở Phương Nam, có dân, có đât và có văn hóa ngang hàng với các nước khác. ó cũng là biểu tượng của nền độc lập của Đại Việt, nơi mà ngay từ thời Lý Nam Quốc Sơn Hà Nam đế cư, Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư (non sông nước Nam do người Nam ở, đã ghi rõ trên sách Trời từ lâu)! <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Quốc hiệu Đại Nam được Triều đình Việt Nam dùng đến năm 1945 nhưng thật ra, sau khi ký hòa ước 1884, Việt Nam đã bị Pháp xâm lược và thiết lập chế độ thuộc địa. Nước Việt Nam bị chia làm ba phần có chế độ chính trị khác nhau: Bắc Kỳ hay Tonkin theo chế độ bảo hộ. Nam kỳ hay Cochinchine là thuộc điạ Pháp do viên Thống Đốc cai tri. Riêng Trung kỳ vẫn thuộc Đại Nam nhưng bị bảo hộ gián tiếp trên thực tế. Cả ba phần đều nằm trong Liên Bang Đông Dương do viên toàn quyền Pháp đứng đầu. Mặc dù phải chiụ sự đô hộ của Pháp, Triều Đình Huế vẫn coi nước ta là nước thống nhất Nam Trung Bắc với quốc hiệu ĐẠI NAM cho đến tận 1545, dù rằng người Pháp gọi nước ta là ANNAM và vua nước ta là Vua Annam <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify;text-indent:36.0pt"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">D - Quốc hiệu Việt Nam vơi các tiêu đề chính trị <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Từ 1945. đất nước Việt Nam bị cuốn theo cơn lốc chính trị với những cuộc đấu tranh giành độc lập, tự chủ hay mưu cầu áp dụng những chủ nghĩa mới, những hinh thức chính trị mới. Cho nên từ đấy mỗi khi nắm được chính quyền và đất nước, các nhà cầm quyền tìm cách thay đổi quốc hiệu bằng cách thêm vào quốc hiệu Việt Nam những từ để nêu rõ đường hướng chinh trị của mình. Ta lần lượt điểm qua vài thí dụ: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">1. VIỆT NAM (3-5-1945) <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và lên tiếng trao trả độc lập cho Việt Nam . Ngày 11-3-1945, Vua Bảo Đại công bố Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, hủy bỏ những hòa ước đã ký với Pháp, giải tán nội các của Triều Đình Huế, mời Trần Trọng Kim lập chính phủ độc lập ra mắt ngày 17-41945. Ngày 3-5-1945 vua Bảo Đại tuyên chiếu xác nhận quốc hiệu mới như sau: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Chư Khanh, Nội các này là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập sau tám mươi năm thuộc quyền ngoại quốc thống trị.. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Hiến Pháp tương lai của Việt Nam sẽ căn cứ vào sự hợp nhất quốc gia, quân dân hợp tác và quy định những quyền tự do,chính trị tôn giáo cùng nghiệp đoàn của nhân dân...À (19) <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Như thế bản Tuyên chiếu này mặc nhiên gọi nước ta là Việt Nam như thời Gia Long. Các quốc hiệu về sau thường giữ tên Việt Nam, nhưng kèm những cụm từ để bổ túc nêu rõ những thể chế chính trị như Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chẳng hạn. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">2. VIỆT NAM DÂN CHU CỘNG HOA <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Ngày 14-8-1945, Nhật Bản đầu hàng. Năm ngày sau, Hồ chí Minh và Mặt Trận Việt Minh Cộng Sản cướp chính quyền tại Hà Nội. Bảo Đại tuyên bố thoái vị ngày 30-8. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh thành lập nước Việt Nam DCCH. Quốc hiệu này chỉ rõ rằng Cộng sản tuy nắm chính quyền nhưng vẫn núp sau chiêu bài đoàn kết dân tộc để lôi kéo các thành phần khác trong xã hội . <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">3. NAM KY QUỐC hay NAM KY CỘNG HOA QUỐC </span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:11.0pt;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Với ý đồ trở lại Việt Nam, Pháp ủng hộ việc thành lập một nước mới bù nhìn nằm trong Liên Hiệp Pháp nên ngày 26-3-1946 chính quyền Nam Kỳ Quốc hay Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc (République de Cochinchine) ra đời. Danh xưng này tồn tại được hai năm, sau đó giải thể, đổi tên lại thành Chính Phủ Nam Phần Việt Nam . Chính phủ này sát nhập vào chính quyền Lâm thời Quốc Gia Việt Nam ngày 2-6-1948. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng, chính phủ hữu danh vô thực này chỉ là trò múa rối của thực dân Pháp nên không thể coi danh xưng Nam Kỳ Quốc như là một quốc hiệu được. <b style="mso-bidi-font-weight: normal"><o:p></o:p></b></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">4. QUỐC GIA VIET NAM <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Quốc gia Việt Nam là danh xưng của chính quyền quốc gia trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, ra đời chính thức từ hiệp ước Élysée ký ngày 8-3-1949 giữa Tổng Thống Pháp Vincent <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Auriol và Bảo Đại. Về danh nghiã, Quốc Gia Việt Nam là một quốc gia độc lập, nằm trong khối Liên Hiệp Pháp. Danh xưng Quốc Gia Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955). Năm 1955, Ngô Đình Diệm truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền mới với quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hoà. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Chúng ta nên nhớ rằng ngày 14-1-1950, phe Cộng Sản Quốc Tế với Liên Sô và Trung Cộng đã lập tức công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ngày 7-2-1950 Hoa kỳ và Anh quốc thừa nhận Quốc Gia Việt Nam . <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">5. VIỆT NAM CỘNG HOA <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Ngày 20-7-1954, Hiệp định Genève chấm dứt chiến tranh Đông Dương, chia Việt Nam thành hai khu vực với hai thể chế khác nhau, lấy sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Phía Bắc theo chế độ CS với quốc hiệu Việt Nam DCCH, thủ đô là Hà Nội. Phía Nam, là Quốc Gia Việt Nam . Với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, Ngô Đình Diệm thành công đưa khoảng 1 triệu người di cư trốn chạy CS vào Nam, tiêu diệt các gíáo phái ly khai và ổn định tình hình chính trị. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Ngày 23-10-1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý, lật đổ quốc trưởng Bảo Đại. Ba ngày sau, Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập nền Cộng Hòa với quốc hiệu là Việt Nam CỘNG HÒA, thủ đô là Saigòn. Việt Nam Cộng Hòa tồn tại trong 20 năm và sụp đổ vào ngày 30-4-1975. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">6. CỘNG HOA MIỀN NAM VIỆT NAM <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Năm 1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố không bị ràng buộc vào điều 4 hiệp định Geneve 1954 nên sẽ không có tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam . Chính phủ Việt Nam DCCH ở Hà nội quyết định dùng võ lực xâm lăng Việt Nam CH. Ngày 20-121960 Hà Nội thành lập Mặt Trận Dân Tộc Gỉải Phóng Miền Nam Việt Nam về phương diện quân sự. Đến ngày 10-6-1969 họ mới thành lập Chính Phủ Cách Mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Nhưng chính phủ nay không đất không dân nên caí gọi là CHMN Việt Nam, tương tự như danh xưng Nam Kỳ Quốc, danh xưng Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, một trong những chiêu bài chính trị để lừa bịp nhân dân quốc nội và quốc tế, cũng không phải là một quốc hiệu được công nhận. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">7. CỘNG HOA XHCN VIỆT NAM</span></b><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language: VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"> . <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Đó là lý do mà sau 30-4-1975. Việt Nam DCH nắm thực quyền trong cả nước Việt Nam nhưng vẩn duy trì chính phủ bù nhìn Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam và cả hai chính phủ Việt Nam DCCH và CHMN Việt Nam cùng xin gia nhập Liên Hiệp Quốc nhưng bị khước từ. Quốc tế không ngu tí nào. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Cho nên, năm 1976, Hà Nội tiến hành gỉải tán chính phủ lâm thời CHMN Việt Nam, thực hiện cuộc “hiệp thương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước” Ngày 2-7-1976, Quốc hội khóa 6 nước Việt Nam DCCH quyết định đổi tên nước là CHXHCN Việt Nam, thủ đô là Hà nội. Trò chơi lấy quốc hiệu đi bịp thế giới tạm chấm dứt! <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Nhưng chưa đâu!. Vào tháng 4 năm 2007, Đảng Cộng Sản Việt Nam tìm cách tung tin đề thăm dò việc dùng quốc hiệu Việt Nam như là một lá bài chính tri để lừa bịp nhân dân quốc nội và quốc tế một lần nữa. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Tờ Straits Time của Singapore đưa tin: Một số các nhà lãnh đạo trong Đảng CS Việt Nam đang cân nhắc việc trở lại tên Đảng Lao Động Việt Nam. tức là tên do Hồ Chí Minh đổi từ Đảng CS Việt Nam sang từ năm 1951. Phóng viên Roger Mitton ở Hànội và Gíáo sư Tương Lai, nguyên Viện Trưởng Viện Xã Hội Học Hànội, cùng đưa tin rằng ĐCS Việt Nam sẽ bỏ danh xưng CS, trở lại với tên Đảng Lao Động Việt Nam cùng với tên nước là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Âm mưu này nhằm đánh lừa, môt lần nữa, mọi người về chủ nghĩa CS đã bị đào thải trên thế giới.(20) <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Như thế có thề trong tương lai, lại một lần nữa, quốc hiệu Việt Nam của chúng ta lại bị dùng như một công cụ lừa bịp chính trị vậy. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">Thay lời kết <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Quốc hiệu do người đặt ra thay đổi với thời gian và nhu cầu của con người. Quốc gia dân tộc là một thực thể bền vững hơn nhiều. Do vậy, dù quốc hiệu nước ta có mang tiêu đề chính tri phe phái nào, hai tiếng Việt Nam vẫn vĩ đại và trường tồn trong tâm tư của mỗi người con dân Việt. Việt Nam vẫn' nghe từ vào đời', bây giờ và maĩ maĩ về sau.... <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Montréal 10/2007</span><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt; mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">Quản Hùng<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes">Chú Thích: <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">1. Đào Duy Anh: Tự điển Hán Việt. Nxb KHXH 1996 tr. 576 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">2. Đào duy Anh, sđd, tr. 168 </span><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">3 .Đào duy Anh tr. 168 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">4. Trần Gia Phụng, Việt Sử Đại Cương Nxb Non nước, Toronto, 2001 tr. 64 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">5. như trên . tr. 65. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">6. Trương Thái Du; Cổ sử Việt Nam, một cách tiếp cận vấn đề. Nxb Lao Động 2007 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">7. Xem quan điểm của Lê văn Hưu và Ngô sỹ Liên trích trong Wikipedia tiếng Việt tr. 5 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">8. Trần Gia Phụng, Những câu chuyện Việt sử, Toronto 1999 tr. 65 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">9. Nguyễn Thế Long, Chuyện đi sứ -tiếp sứ Thời xưa. Nxb Văn Hóa Thông tin 2001 tr. 24 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">10. </span><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Nguyễn Thế Long, sđd, tr. 63-64 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">11. </span><span lang="VI" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Trần Gia Phụng, Những câu chuyện Việt Sử tr. 37 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">12. id trang 38 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">13. Đào Duy Anh, Tự điển Hán Việt, sđd, tr. 110 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">14. Nguyễn Thế Long, sđd, tr. 24</span><span lang="FR-CA" style="font-size:11.0pt;mso-ansi-language:FR-CA;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">15. Trần Gia Phụng, Những câu chuyện Việt Sử, sđd, tr. 51, 52. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">16. Wikipedia, tr. 5 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">17. Trần Gia Phụng : Những câu chuyện..sđd,. tr. 13-14 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">18. Trần Gia Long, những câu chuyện.. sđd,tr. 45 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">19. Trần Gia Phụng, Những câu chuyện Việt sử, tr.46 <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size: 11.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">20. Saigon Nhỏ, số 12 ngày 26-10-2007.tr.11</span><span style="font-size:11.0pt;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><o:p> </o:p></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-19168474343987769552011-04-20T07:52:00.000-07:002011-04-20T07:53:23.133-07:00NGUYEN AN NINH VA BAO TRANH DAU<p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:6.0pt;text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:17.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes">Nguy</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:17.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes">ễ</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:17.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language: VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">n An Ninh</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:17.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes"> v</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:17.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes">à</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:17.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-fareast-language: FR-CA;mso-no-proof:yes"> </span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:17.0pt;mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language: VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">Báo Tranh Đ</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:17.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">ấ</span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:17.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes">u<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" align="center" style="margin-top:6.0pt;text-align:center"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:17.0pt;mso-bidi-font-size: 12.0pt;mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">BS </span></b><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span lang="VI" style="font-size:17.0pt; mso-bidi-font-size:12.0pt;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-no-proof:yes">Trần Nguơn Phiêu<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Trong hai thập niên 1930-1940, tình hình chánh trị ở miền Nam đã có một thời sôi động mãnh liệt do sự xuất hiện của Nguyễn An Ninh trên diễn đàn công luận. Tốt nghiệp cử nhân Luật năm 1920 sau một thời du học ở Pháp, nơi mà ông đã được dịp gặp gở, học hỏi, tranh luận với những nhân vật ái quốc lưu vong trên đất Pháp như Phan Văn Trường, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành (Nhóm Ngủ Long)..., Nguyễn An Ninh đã nghe theo lời khuyên của Phan Châu Trinh trở về nước tìm cách mở mang dân trí, trực diện tranh đấu chống chánh quyền thực dân thuộc địa. Bài diễn văn </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">“</span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">Cao vọng thanh niên</span></i><i style="mso-bidi-font-style: normal"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span></i><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">của ông đọc trong đêm 15-10-1923 tại hội Khuyến học SAMIPIC đã có kết quả như một quả bom được phát nổ, mở màn cho một phong trào cách mạng trong lòng dân chúng miền Nam.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Hình ảnh một trí thức khoa bảng Nguyễn An Ninh đứng bán báo <i style="mso-bidi-font-style:normal">Chuông Rè (La Cloche Fêlée) </i>của ông ở góc đường Catinat - Lagrandière đã đánh động lương tâm của giới trẻ trí thức miền Nam. Nguyễn An Ninh được giới thanh niên ngưỡng mộ, xem ông là một thần tượng. Những người có tâm huyết yêu nước như Phan Văn Hùm, sau khi tốt nghiệp nghành Công chánh ở Hà Nội, đã trở về Nam sát cánh với Nguyễn An Ninh di chuyển khắp vùng Lục tỉnh để vận động quần chúng. Cả hai nhà cách mạng đều đã phải vào tù sau vụ bị mật thám Cai Nên khiêu khích ở ga xe lửa Bến Lức. Phan Văn Hùm đã nhân vụ nằm Khám Lớn sau vụ </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">“</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">án ga Bến Lức</span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">” </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">viết lên tác phẩm </span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Ngồi Tù Khám Lớn</span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span></i><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">, vạch trần các đối xử dã man của chế độ lao tù thực dân cho đồng bào thấu rõ. Chánh quyền thực dân đã phải ê mặt cho tịch thâu ngay sách vừa xuất bản. Một nhà cách mạng khác là Tạ Thu Thâu trong thời trẻ vẫn đặt hình Nguyễn An Ninh nơi trang trọng nhất ở phòng khách của một căn phố nhỏ ở đường Thốt Nốt (Gia Định) để tỏ lòng ngưỡng mộ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Sự xuất hiện của tờ báo <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Cloche Fêlée</i> của Nguyễn An Ninh đã mở đầu ở miền Nam, một hình thức mới, công khai trực diện tranh đấu với chánh quyền thực dân thuộc địa. Sau cuộc khởi nghĩa Yên Báy của Việt Nam Quốc Dân Đảng bị thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp khốc liệt cũng như phong trào được gọi là </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Xô viết Nghệ Tỉnh</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”của Cộng Sản Đệ Tam bị thảm bại, việc sử dụng bạo lực đấu tranh đã đi vào một giai đoạn thoái trào tưởng chừng như không lối thoát.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Cuộc án xử tử 13 vị anh hùng Yên Báy đã được những người ái quốc Việt Nam ở Pháp dấy lên một phong trào phản đối rầm rộ để đánh động dư luận quần chúng Pháp. Cuộc tổ chức biểu tình xin giảm án tử hình trước dinh Tổng thống Pháp ngày 22- 5-1930 đã đưa đến việc Pháp trục xuất về Việt Nam 19 sinh viên đang du học</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> (1)</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">. Chuyến tàu Athos II rời cảng Marseille ngày 24-6-1930 để đưa những người phần tử làm rối an ninh trên đất Pháp đã thật sự đưa những ngọn lửa đấu tranh về mảnh đất miền Nam đang khao khát tự do. Chánh quyền Pháp đã vô tình đưa trả về rừng một đàn mãnh hổ trẻ trung đầy nhiệt huyết. Kể từ đó, trên báo chí miền Nam đã xuất hiện nhiều bài viết phổ biến lý tưởng cách mạng xã hội của những trí thức đã có dịp tiếp xúc với trào lưu văn hóa Âu Mỹ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Năm 1932, Nguyễn Văn Tạo cùng Nguyễn An Ninh cộng tác ra báo tiếng Việt <i style="mso-bidi-font-style: normal">Trung Lập</i> cùng với Phan Khôi và Bùi Thế Mỹ. Trần Văn Thạch đã được dân chúng biết đến tên nhờ những bài báo chống nhóm Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu và các bài đề cao vai trò công nhân. Đồng thời trên các báo <i style="mso-bidi-font-style:normal">Phụ Nữ Tân Văn</i> hoặc <i style="mso-bidi-font-style: normal">Đồng Nai</i> của Phan Văn Hùm đã bắt đầu có những bài viết của Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Chánh, Nguyễn Văn Tạo v.v...Ở miền Nam, sự tranh đấu đối đầu với thực dân bằng hình thức bạo động hoặc báo chí bí mật nay đã chuyển sang hình thức trực diện đấu tranh với phương cách vận động quần chúng bằng báo chí công khai. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Ngay sau khi bị cưỡng bức hồi hương về miền Nam, các sinh viên tả phái thân Tạ Thu Thâu đã bắt tay tổ chức nhóm “Tả đối lập”. Nhóm này đã nhen nhúm thành hình ở Pháp dưới danh xưng Đông Dương Tả Phái Cộng Sản với tờ báo Tiền Đạo. Nhóm khởi đầu gồm Tạ Thu Thâu, Phan Văn Chánh, Huỳnh Văn Phương...là những người tán thành ý kiến của nhóm A. Rosmer trên báo <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Vérité </i>ở Pháp, chống đối đường lối của Quốc tế Cộng Sản stalinien . Tờ <i style="mso-bidi-font-style: normal">Tiền Đạo</i> đã viết: </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">Quốc tế Cộng sản đã nói rất nhiều, nhưng đã làm rất ít, không có một tờ<span style="mso-spacerun:yes"> </span>báo nào để cổ xúy chủ trương cộng sản ở các thuộc địa, không xuất bản được một sách nào về các cuộc cách mạng ở các thuộc địa, nhất là ở Đông Dương</span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span></i><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Tháng Giêng năm 1931, Hồ Hữu Tường từ Pháp về đã liên kết được thêm với nhóm Vùng Hồng của Đào Hưng Long, một thành viên của Đảng Cộng sản miền Tây, vùng Bạc Liêu. Đào Hưng Long theo xu hướng của Ngô Gia Tự nhưng trách đảng đã không chú ý đến giới thợ thuyền. Nhóm này đã sát nhập với nhóm tả phái đối lập từ Pháp về, thường được gọi là nhóm Tháng Mười. Đến tháng Tám năm 1932, một phần đảng Cộng sản Đông Dương ở chi bộ thành phố Sài Gòn dưới sự điều động của Lưu Sanh Hạnh, đã tách riêng khỏi đảng vì tranh chấp nội bộ để đồng ý gia nhập vào nhóm của Tạ Thu Thâu.<span style="mso-tab-count:1"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Ngày 6-8-1932, đảng Cộng sản ở miền Nam đã bị chánh quyền thực dân ra tay đàn áp phá hủy. Nhóm trốtkít vừa mới phôi thai thành hình cũng bị phá tan khi 12 thành viên phải ra tòa lãnh án ngày 1-5-1933. Trong ba năm sau đó, nhóm Đệ tứ ở miền Nam kể như bị tê liệt.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Rút tỉa các kinh nghiệm về các khó khăn, trở ngại, bị gò bó khi phải hoạt động trong tình huống hoàn toàn bí mật, ý muốn thành hình công khai báo <i style="mso-bidi-font-style:normal">Tranh Đấu</i> đã nảy sinh từ đó. Người có công trong việc này là Nguyễn An Ninh, một nhà cách mạng độc lập, có xu hướng thiên mạc xít nhưng đã chọn thế đứng giữa chủ trương stalinít và trốtkít. Tình thế chính trị thời bấy giờ cho thấy đảng Cộng sản Đông Dương có cơ sở bí mật vững chắc nhất là ở vùng nông thôn nhưng thiếu cán bộ trí thức có tầm vóc. Nhóm trốt kít thì tương đối có cán bộ có bản lĩnh hơn nhưng chưa đặt được các tổ chức chặt chẽ trong giới thợ thuyền và nông thôn. Nếu hai tổ chức trên được phối hợp lại thì mới mong có thể thành hình cuộc tranh đấu công khai với chánh quyền thực dân.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Cuộc bầu cử Hội đồng Thành phố Sài Gòn ngày 30 tháng Tư và 7 tháng Năm năm 1933 mở màn cho một chuyến tuyến thống nhất của hai cánh tả để đối phó với phe Lập Hiến, phe độc nhất có mặt trong các cuộc bầu cử trong quá khứ. Liên danh Nguyễn Văn Tạo - Trần Văn Thạch đã lần đầu tiên nêu lên các yêu sách giới công nhân về các nhu cầu cơm áo cho lao động mất việc, thành lập nhà giữ trẻ cho công nhân, quyền đình công, 8 giờ làm việc mỗi ngày, phổ thông đầu phiếu v.v...Cổ động bằng báo Việt ngữ<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Trung Lập không đủ nên cần phải ra ngay một báo Pháp ngữ vì dễ xuất bản theo các thủ tục dành cho báo Pháp. Tờ <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte (Tranh Đấu)</i> số đầu tiên vì thế được phát hành ngày 23 tháng Tư năm 1933, đánh dấu một giai đoạn mới<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Năm 1930, sau cuộc khởi nghĩa Yên Báy bị thất bại, Việt Nam Quốc Dân Đảng hầu như bị thực dân Pháp tiêu diệt hoàn toàn. VNQDĐ chỉ còn vài tờ báo bí mật ở biên giới Trung Hoa. Về sau, VNQDĐ mới gây được ảnh hưởng nhờ tạp chí <i style="mso-bidi-font-style:normal">Phong Hóa</i> (1932-1936) và <i style="mso-bidi-font-style:normal">Ngày Nay</i> (1935) của Nguyễn Tường Tam. Đảng Cộng sản Đông Dương cũng ở vào tình thế bị phá nát sau sự thất bại của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bị thực dân thẳng tay đàn áp.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Quốc tế Cộng sản đã tìm cách hỗ trợ đảng Cộng sản Đông Dương trong các năm 1931 và 1932 nhưng đã không thành công. Để giúp đảng CSĐD gầy dựng lại tổ chức, tiếp tục hoạt động xây dựng phong trào quần chúng công nhân, Quốc tế Cộng sản đã bí mật chấp thuận đề nghị của đảng Cộng sản Pháp, tán thành chủ trương của Nguyễn An Ninh. Ông Ninh ra phương án kết hợp các anh em trí thức trẻ, đầy nhiệt huyết trong giới cộng sản Đệ Tam như Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn...và trong giới Đệ Tứ như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh, Huỳnh Văn Phương, Hồ Hữu Tường...để thành lập nhóm Tranh Đấu. Lợi dụng các dễ dãi khi xuất bản báo tiếng Pháp ở Nam Kỳ, nhóm cho ra đời tờ <i style="mso-bidi-font-style: normal">La Lutte,</i> cơ quan tranh đấu để cổ động tranh cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn. Ngày 7-5-1933, nhóm đã đưa được hai người trúng cử và hai năm sau, ngày 12-5-1935 có bốn người đã ngồi vào Hội đồng thành phố. Tuần báo <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> chỉ ra được 4 số nhân cuộc vận động bầu cử năm 1933. Việc tái bản của <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> đánh số 5, đầu tháng Mười 1934 và phát triển mạnh đến năm 1937 có thể nói là do công trình của Nguyễn An Ninh.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Hồ Hữu Tường đã có viết gần một chương về các vận động của Nguyễn An Ninh (<i style="mso-bidi-font-style: normal">40 Năm Làm Báo</i>)</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">(2)</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"> để thành hình nhóm Tranh Đấu. Nguyễn An Ninh đã có các tiếp xúc với phái đoàn của phái bộ cộng sản Pháp Paul Vaillant Couturier (tháng 8 năm 1933) và nhất là Gabriel Péri (tháng 2 năm 1934). Ông Ninh cho biết ý định thành lập nhóm để xuất bản một tờ báo tranh đấu công khai với giới thực dân Pháp. Các thành viên viết bài sẽ không ký tên vì đồng có lập trường chung. Chỉ khi bài viết không được cả ban biên tập đồng ý, lúc đó mới để tên người viết. Cả hai bên Đệ Tam và Đệ Tứ sẽ không tranh luận đả phá nhau về vấn đề lập trường. Nhà cầm quyền thực dân là đối tượng hứng chịu mũi nhọn. Nguyễn An Ninh có đề cập trong buổi hội quan trọng này là có thể có được nguồn tài trợ cho tờ báo nhưng sau này, Hồ Hữu Tường có cho biết là tờ Tranh Đấu chưa hề nhận được tài trợ nào của Quốc tế cộng sản.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Khác với tờ <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Cloche Fêlée</i> của Nguyễn An Ninh đã được phát hành không định kỳ, La Lutte là tuần báo được phát hành liên tục và từ ngày 1-11-1936 trở về sau mỗi tuần lại ra được hai số. Từ ngày 14-1-1936 khổ báo tăng gấp đôi và đến tháng 11 năm 1936, số báo in đã tăng gấp đôi hơn trước. Các đơn xin cho phép ra ấn bản bằng tiếng Việt<span style="mso-spacerun:yes"> </span>đều được phủ Toàn Quyền từ chối, một lần vào ngày 13-5-1935 và lần thứ hai vào năm 1937. Tuần báo viết bằng Pháp ngữ, lúc khởi đầu chỉ in được độ 500 số vào năm 1933 nhân dịp vận động tranh cử vào Hội đồng Thành phố tuy chỉ ra được 4 số nhưng<span style="mso-spacerun:yes"> </span>đã được giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt. Chương trình tranh cử đã được những trí thức, công, tư chức phổ biến lại bằng tiếng Việt. Đặc biệt ông Nguyễn An Ninh là người có tài đem các vấn đề thời sự của báo ra bàn cãi với các đám đông mỗi khi có được dịp. Tháng 10 năm 1934, <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> được tục bản trở lại với số in 1000 đến năm 1936, tăng lần lên 2000 trong cuối năm đó và ổn định ở mức 3000 năm 1938.<span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Thống đốc Nam kỳ là Pagès trong báo cáo chánh trị ngày 29-10-1935 đã viết</span><span style="font-size: 12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes"> (3)</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">: </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">“</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Tuy số in nhỏ nhoi, ngay từ 1935, báo La Lutte được chuyền từ tay người này qua người khác, và khi cần, được giải thích miệng cho từng nhóm nhỏ. Nó trở thành cuốn sổ yêu sách của mọi phần tử bất mãn, tự phát hay bị sách động, gởi tới các cấp công quyền, tổng hợp những yêu cầu trước kia lẻ tẻ và biệt lập. Nó biểu thị dũng khí của lực lượng<span style="mso-spacerun:yes"> </span>quần chúng, ý thức về quyền của mình, dám biểu lộ trước quyền lực, và trước làn sóng như thủy triều dâng cao như vậy, chánh quyền cảm thấy hoang mang</span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">La Lutte</span></i><span lang="VI" style="font-size: 12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"> tuần nào cũng có bài phân tích về tình hình chánh trị quốc tế và Pháp. Đó là những bài bình luận được đánh giá hay nhất ở Đông Dương. Ban biên tập La Lutte viết rất thuần nhất nhờ việc thảo luận tập thể. Bài trên nguyên tắc không có ký tên cá nhân. Lê Văn Thu làm Thư ký tòa soạn. Phan Văn Chánh viết các bài trong </span><span style="font-size: 12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Tin Quốc Tế</span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span></i><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">, Trần Văn Thạch nổi tiếng với mục châm biếm </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">Những cái đinh nhỏ</span></i><i style="mso-bidi-font-style: normal"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">” (4)</span></i><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">. Mục này của Trần Văn Thạch đã giúp cho sự thành công của La Lutte do một phần lớn đọc giả Pháp mua báo để đọc mục này; một số người Pháp có khi lại giúp cung cấp đề tài để tác giả viết! Hồ Hữu Tường và Phan Văn<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Hùm phụ trách trang văn hóa. Các bài chánh trị do Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn, Tạ Thu Thâu đảm nhiệm. Theo nhân chứng Hồ Hữu Tường, linh hồn của tờ báo là Tạ Thu Thâu phụ trách các bài xã luận. Khi Tạ Thu Thâu sang Xiêm vào tháng 7 năm 1937 thì báo ngưng xuất bản.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Julien Godart, bộ trưởng thuộc đảng Cấp tiến được Mặt trận Bình Dân gởi sang thăm Đông Dương đã viết: </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">(5)”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">Tôi phải nói lên ở đây ý kiến của tôi về những nhà báo, những trí thức mà tôi vừa kể. Đó là những thanh niên xuất bản tờ <i style="mso-bidi-font-style:normal">Le Travail</i> ở Hà Nội và tờ <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> ở Sài Gòn, và tổ chức bênh vực thợ thuyền. Báo của họ rất hay, tương phản hẳn với báo chí chánh trị Pháp ngữ mà trình độ quá thấp. Đó là những tờ báo chiến đấu, do những người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết làm ra, khi họ bình luận về những xác thực đã làm cho người lao động bị thiệt thòi, thì họ không nương tay. Các bản báo cáo chung về kinh tế và xã hội mà họ đã thảo ra và trao cho tôi đều xuất sắc. Chính quyền tìm đủ mọi cách cấm đoán <i style="mso-bidi-font-style:normal">Le Travail</i> và <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i>, nhưng điều này không thủ tiêu được những sự kiện mà họ phát hiện</span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">’.</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">La Lutte</span></i><span lang="VI" style="font-size: 12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"> thật ra là một doanh nghiệp rất nghèo nàn. Tòa soạn lúc đầu là một căn phố thuê của Chú Hỏa ở số 25 bis đường Lagrandière, gần Khám Lớn Sài Gòn. Sang tháng Ba năm 1937 mới được dọn sang một căn hộ rộng rãi hơn cũng của Chú Hỏa ở số 95E cùng đường cũ. Trong tòa soạn chỉ có vài máy đánh chữ. Phương tiện </span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">sang</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">” </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">là một xe hơi cũ do Tạ Thu Thâu mua. Tòa soạn trang bị sơ sài thật ra cũng do suy tính phần nào của anh em tòa báo. Năm 1935, khi ban biện tập nhận được giấy đòi thuế và đòi tiền phạt, họ đã nói đùa: </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Tòa soạn chúng tôi là sắc sắc, không không. Đầy những thứ hầm bà lằng. Giá trị tổng cộng không đến mấy chục. Nhưng đối với sở thuế thì chẳng có chút giá trị phát mại nào. Xin mời quý ngài! Quý ngài chộp được không khí thì cứ tịch thâu</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”.</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”<span style="mso-spacerun:yes"> </span><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Việc phát hành báo là một việc vô cùng khó khăn vì các ngăn cản của chánh quyền thực dân. Mua một tờ <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> nơi công cộng kể như làm một chuyện nguy hiểm có thể bị theo dõi. Chỉ có người Pháp là những người mua báo bày ở các quầy. Các bản khác được phổ biến nhờ các em bán báo cất giấu để bán hoặc các học sinh đi bỏ báo ở nhà hoặc ở các trường vì các biên tập tòa báo phần lớn là giáo sư của các em ở các trường tư.<span style="mso-spacerun:yes"> </span>Thu nhập của báo <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> vì thế thường không đều đặn. Tài chánh chủ yếu dựa trên sự đóng góp mỗi người trong nhóm: </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">“</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Chúng tôi đứng trụ được hoàn toàn do sự hy sinh tiền bạc của chính chúng tôi và của bạn bè thân tín...Từ khi <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> ra đời, cách đây ba năm, các biên tập viên đã bỏ vào quỹ những món tiền lớn, và cố nhiên, không người nào trong chúng tôi nhận tiền thù lao của tờ báo cả</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">. Việc này đã có thể thực hiện được nhờ ở đồng lương khá cao của trí thức biên tập viên phần đông là giáo sư ở các trường tư thục. Phan Văn Chánh dạy khoa học, Hồ Hữu Tường dạy toán, lương tháng của họ vào khoảng 300 đồng, gấp 10 lần một người làm công trong tiệm buôn. Trần Văn Thạch, giáo sư Pháp văn lãnh 400 đồng. Tạ Thu Thâu được trên 500 mỗi tháng.</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> (6)</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> Ngoài ra, do động cơ yêu nước, báo <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> đã nhận được sự tài trợ của các trạng sư, bác sĩ , kỹ sư, địa chủ, doanh nhân, các chủ công ty đã đăng quảng cáo trên báo...</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"> </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Hồ sơ sở mật thám Pháp đã kê khai danh sách nhiều cảm tình viên của tờ báo. <i style="mso-bidi-font-style: normal">La Lutte</i> có thêm được một cơ sở kinh doanh khi thành lập chi nhánh Sài Gòn bán chiếu<span style="mso-spacerun:yes"> </span>của công ty dệt chiếu Fabrinat ở Phát Diệm. Người sáng lập công ty là Nguyễn Thế Rục, một người được đào tạo ở trường Phương Đông ở Moskwa từ 1925 đến 1928, bị Pháp bỏ tù năm 1931. Nguyễn Thế Rục là người đã phát hành báo <i style="mso-bidi-font-style:normal">Le Travail</i> ở Hà Nội. Quản lý chi nhánh Fabrinat, đối diện với tòa báo <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> là bà Tạ Thu Thâu</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> (7)</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">, tức Nguyễn Thị Ánh, một cựu sinh viên Việt Nam đầu tiên đã thi đậu bằng Tú tài ở Pháp. Ngoài ra trong giới tiểu thương vùng Sài Gòn, Chợ Lớn còn có 51 người đăng quảng cáo trên báo. Theo Hồ Hữu Tường cho biết, <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> không tính tiền đăng quảng cáo nhưng khi tờ báo gặp khó khăn tài chánh thì các tiểu thương này sẵn lòng giúp tài trợ ngay.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">La Lutte</span></i><span lang="VI" style="font-size: 12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"> đặt cho mình nhiệm vụ gây ý thức trong giới lao động về quy trình của các tương quan xã hội. Giúp sự giác ngộ để mở rộng nhản quan lịch sử của các tầng lớp nhân dân. La Lutte tự xác định là: một kho tư liệu, một cơ quan giáo dục và định hướng cho phong trào công nhân Việt Nam, một công cụ huấn nghiệp để tìm hiểu thế giới. Lần đầu tiên, <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> là tờ báo công khai cung cấp nhiều thông tin về chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân quốc tế. Có thể nói <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> đã bổ sung cho các báo bí mật như <i style="mso-bidi-font-style:normal">Tạp chí Cộng sản</i> hay <i style="mso-bidi-font-style:normal">Bôn Sơ Vic</i>. Trong số 16, <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> đã đăng lại bài về trại tù Lao Bảo của <i style="mso-bidi-font-style:normal">Tạp chí Cộng sản số 7</i>. Việc cộng tác giữa hai phái Đệ Tam và Đệ Tứ trong mặt trận Thống nhất Tranh Đấu xảy ra suông sẽ cho đến năm 1937.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Tuy nhiên, ngày 2 tháng Năm 1935, một tiếng sét nổ ra làm xáo trộn giới cách mạng: Stalin ký với Laval của Pháp </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Hiệp ước Hổ tương Pháp – Sô</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">. Stalin chính thức chấp nhận cho Pháp phát huy lực lượng quân sự để bảo đảm an ninh. Đảng Cộng sản Pháp liền ngoan ngoãn theo chỉ thị Stalin, dập tắt mọi tinh thần chống quân sự và ra mặt ủng hộ toàn vẹn lãnh thổ của Đế quốc Pháp, giải tán bộ máy hoạt động bí mật trong quân đội Pháp. Tại Moskova, Quốc tế Cộng sản nhóm Đại hội lần thứ 7 và cũng là lần cuối cùng, từ 25-7 đến 20-8-1935 hủy bỏ các chỉ thị năm 1928 về chánh sách </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">thời kỳ thứ ba</span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">, chánh sách lật đổ chế độ tư bản toàn thế giới. Để ngăn chặn nguy cơ Hitler, Stalin tìm cách liên minh với chủ nghĩa đế quốc Pháp. Năm 1938 đảng CS Pháp kêu gọi người An Nam hãy cùng người Pháp bảo vệ cho </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">nước Pháp đang bị (Nhật bản) đe dọa ở Đông Dương</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">. Đảng Cộng sản Đông Dương phải điều chỉnh con đường cách mạng của đảng. Ngày 1 tháng 7 năm 1935, tuyên ngôn Đại hội Macao còn viết: </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Cách mạng chống đế quốc và cách mạng ruộng đất ở Đông Dương muôn năm!</span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">. Nhưng đến cuối năm 1935, khẩu hiệu phản đế và cách mạng điền địa năm 1930 đã được ĐCSĐĐ thay đổi cho phù hợp với các quyết định cải lương của Đại hội 7 QTCS: ĐCSĐD nối gót theo ĐCS Pháp, hô hào cùng phòng thủ Đông Dương!<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Vì đã có sự giao ước giữa hai nhóm Đệ Tam và Đệ Tứ trong ban biên tập, tờ <i style="mso-bidi-font-style: normal">La Lutte</i> im tiếng không bàn luận đến hiệp ước Laval- Stalin cũng như không phê phán đến chủ trương mới của QTCS. Sự giao ước không chỉ trích nhau về chủ trương của mỗi đảng trong mặt trận thống nhất Tranh Đấu đã khiến vài thành viên như Hồ Hữu Tường cảm thấy </span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">ngứa ngáy không chịu được</span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">. Hồ Hữu Tường đã bí mật thành lập </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">Chánh đoàn Cộng sản Quốc tế. Phái tán thành Đệ tứ Quốc tế</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">” </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">với Lữ Sanh Hạnh, Ngô Văn Xuyết, Ngô Chỉnh Phến và sinh viên Trịnh Văn Lầu (học trò của Tạ Thu Thâu). Tháng 10 năm 1935, tổ chức này xuất bản tạp chí lý luận <i style="mso-bidi-font-style: normal">Cách Mạng Thường Trực</i> và tờ báo chiến đấu <i style="mso-bidi-font-style: normal">Tiền Đạo</i> để trình bày các quan điểm của Tả Đối lập đối với các vấn đề thời sự quốc tế. Tổ chức này nhắc lại các chủ trương của những người cộng sản đối lập, không chấp nhận vai trò phải ngoan ngoãn phò trợ chánh sách đối ngoại Liên Sô. Nếu có chiến tranh đế quốc, các đảng cộng sản phải biến đổi đế quốc chiến tranh thành nội chiến cách mạng. Đó mới là hành động cách mạng của giai cấp vô sản để bảo vệ Liên Sô.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">La Lutte</span></i><span lang="VI" style="font-size: 12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA; mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"> đã nhờ được sự cộng tác của giáo viên, các thanh niên có học ở khắp xứ. <i style="mso-bidi-font-style:normal">Diễn Dàn Bạn Đọc</i> là một mục rất phong phú, chuyên đăng về đời sống công nhân ở các doanh nghiệp lớn, các công sở, các nhà tù, kể cả Côn Đảo và đã thúc đẩy đến nhiều việc điều tra tại chỗ. Các thơ của đọc giả đã trở thành một động lực chánh trị mà <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> đã biết cách phát huy. Tòa soạn <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> đã trở thành điểm hẹn của những người bị ức hiếp, được nhà báo bênh vực. <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> đã phát động được sáng kiến chủ động của quần chúng.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Có thể nói là tờ <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> đã mở ra một chu kỳ đấu tranh chính trị công khai mới ở miền Nam Việt Nam. Các báo chí ở Đông Dương từ trước đã bị chánh quyền thực dân gò ép tê liệt trong những khuôn khổ chật hẹp. Sự vận động quần chúng với nội dung phong phú của <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> đã chứng tỏ khả năng lôi cuốn của tờ báo trong hoạt động công nhân và nông dân. Chánh quyền thực dân phải thú nhận đã bị tờ <i style="mso-bidi-font-style: normal">La Lutte</i> phá tan cái thế chủ động của họ trước kia.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Nguyễn An Ninh là người có công chủ trương hình thành tái bản báo <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte </i>kể từ số 5 tháng Mười năm 1934 với sự kết hợp hai phái Đệ Tam và Đệ Tứ ở miền Nam trong việc đồng thanh góp sức chống đối hữu hiệu với chủ quyền thực dân thuộc địa. Trên thế giới, sự bắt tay hi hữu giữa </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"><span style="mso-spacerun:yes"> </span></span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Đệ Tam và Đệ Tứ này chỉ có xảy ra độc nhất ở miền Nam. Hồ Hữu Tường đã gọi việc này là một </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">quái thai lịch sử</span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">. Việc hợp tác hữu hiệu và lợi ích này đã phải chấm dứt năm 1937 sau khi Cộng sản Đệ Tam Việt Nam được chỉ thị từ đảng cộng sản Pháp đưa sang. Bức thơ của Gitton </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">(</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">8</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">)</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> , phụ trách phân bộ thuộc địa của đảng Cộng sản Pháp gởi cho phái Đệ Tam ở Sài Gòn ngày 19-5-1937 được người thủy thủ chuyển thơ đưa lầm cho Tạ Thu Thu Thâu thay vì cho Nguyễn Văn Tạo. Gitton viết: </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">“</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">Chúng tôi xét rằng không thể nào tiếp tục hợp tác giữa Đảng và những người xu hướng Trotsky, theo các chỉ thị (ở Moscou) chúng tôi đã nhận được để truyền lại các đồng chí, về thái độ đối với những người xu hướng Trotsky ở Đông Dương</span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">. Phe Đệ Tam liền ly khai khỏi tờ <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> và tung ra tờ <i style="mso-bidi-font-style:normal">L'Avant Garde</i></span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">(Tiền Phong) ngày 29-5-1937. Kể từ đó, <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> hoàn toàn do nhóm Đệ Tứ điều hành. Sau ngày quân Nhật đảo chánh thực dân Pháp ở Đông Dương ngày 9 tháng 3 năm 1945, tờ <i style="mso-bidi-font-style:normal">La Lutte</i> tái bản toàn bằng Việt ngữ và xuất hiện trên các sạp báo Sài Gòn với tên <i style="mso-bidi-font-style:normal">Tranh Đấu</i>”.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Hồ Chí Minh, thủ hạ làm việc có ăn lương của Đệ Tam Quốc tế Cộng sản, tuân hành các chỉ thị thượng cấp, cũng đã từ ngoại quốc gởi về thêm </span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Ba lá thư từ Trung Quốc</span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”(9)</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”ký tên P.C. Line để ngăn chặn loại hợp tác này. Lời lẽ trong các bức thơ với những danh từ thô bỉ, các khẩu hiệu chửi rủa của Staline đối với những người trốt kít trong thơ của Hồ Chí Minh đã làm ngạc nhiên những ai đã biết Hồ Chí Minh dẩu sao cũng là một người có hấp thụ được phần nào văn hóa Khổng Mạnh Đông phương! <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">Đầu Thu 2007, Amarillo, Texas<o:p></o:p></span></i></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"><o:p> </o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><b style="mso-bidi-font-weight:normal"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-no-proof:yes">Chú thích:<o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">1 </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">- Danh sách 19 sinh viên bị trục xuất gồm có: Tạ Thu Thâu, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Giàu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Phan Văn Chánh, Lê Bá Cang, Trần Văn Chiêu, Ngô Quang Huy, Trần Văn Tự, Đặng Bá Lân, Lê Thiếu Tự, Đặng Tấn Phát, Vũ Liên, Nguyễn Văn Tân, Trịnh Văn Phú,Trương Duy Tam, Nguyễn Duy Đạm, Nguyễn Trọng Đắc -(Phan Văn Hùm và Hồ Hữu Tường may mắn thoát được qua Bĩ ). Năm 1945, Trần Văn Giàu, Chủ tịch Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ đã ra lịnh thủ tiêu 4 người đồng hành trong chuyến tàu Athos II đã đưa Giàu về Việt Nam: Tạ Thu Thâu, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Chánh, Huỳnh Văn Phương! (T.N.P.)<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">2 </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">- Hồ Hữu Tường, </span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">41 Năm Làm Báo</span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span></i><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">, Hồi Ký, Đông Nam Á (Paris) xuất bản năm 1984, trang 86- 92<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">3 </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">-</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes"> </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">Daniel Hémery, </span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Révolutionnaires</span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes"> </span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">vietnamiens et pouvoir colonial en Indochine. Communistes, trotskystes, nationalistes à Saigon de 1932 à 1937</span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size: 12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span></i><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”(Các nhà cách mạng Việt Nam và chánh quyền thực dân ở Đông Dương. Cộng sản, trốt-kít và quốc gia ở Sài Gòn từ 1932 đến 1937) , Paris, Maspéro, 1975.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">4</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> - Một người con gái của Giáo sư Trần Văn Thạch ở Toronto, Canada, hiện đang sưu tầm tài liệu ở Văn khố Pháp quốc Hải ngoại (Archives Outre Mer) ở Aix en Provence (Pháp), nhất là mục “ Petits clous” của tuần báo </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">“</span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">La Lutte</span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">”</span></i><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> để viết một sách về thân phụ, G.S Trần Văn Thạch (T.N.P.)<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">5 </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">- Daniel Hémery, sách đã dẫn.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">6</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> - Daniel Hémery, sđd.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">7 </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">- Bà Tạ Thu Thâu, 97 tuổi(2007) hiện đang cư ngụ ở Saint Germain en Lay, ngoại ô Paris.(T.N.P.)<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">8</span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes"> </span><span lang="VI" style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">- Ngô Văn </span><span style="font-size:12.0pt; color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal; mso-no-proof:yes">”</span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">VIỆT NAM 1925- 1945,</span></i><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes"> <i style="mso-bidi-font-style: normal">Cách Mạng và Phản Cách Mạng thời Đô Hộ Thuộc Địa</i></span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span></i><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”, California 2000, nxb<span style="mso-spacerun:yes"> </span>L'Insomniaque & Chuông Rè, 63 Rue Saint Mandé, 93100 Montreuil, France hoặc Hải Mã, Po Box 19543, Amarillo, TX 79114, trang 241.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="margin-top:6.0pt;text-align:justify"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">9 – </span><span style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight: normal;mso-no-proof:yes">“</span><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">Hồ Chí Minh Toàn Tập</span></i><i style="mso-bidi-font-style:normal"><span style="font-size:12.0pt;color:#262626; mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">”</span></i><span lang="VI" style="font-size:12.0pt;color:#262626;mso-ansi-language:VI;mso-fareast-language: FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal;mso-no-proof:yes">, (tập 3 trang 97-98-99-109-113</span><span lang="FR-CA" style="font-size:12.0pt;mso-ansi-language: FR-CA;mso-fareast-language:FR-CA;mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal"><span style="font-size:12.0pt"><o:p> </o:p></span></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-16146771784363395012011-04-20T07:48:00.000-07:002011-04-20T07:52:14.719-07:00SAI GON NAM 1859<p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><b><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">SÀI GÒN 1859-1860-1861<br />( TRÍCH DỊCH TỪ TÁC PHẨM “MONOGRAPHIE DE LA PROVINCE DE GIADINH “) <o:p></o:p></span></b></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">Sách Monographie de la province de Gia Đinh ( Chuyên khảo về tỉnh Gia Định) viết bằng tiếng Pháp, được xuất bản năm 1902 tại Sài Gòn, sách không ghi tên tác giả, đây là công trình biên soạn tập thể của Hội nghiên cứu Đông Dương ( Societe des Etudes Indochinoises ). Nội dung viết về địa lý của tỉnh Gia Định vào khoảng giữa thế kỷ XIX.Sách có 4 chương: Địa lý hình thể; địa lý kinh tế; lịch sử địa phương và thống kê. Riêng phần Lịch sử (tỉnh Gia Định), nhận thấy từ trước đến nay, ít có tài liệu đề cập cụ thể về giai đoạn đầu tiên thực dân Pháp ở Gia Định; vì thế chúng tôi xin được dịch lại chương Lịch sử ( có tựa là Conquete Francaise ) trong tập tài liệu đó, nội dung nói về các cuộc chống Pháp của quân dân ta trong những ngày đầu Pháp chiếm Gia Định: <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">“ Chiến thắng của Pháp - Trận Chí Hòa- Chiến trận: 1859-1860-1861)<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">“Sau khi Đô đốc Rigault de Genouilly chiếm Sài Gòn( 11/2/1859), quân Nam rút về các đồn “lũy ở bên trong: Thuận Kiều, An Lộc, Biên Hòa...Một ngàn quân do vị quan Tôn Thất Hiệp “chỉ huy đóng tại ngôi làng cũ Chí Hòa ở phía tây Sai Gon, cách 5km.Vị tướng này cho xây đắp ba “đồn:Đồn Tiền trên con đường đi Tây Ninh và hai đồn ở hai bên ; cách nhau 400m, “đó là Đồn Hữu và Đồn Tả, đồn sau ở trên rạch Bà Tiêm. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">“Công việc xây đắp ba đồn lũy này kéo dài trong hai tháng, trong khi quân Pháp kéo về “đóng ở Sài Gòn đã không làm gì để ngăn cản. Hai bên quan sát nhau, giới hạn các hoạt “động vào các cuộc thám thính quanh trại quân. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">Cuộc đụng độ đầu tiên xãy ra vào ngày 10/4 lúc 6 giờ sáng tại Phú Thọ giữa hai toán tuần tiễu ở phía Cây Mai. Quân <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> xuất phát từ rạng đông ở Đồn Tiền đi theo một con lộ dẫn đến Chợ Lớn.Họ nghe tiếng quân kỵ mã nhưng không nhìn thấy được, vì sương mai và ẩn nấp vào các bụi cây và cỏ cao. Khi thấy khoảng 10 lính Pháp và Phi hiện ra, quân <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> nổ súng. Một lính kỵ mã bị trúng đạn.Số lính còn lại bắn trả. Quân <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> rút chạy về Phú Thọ, có 10 người chết trong đó có vị quan Thoại, trưởng toán tuần tiễu. Một vị Cai ( Cai Cốc) bị hai lính kỵ mã đuổi theo, đã quay lại dùng cây thương đâm chết một lính kỵ mã, một lính( kỵ mã) khác đã dùng súng để bắn chết vị cai đó. Quân Pháp rút lui đem theo số người bị chết. Cuộc chiến kéo dài chưa được nửa tiếng đồng hồ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">Trong suốt năm, không có cuộc giao tranh nào khác,tướng Tôn Thất Hiệp nhận quân tiếp viện để củng cố đồn lũy, đề phòng các cuộc tấn công sắp tới. Nhưng quân Pháp trong thời gian này không có khả năng tấn công. Đô đốc Rigault de Genouilly bị bệnh phải trở về Pháp vào ngày 1/11/1859, nhường quyền chỉ huy lại cho Đề đốc Page. Ông này cũng bị gọi sang Trung Hoa với một số quân, nên quyền chỉ huy giao lại cho thiếu tá Daries với 700 binh sĩ.<br />Vào những ngày đầu tháng 4/1860 quân <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> ở Chí Hòa được mật báo sẽ xãy ra một cuộc tấn công vào đồn lũy. Thật vậy, vào sáng 16/4 đại pháo của Pháp bắn về phía Cây Mai, pháo binh Pháp tiến đến trước Đồn Hữu và bắn vào đồn. Quân <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bắn trả, nhưng một lúc sau đại pháo duy nhất bảo vệ đồn bị bắn hạ và quân Pháp tấn công vào thành. Quân <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> chống trả mãnh liệt và chỉ chịu thua khi chỉ huy của họ là Trần Tương Tư bị trúng một phát đạn vào đầu khi đang ở trên thành. Họ rút lui vào Đồn Tiền bỏ lại 50 người chết. Kích động bởi sự thành công, quân Pháp muốn chiếm ngay Đồn Tiền. Đồn này được phòng thủ vững chắc. Một hố rộng bao quanh thành, các vật dẫn hỏa,những cây gỗ lởm chởm mũi nhọn chất đầy mặt thành sẵn sàng rơi xuống đầu ai muốn tấn công thành. Quân phòng thủ, cộng thêm số ở Đồn Hữu chạy sang, khoảng 1500 người. Lúc 8 giờ, quân Pháp tấn công dưới làn đạn pháo của Đồn Tiên và Đồn Tả. Sự cố gắng của họ ( quân Pháp –TTT) thất bại trước các chướng ngại dồn dập. Sau hai giờ chiến đấu quyết liệt, làm thiệt hại mỗi bên 20 người, quân Pháp rút về Đồn Hữu. Đến 3 giờ chiều, họ trở lại Cây Mai. Dưới thành Đồn Tiền có 6 xác thủy quân Pháp bị giết ở những lỗ châu mai khi họ tìm cách đột nhập vào thành. Quân <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> cho mang bỏ vào một đảo nhỏ bên cạnh: Mật Cật. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">Cùng ngày tướng Tôn Thất Hiệp cho quân thông báo về Huế tin chiến thắng. Triều đình gởi tiền bạc vào để khen thưởng quân sĩ. Nhưng chỉ ít lâu sau ( tháng 6/1860 ),ông Tôn Thất Hiệp bị thất bại ở Miếu Hội Đồng và ở chùa Kiểng Phước ( Cây Mai )khi ông chỉ huy quân để đánh chiếm lại.Do đó, ông ta bị giáng chức và truất quyền chỉ huy. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">Người thay thế ông là một trong những tướng tài của vua Tự Đức: Nguyễn Tri Phương. Ông này trước hết tăng số quân ở Chí Hòa. Ông ta gọi về các toán quân không cần thiết từ Thuận Kiều, Bà Hom, Biên Hòa...và tập hợp được khoảng chín, mười nghìn người. Ông liền cho xây dựng những công trình phòng thủ mới đằng sau các đồn lũy cũ. Ở hai bên con đường đi Tây Ninh, cách nhau khoảng 800m ông cho đắp hai chiến lũy dài 2km,rộng 3m,cao 2,5m.Dấu tích các chiến lũy này hiện còn thấy trên các đồng ruộng của Phú Thọ và Tân Sơn Nhì. Hai bên chiến lũy lại xây các pháo đài trang bị nhiều cỗ đại pháo: Đồn Hậu, Đồn Hữu...Phần trung tâm lùi sâu vào trong cho dễ bảo vệ, chia trại quân làm hai phần. Chính giữa là Đồn Trung dùng làm bộ chỉ huy, chung quanh có các kho tiếp liệu và nơi ở cho các tướng tá và binh sĩ. Kho thuốc súng đặt giữa Đồn Trung và Đồn Tiền. Đằng sau,phía Bà Quẹo hai pháo đài bảo vệ trại quân: Đồn Tiền và Tả Hậu. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">Ông Nguyễn Tri Phương sắp đặt về các công trình này cho đến đầu năm 1861. Trong khi đó quân Pháp ít hơn, bất lực trước quân <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> đông đảo, và rút được bài học ở Đồn Tiền nên cũng thụ động chờ viện binh đến. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">Và ngày 7/2/1861 viện binh đến. Phó Đô Đốc Charner đổ bộ lên Sài Gòn với 3000 quân và chuẩn bị tấn công, <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">Trong đêm 23 rạng ngày 24/2 quân Pháp tập hợp ở Bào Dứa, một ao nhỏ trên ranh giới Tân Sơn Nhì và Tân Thới. Lính kỵ binh Tây Ban Nha đóng ở Bàu Cát trong Phú Thọ. Từ sáng sớm, cuộc pháo kích bắt đầu. Cuộc tấn công kéo dài suốt ngày với kết quả là (Pháp) chiếm được các công trình bên ngoài, pháo đài và trại quân, trừ Đồn Tả Hậu được bảo vệ bởi hai đồn: Đồn Hậu và Hữu Hậu. Buổi chiều lúc 5 giờ trong khi quân Nam tập trung lực lượng vào các điểm trên, chuẩn bị cho cuộc chiến ngày mai, quân Pháp tiến lên phía Bà Quẹo đóng quân qua đêm tại thôn Cù Lao Keo. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">Ngày 25 là cuộc chiến quyết định. Sáng sớm, pháo binh đóng tại Chòm-Mây Mà- Đá gần ngã ba đường đi Tây Ninh và Chợ Lớn tấn công vào ba pháo đài phía tây với sự hỗ trợ của bộ binh. Quân <st1:place st="on"><st1:country-region st="on">Nam</st1:country-region></st1:place> bắn trả kịch liệt. Nhưng đại pháo của họ chẳng bao lâu đều bị triệt hạ. Phó Đô đốc Charner ra lệnh tấn công vào thành. Nguyễn Tri Phương đứng một góc Đồn Hậu trên một chiến lũy, quan sát chiến trận, nhìn thấy quân Pháp tiến lên. Ông ta đem toàn lực lượng để đẩy lui quân Pháp và cho di tản khỏi đồn Tả Hậu, Quân Pháp lội xuống hào và tiến vào chân thành dưới làn mưa đạn của quân Nam, các cạm bẩy, hố chông và chướng ngại vật. Họ phá cửa,leo lên thành và đột nhập vào thành. Nguyến Tri Phương ngồi dướ 4 tán lọng là một mục tiêu tốt cho quân địch. Ông ta bị trúng đạn ở cánh tay trong khi người em thì bị tử thương. Quân hộ vệ đặt ông lên võng và khiêng đi. Trong khi đó, quân sĩ tưởng rằng tướng lãnh của họ đã chết nên tự rút lui, bỏ cả thành trì chạy về phía Tân Sơn Nhì và Gò Vấp. Đến 8 giờ tối, quân Pháp hoàn toàn làm chủ Chí Hòa <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black"> Hai ngày chiến đấu đã làm một số lớn quân Pháp bị thương, số tử trận là 30 người; trong đó có một sĩ quan: thiếu tá hải quân Lareyniere. Người ta chôn xác quân lính trong một cái hố giữa Tả Hậu và chiến lũy của Đồn Hữu, thiếu úy Lareyniere được chôn ở nơi ông ta nằm xuống. Tối hôm đó, phó Đô đốc Charner khen thưởng chiến sĩ và tuyên dương những người đã tỏ ra xuất sắc. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black">Bốn ngày sau, ngày 29, vài người được phái đi thám thính tận Thuận Kiều. Đồn lũy được dùng làm kho tiếp liệu cho quân Chí Hòa còn lại chừng 50 người. Số này tự bỏ đi khi thấy quân Pháp....” <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;color:black"><br />( Dịch từ trang 110 – 113; Phần thứ II: Conquete Francaise, sdd )<o:p></o:p></span></p> <span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";color:black;mso-ansi-language:EN-US; mso-fareast-language:EN-US;mso-bidi-language:AR-SA;mso-bidi-font-weight:bold"><br /> </span> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Cuộc đối đầu thứ ba: Vào Nam Bộ chiếm được Thành Gia Định, Genouilly trở ra Đà Nẵng ngày 15-4-1859. Năm ngày sau, ngày 20-4-1859, viên tướng này tấn công dữ dội Thành Điện Hải. Quân ta đánh trả quyết liệt dưới sự chỉ huy của Thống chế Nguyễn Tri Phương, nhưng hỏa lực địch mạnh làm cho quân ta phải rút lui, Thành Điện Hải bị quân địch chiếm. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Đến ngày 8-5-1859, quân Pháp tấn công làm 3 mũi đánh vào phòng tuyến của ta: Cánh hữu của Raynaud tấn công các đồn Du Xuyên, Hải Châu, Thạc Gián, Phước Ninh; cánh tả của Faucon cũng đánh đồn Thạc Gián, Phước Ninh; cánh giữa của Lanzarote chi viện cho hai cánh tả, hữu.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Quân ta dựa vào lũy bắn trả kịch liệt quân địch. Hiệp quản Phan Hữu Điển tử trận. Liệu thế không chống nổi, Thống chế Nguyễn Tri Phương cho bỏ phòng tuyến thứ nhất để bảo toàn sinh mệnh cho binh sĩ, rút về cố thủ ở phòng tuyến thứ hai với các đồn Liên Trì, Nại Hiên và Nghi Xuân. Quân địch không dám tấn công nữa.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Sau trận thắng 8-5-1859, quân Pháp-Tây Ban Nha lại rơi vào đại bại; trong các tháng 2, 6 và 7-1859, các trận dịch tả đã phát ra dữ dội làm quân địch bị bệnh và chết tăng lên rất nhiều. Trước tình trạng đó, ngày 20-6-1859, Tướng Genouilly đề nghị Triều đình Huế đàm phán với 3 yêu sách: tự do truyền đạo, tự do thương mại và được chiếm hữu một lãnh thổ để bảo đảm việc thi hành hòa ước.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Những điều kiện đó làm vua Tự Đức khó chấp nhận. Triều đình có nhiều ý kiến trái ngược nhau, vua Tự Đức bèn giao cho Thống chế Nguyễn Tri Phương cầm đầu phái đoàn hiệp thương. Cuộc hiệp thương kéo dài trong hai tháng 7 và 8-1859 mà không đi đến kết quả. Genouilly cho rằng ta không thiện chí, ngày 7-9-1859 cắt đứt cuộc hiệp thương, âm mưu đánh chiếm phòng tuyến thứ hai và giao cho thiếu tá Déroulède vạch kế hoạch hành quân quy mô và chu đáo.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Ngày 15-9-1859, quân Pháp-Tây Ban Nha mở cuộc tấn công với ba cánh quân: cánh hữu do Reybaud đánh chiếm đồn Liên Trì và hệ thống phòng thủ phụ thuộc; cánh tả cũng do Reybaud chỉ huy đánh chiếm đồn Nại Hiên và hệ thống phòng thủ phụ thuộc; cánh giữa là quân Tây Ban Nha do Lanzarote chỉ huy đánh chiếm các cơ sở phòng thủ nối liền đồn Liên Trì và đồn Nại Hiên.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Về phía quân ta, phòng tuyến thứ hai là một hệ thống đồn lũy, công sự nối liền đồn Liên Trì cho đến đồn Nại Hiên, dài trên 1.500m với hai lớp hào đầy chông tre, lũy đất vững chắc, nhiều ụ đại bác… kiên cố hơn phòng tuyến thứ nhất bị thất thủ ngày 8-5-1859.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Quân Pháp mở đầu cuộc hành quân lúc 4 giờ sáng ngày 15-9-1859. Cánh hữu của Pháp chạm trán 2.000 binh sĩ của ta dũng cảm xông ra khỏi chiến lũy giáp chiến với quân địch làm chúng có nguy cơ bị đẩy lùi, nhưng nhờ cánh quân của Breschin ứng cứu nhờ vậy quân địch trở nên thắng thế. Tham tán Phạm Thế Hiển cho quân ta rút khỏi đồn Liên Trì và đồn Phước Ninh, tập kết ở đồn Chân Sơn để ngăn chặn quân địch tiến ra Huế.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Cánh quân bên tả tiến đánh đồn Nại Hiên, đồn Hóa Quê và đồn Mỹ Thị, quân ta mất người chỉ huy nên bị rối loạn làm đồn Nại Hiên lọt vào tay quân địch, tuy nhiên quân ta vẫn làm chủ đồn Mỹ Thị và Hóa Quê.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Thống chế Nguyễn Tri Phương tập họp quân còn lại của phòng tuyến Liên Trì-Nại Hiên rút về Hải Vân. Quân Pháp dùng pháo để khống chế việc rút quân của ta nhưng không thành công.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Sau trận đánh này, ngoài số chết và bị thương, chết bệnh, quân Pháp kiệt quệ về sức khỏe và chán nản tinh thần. Trung tướng Genouilly cũng mệt mỏi tinh thần và ốm đau, nhận thấy chiến tranh ở Việt Nam gay go không dễ chiến thắng, không còn hăng say và niềm tin như ban đầu, trở nên vô cùng chán nản và đệ đơn về Paris xin từ chức tháng 6-1859. Thiếu tướng Page thay thế và đến Đà Nẵng ngày 19-10-1859. <o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Quân Pháp dù thắng nhưng không dám giữ các đồn mà chỉ phá hủy rồi rút về bán đảo Sơn Trà hay căn cứ Điện Hải.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Cuộc đối đầu thứ tư: Thiếu tướng Page muốn ra oai với Triều đình Huế, không lấy phòng tuyến thứ hai của ta làm mục tiêu mà nhằm vào các đồn và pháo đài ở chân đèo Hải Vân.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Ngày 18-11-1859, Page điều động soái hạm Néméris và hai tàu chiến nữa, khai hỏa vào pháo đài Điện Hải và đồn Chân Sản rất dữ dội. Hỏa lực của ta tập trung bắn soái hạm. Nhiều quả đại bác của ta bắn trúng tàu Néméris ở quanh phòng chỉ huy, một quả đã cắt đôi người đại tá Déroulède (người vạch kế hoạch đánh Đà Nẵng) làm một số binh sĩ bị thương, may mà Page thoát chết. Page ra lệnh các tàu chiến pháo kích dữ dội rồi cho sĩ quan Desaulx dẫn 300 quân chiếm đồn Chân Sản, quân ta phải rút lui vào núi.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Vua Tự Đức rất lo ngại, lệnh cho Thống chế Nguyễn Trọng Thao đem quân từ đèo Hải Vân đánh xuống đồn Chân Sản. Các quan Nguyễn Hiên và Trần Đình Túc đóng ở các đồn Câu Đê và Hóa Ổ đem quân đánh phối hợp, quân Pháp không chống nổi bỏ đồn Chân Sản xuống tàu chiến thoát ra khơi vào tháng 1-1860.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Trước đó vào tháng 12-1859, Page đề nghị Triều đình Huế ký hòa ước 11 điểm, trong đó có việc giao hảo, giao thương, tự do truyền đạo, đặt sứ giả tại Huế. Ngày 29-1-1860, Page nhận thấy không đạt được hòa ước nên cắt dứt đàm phán.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Triều Napoléon III cho rằng Page đã tỏ ra vô kỷ luật vì trận đánh ngày 18-11-1859 là một cuộc tấn công không cần thiết, gây tử vong một số sĩ quan giàu kinh nghiệm, Page bị khiển trách và giáng cấp. Page rời Đà Nẵng vào Sài Gòn với nhiệm vụ mới. Quân Pháp chỉ còn đóng giữ Sơn Trà, An Hải, Điện Hải và chẳng làm được gì hơn.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Hơn một tháng sau, ngày 23-3-1860, đoàn quân viễn chinh Pháp đóng tại Đà Nẵng dưới quyền của đại tá Toyon được lệnh rời khỏi Đà Nẵng để tham chiến ở Trung Hoa, sau khi triệt hạ mọi cơ sở xây dựng trên bán đảo Tiên Sa và để lại một nghĩa trang với 1.500 ngôi mộ của lính Pháp và Tây Ban Nha.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Giữa nghĩa trang, trong một ngôi nhà nguyện nhỏ đặt một tấm bia bằng đá trên đó ghi những dòng chữ: <i>“Để tưởng niệm những chiến binh Pháp và Tây Ban Nha trong cuộc viễn chinh Rigaud de Genouilly bị chết trong những năm 1858-59-60 và được an táng ở đây”.<o:p></o:p></i></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-bidi-font-weight:normal">Vua Tự Đức hoan hỉ xuống chiếu cho thần dân như sau: “Lòng can đảm và sự hy sinh của các tướng sĩ ta đã chiến thắng vẻ vang quân Tây dương. Lợi dụng những chiến thắng đó để làm cho quân địch vô phương, ngõ hầu đem lại thái bình và an ninh cho xứ sở, vì phúc lợi tối thượng của thần dân trung thành của Trẫm. Đó là niềm mong mỏi thiết tha nhất của Trẫm”.<o:p></o:p></span></p> <span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language: EN-US;mso-bidi-language:AR-SA"><br /> </span> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Trước kia đây là lãnh thổ của nước <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B9_Nam" title="Phù Nam">Phù Nam</a> và <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A2n_L%E1%BA%A1p" title="Chân Lạp">Chân Lạp</a>.<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Thời <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%BAa_Nguy%E1%BB%85n" title="Chúa Nguyễn">chúa Nguyễn</a> và <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_T%C3%A2y_S%C6%A1n" title="Nhà Tây Sơn">nhà Tây Sơn</a>, vùng đất này là xứ <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Gia_%C4%90%E1%BB%8Bnh" title="Gia Định">Gia Định</a> (Gia Định thành), mới được khai khẩn từ <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%BF_k%E1%BB%B7_17" title="Thế kỷ 17">thế kỷ 17</a>. Năm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=1698&action=edit&redlink=1" title="1698 (chưa được viết)"><span style="color:#CC2200">1698</span></a>, xứ Gia Định được chia thành 3 dinh: Phiên Trấn, Trấn Biên và Long Hồ.<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Vua <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Gia_Long" title="Gia Long">Gia Long</a> <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_Nguy%E1%BB%85n" title="Nhà Nguyễn">nhà Nguyễn</a> gọi vùng này là Gia Định Thành, bao gồm 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường và Hà Tiên.<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Năm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=1834&action=edit&redlink=1" title="1834 (chưa được viết)"><span style="color:#CC2200">1834</span></a>, vua Minh Mạng gọi là <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_K%E1%BB%B3" title="Nam Kỳ">Nam Kỳ</a> (xem <i>lịch sử Nam Kỳ</i>)<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI"><br />Năm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=1859&action=edit&redlink=1" title="1859 (chưa được viết)"><span style="color:#CC2200">1859</span></a>, <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p" title="Pháp">Pháp</a> đánh chiếm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh_Gia_%C4%90%E1%BB%8Bnh" title="Thành Gia Định">thành Gia Định</a>, mở đầu cuộc xâm lược đất Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Năm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=1862&action=edit&redlink=1" title="1862 (chưa được viết)"><span style="color:#CC2200">1862</span></a>, ngày <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/13_th%C3%A1ng_4" title="13 tháng 4">13 tháng 4</a>, <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Tri%E1%BB%81u_Nguy%E1%BB%85n" title="Triều Nguyễn">triều đình Huế</a> cắt 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định và Định Tường) nhượng cho Pháp.<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Năm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=1867&action=edit&redlink=1" title="1867 (chưa được viết)"><span style="color:#CC2200">1867</span></a>, Pháp đơn phương tuyên bố toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ là lãnh địa của Pháp. Từ đó, Nam Kỳ được hưởng quy chế thuộc địa, với chính quyền thực dân, đứng đầu là một <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Th%E1%BB%91ng_%C4%91%E1%BB%91c&action=edit&redlink=1" title="Thống đốc (chưa được viết)"><span style="color:#CC2200">Thống đốc</span></a> người Pháp.<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Hiệp ước Quý Mùi (<a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/25_th%C3%A1ng_8" title="25 tháng 8">25 tháng 8</a> năm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/1883" title="1883">1883</a>) nhập thêm tỉnh <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ACnh_Thu%E1%BA%ADn" title="Bình Thuận">Bình Thuận</a> vào Nam Kỳ (thuộc địa Pháp) coi như trừ số tiền bồi thường chiến phí còn lại mà triều đình Huế chưa trả hết, nhưng năm sau, Hiệp ước Giáp Thân (<a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/6_th%C3%A1ng_6" title="6 tháng 6">6 tháng 6</a> năm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/1884" title="1884">1884</a>) lại trả tỉnh Bình Thuận về cho <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_K%E1%BB%B3" title="Trung Kỳ">Trung Kỳ</a>.<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Năm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/1887" title="1887">1887</a>, Nam Kỳ trở thành một vùng lãnh thổ nằm trong <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn_bang_%C4%90%C3%B4ng_D%C6%B0%C6%A1ng" title="Liên bang Đông Dương">Liên bang Đông Dương</a>. Năm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/1933" title="1933">1933</a>, quần đảo <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_Sa" title="Trường Sa">Trường Sa</a> sát nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp.<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Tháng 3 năm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/1945" title="1945">1945</a> Thống sứ Nhật Nashimura đổi Nam Kỳ thành Nam Bộ.<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Mãi đến năm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/1945" title="1945">1945</a>, thời <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%BF_qu%E1%BB%91c_Vi%E1%BB%87t_Nam" title="Đế quốc Việt Nam">Đế quốc Việt Nam</a> với chính phủ <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Tr%E1%BB%8Dng_Kim" title="Trần Trọng Kim">Trần Trọng Kim</a> tuyên bố sáp nhập Nam Kỳ lại thành một bộ phận của nước Việt Nam độc lập. Sau khi <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1ch_m%E1%BA%A1ng_th%C3%A1ng_T%C3%A1m" title="Cách mạng tháng Tám">Cách mạng tháng Tám</a> nổ ra, Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ đã ra mắt ngày <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/25_th%C3%A1ng_8" title="25 tháng 8">25 tháng 8</a> năm 1945 do <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_V%C4%83n_Gi%C3%A0u" title="Trần Văn Giàu">Trần Văn Giàu</a> làm Chủ tịch.<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI"><a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Th%E1%BB%B1c_d%C3%A2n_Ph%C3%A1p&action=edit&redlink=1" title="Thực dân Pháp (chưa được viết)"><span style="color:#CC2200">Thực dân Pháp</span></a> nổ súng ở <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A0i_G%C3%B2n" title="Sài Gòn">Sài Gòn</a> ngày <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/23_th%C3%A1ng_9" title="23 tháng 9">23 tháng 9</a> năm 1945 rồi dần dần đánh rộng ra chiếm lại Nam Bộ. <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A7_t%C6%B0%E1%BB%9Bng_Vi%E1%BB%87t_Nam#Nam_K.E1.BB.B3_qu.E1.BB.91c" title="Thủ tướng Việt Nam">Chính phủ Nam Kỳ quốc</a> được thành lập theo sự chỉ đạo của Pháp hòng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Năm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/1946" title="1946">1946</a>, trước khi sang Pháp tìm kiếm một giải pháp hòa bình, <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh" title="Hồ Chí Minh">Hồ Chí Minh</a> đã viết thư gửi đồng bào Nam Bộ, trong đó ông khẳng định: "Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!"<o:p></o:p></span></p> <p style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="VI" style="mso-ansi-language:VI">Không đánh bại được Việt Minh, Pháp phải dùng "giải pháp <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o_%C4%90%E1%BA%A1i" title="Bảo Đại">Bảo Đại</a>", công nhận nền độc lập và sự thống nhất của Việt Nam. Cuối cùng ngày <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/22_th%C3%A1ng_5" title="22 tháng 5">22 tháng 5</a> năm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/1949" title="1949">1949</a>, Quốc hội Pháp chính thức bỏ phiếu thông qua việc trả Nam Bộ cho Việt Nam. Nam Bộ trở thành lãnh thổ nằm trong <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_gia_Vi%E1%BB%87t_Nam" title="Quốc gia Việt Nam">Quốc gia Việt Nam</a>.<o:p></o:p></span></p> <b><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%;font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman";mso-ansi-language:EN-US;mso-fareast-language: EN-US;mso-bidi-language:AR-SA"><br /> </span></b> <h2 style="margin:0cm;margin-bottom:.0001pt;text-indent:30.05pt;line-height: 120%"><span lang="EN" style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language: EN">17-2-1859:Quân Pháp đánh chiếm tỉnh thành Gia Định (Sài Gòn). <o:p></o:p></span></h2> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span lang="EN" style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:EN;mso-bidi-font-weight: normal"><!--[if gte vml 1]><v:shapetype id="_x0000_t75" coordsize="21600,21600" spt="75" preferrelative="t" path="m@4@5l@4@11@9@11@9@5xe" filled="f" stroked="f"> <v:stroke joinstyle="miter"> <v:formulas> <v:f eqn="if lineDrawn pixelLineWidth 0"> <v:f eqn="sum @0 1 0"> <v:f eqn="sum 0 0 @1"> <v:f eqn="prod @2 1 2"> <v:f eqn="prod @3 21600 pixelWidth"> <v:f eqn="prod @3 21600 pixelHeight"> <v:f eqn="sum @0 0 1"> <v:f eqn="prod @6 1 2"> <v:f eqn="prod @7 21600 pixelWidth"> <v:f eqn="sum @8 21600 0"> <v:f eqn="prod @7 21600 pixelHeight"> <v:f eqn="sum @10 21600 0"> </v:formulas> <v:path extrusionok="f" gradientshapeok="t" connecttype="rect"> <o:lock ext="edit" aspectratio="t"> </v:shapetype><v:shape id="_x0000_i1025" type="#_x0000_t75" alt="Image" style="'width:270pt;height:180pt;mso-wrap-distance-left:4.5pt;"> <v:imagedata src="file:///C:\DOCUME~1\Owner\LOCALS~1\Temp\msohtml1\01\clip_image001.jpg" href="http://maxreading.com/data/books_images/7f041d101b745ad533581046b66d5cb3.jpg"> </v:shape><![endif]--><!--[if !vml]--><img border="0" width="360" height="240" src="file:///C:/DOCUME~1/Owner/LOCALS~1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg" hspace="6" alt="Image" shapes="_x0000_i1025" /><!--[endif]--><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><b><span lang="EN" style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:EN">Sau khi chiếm bán đảo Sơn Trà, thực dân Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào đánh chiếm thành Sài Gòn để thiết lập căn cứ quân sự. Trên đường tiến quân vào Sài Gòn theo đường biển, liên quân Pháp – Tây Ban Nha liên tục nã đạn đại bác từ ngoài khơi vào các pháo đài của quân triều đình ở các vùng ven biển, nhất là ở Vũng Tàu.</span></b><span lang="EN" style="font-size:12.0pt;line-height:120%; mso-ansi-language:EN;mso-bidi-font-weight:normal"><o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span lang="EN" style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:EN;mso-bidi-font-weight: normal">Sau khi chiếm bán đảo Sơn Trà, thực dân Pháp mở cuộc tấn công quy mô vào đánh chiếm thành Sài Gòn để thiết lập căn cứ quân sự. Trên đường tiến quân vào Sài Gòn theo đường biển, liên quân Pháp – Tây Ban Nha liên tục nã đạn đại bác từ ngoài khơi vào các pháo đài của quân triều đình ở các vùng ven biển, nhất là ở Vũng Tàu. Các đồn, bảo, các pháo đài bảo vệ thành Sài Gòn từ xa, liên tiếp thất thủ: pháo đài Phúc Thắng, bảo Lương Thiện (Biên Hòa), đồn Phúc Vĩnh, đồn Danh Nghĩa (Gia Định). Cửa biển Cần Giờ do Đề đốc Gia Định là Trần Trí chia quân đóng giữ, cũng lọt vào tây giặc. Quân giặc theo đường sông tiến áp sát tỉnh thành và đổ bộ công phá thành. Thành vỡ. Án sát Lê Tứ tự vẫn theo thành; Hộ đốc Vũ Duy Ninh rút khỏi thành, đến thôn Phúc Lý, huyện Phúc Lộc, cũng thắc cổ tự vẫn; Đề đốc Trần Trí, bố chánh Vũ Thực và lãnh binh Tôn Thất Năng đem tàn quân rút về bảo Tây Thái huyện Bình Long.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span lang="EN" style="font-size:12.0pt;line-height:120%;mso-ansi-language:EN;mso-bidi-font-weight: normal">Chỉ sau một thời gian ngắn, quân Pháp đã kéo vào chiếm đóng Sài Gòn, tỉnh thành của Gia Định lúc bấy giờ.<o:p></o:p></span></p> <p class="MsoNormal" style="text-indent:30.05pt;line-height:120%"><span style="font-size:12.0pt;line-height:120%"><o:p> </o:p></span></p>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-74972174680273029982007-08-04T09:18:00.000-07:002007-08-04T09:21:03.213-07:00LICH SU VIET NAM 1954-1975<span style="font-family:times new roman;"><strong>CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)<br /><br />I. BỐI CẢNH CHUNG CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN<br />1. Tình hình quốc tế<br /></strong>Trên vũ đài chính trị quốc tế những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ II, một hệ thống xã hội mới xuất hiện với hàng loạt nước dân chủ nhân dân chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội mà Liên Xô là một hình mẫu lớn. Năm 1949 được coi là năm quyết định của quá trình thay đổi căn bản tình hình thế giới sau đại chiến với việc Liên Xô phá vỡ độc quyền hạt nhân của Mỹ, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Cán cân so sánh lực lượng trên thế giới nghiêng hẳn về phía các nước chống chủ nghĩa đế quốc.<br />Bước vào thập kỷ 50, Liên Xô tiếp tục triển khai những “Kế hoạch 5 năm” xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh từng đè nặng lên nền kinh tế - xã hội Xô Viết với bao tổn thất về người và của. Nhưng chỉ 7 năm sau, Liên Xô đã đủ sức làm nên “Sự kiện Sputnich” khiến các thế lực đối địch phải sửng sốt. Một khả năng bảo vệ hòa bình thế giới đãxuất hiện trong thực tế. Trong khi đó các nước Đông Âu cũng bước vào thực hiện công cuộc kiến thiết đất nước với những kế hoạch dài hạn để xây dựng chủ nghĩa xã hội.<br />Tháng 11/1957 tại Matxcơva (Liên Xô), Hội nghị Quốc tế 64 Đảng Cộng Sản và Công Nhân đã tổng kết kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, ra tuyên bố hòa bình, củng cố phong trào Cộng Sản Quốc Tế. Thế giới tiến bộ và cách mạng từ cuối thập kỷ 50 đầu thập kỷ 60 bước vào thời kỳ phát triển với thế và lực mới của mình trong đó Liên Xô là người có công đầu trong việc kiến thiết và gìn giữ hòa bình. Nhưng lúc ấy châu Âu đã bị chia làm đôi, cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu, hệ thống xã hội mới ra đời cũng bước vào thời kỳ đối đầu với chủ nghĩa đế quốc.<br />Cũng sau chiến tranh thế giới lần II, phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh phát triển thành cơn bão táp cách mạng, phá vỡ từng mảng thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Những cuộc đấu tranh vũ trang, những lực lượng tiến và cách mạng chiếm ưu thế trong dân tộc, xu hướng độc lập - dân chủ - hòa bình - trung lập… Đó là những nét mới trong tiến trình phát triển của phong trào.<br />Dù được “Trao trả độc lập” hay đấu tranh giành độc lập, các nước thuộc địa sau khi thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang đều đi theo con đường phi đế quốc; trong số các nước này có một số nước đã đi gần hoặc đi thẳng vào con đường chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc từ năm 1953 bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các nước Việt Nam, Cu Ba là những ngọn cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc, sau khi giành được độc lập đã tiến thẳng lên CNXH không qua giai đọan phát triển TBCN.<br />Chiến tranh thế giới qua đi, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, nhiều nước đế quốc, cả thắng trận và bại trận bị tàn phá nghiêm trng, nhưng đế quốc Mỹ lại trở nên giàu có hơn bao giờ hết. Là một trong những nước lớn góp phần quyết định vào thắng lợi của phe Đồng minh trong chiến tranh, lại là nước giàu mạnh nhất sau chiến tranh, Hoa Kỳ đã giương lên ngọn cờ sen đầm quốc tế và muốn áp đặt tự do kiểu Mỹ ở khắp nơi trên thế giới.<br />Chiến lược toàn cầu của Mỹ phản ánh một tham vọng muốn xác lập sức mạnh của đế quốc Hoa Kỳ trên tất cả mọi khu vực của thế giới. Mục tiêu trong các kế hoạch chiến lược của Mỹ lúc này là:<br />* Tiêu diệt chủ nghĩa xã hội (trọng tâm là Liên Xô và các nước Đông Âu)<br />* Dập tắt phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh (trọng tâm là Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á và Cu Ba trong khu vực Mỹ La-tinh).<br />* Lôi kéo, khống chế các nước đồng minh (trọng tâm là Tây Âu - Nhật Bản).<br />Chiến lược toàn cầu của Mỹ sử dụng 3 phương thức chủ yếu: chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang và thực hiện chủ nghĩa thực mới… Chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang và chạy đua vũ trang tạo ra sự đối đầu giữa hai hệ thống thế giới, Mỹ sẽ lôi kéo các nước phe Mỹ vào cuộc chiến chống Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa; chủ nghĩa thực dân mới sẽ thay thế lối thống trị thuộc địa mà phương Tây nay đã lỗi thời.<br />Ba chỗ dựa trọng yếu của chiến lược toàn cầu của Mỹ lúc này là: Viện trợ kinh tế - quân sự - xây dựng hệ thóng liên minh phòng thủ - củng cố lực lượng quân sự mạnh. Sau kế hoạch Marshall chi 50 tỷ dollar vào việc phục hồi các nước tư bản, Mỹ tiếp tục đẩy mạnh viện trợ cho các nước, tính bình quân mỗi năm trong thời kỳ 8 năm 1953 - 1960 là 5 tỷ dollar. Trong đó số viện trợ quân sự gần 3 tỷ dollar với tỷ lệ theo ưu tiên cho các khu vực là: Tây Âu 54%, Đông Nam Á và Viễn Đông 24,2%, Trung Cận Đông 14,9%, các nơi khác 6%.<br />Những khối liên minh song phương và đa phương do Mỹ đứng đầu hoặc bảo trợ lần lượt ra đời như: khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) thành lập năm 1949, khối Đông Nam Á (SEATO) ra đời năm 1954, khối Trung Cận Đông (CENTO) hình thành năm 1955, khối Nam Thái Bình Dương (ANZUC) lập ra năm 1951… Ngoài ra còn các Hiệp ước tay đôi giữa Mỹ và một số nước ở Đông Á, Nam Á, Đông Nam Á. Về lực lượng quân sự, những năm 1953 - 1960 Mỹ cũng đề ra nhiều ý nghĩa chính trị và kinh tế cho Mỹ lúc này. Quân số giảm đi nhưng căn cứ quân sự ở nước ngoài lại được tăng cường. Sau chiến tranh Mỹ có hơn 2.200 căn cứ quân sự có mặt ở khắp các châu lục, 7 hạm đội trải ra khắp các đại dương, phái đoàn quan sự và cố vấn Mỹ hoạt động ở 45 nước trên thế giới, nhiều loại vũ khí trang bị mới được ra đời như máy bay ném bom chiến lược B52, B47, tên lửa vượt đại châu có đầu đạn hạt nhân, tên lửa tầm trung, tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hạt nhân chiến thuật…<br />2. Tình hình Việt Nam<br />Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đã triển khai chiến lược toàn cầu từ rất sớm, trong đó Việt Nam là một trong những trọng điểm. Việt Nam nằm trong khu vực có tiềm năng lớn về kinh tế vì rất giàu khoáng sản, nguyên nhiên liệu, lại có nguồn nhân lực lao động dồi dào. Việt Nam còn có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự cho cả vùng Đông Nam Á. Đất liền nối với nhiều quốc gia và đi sâu vào tận miền Trung Á. Biển có những đảo và hải cảng không những thuận tiện giao thông, dễ sự dụng tàu thuyền, mà còn có khả năng khống chế cả vùng rộng lớn. Việt Nam lại là tiêu điểm của phong trào giải phóng dân tộc đang sôi sục ở châu Á.<br />Sau Cách Mạng Tháng Tám khi Việt Nam Dân Cộnng Hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, cục diện chính trị trên bán đảo Đông Dương thay đổi lớn, bất lợi cho chủ nghĩa đế quốc. Đã có sự tập hợp các lực lượng phản cách mạng chống lại lượng cách mạng, nhưng chúng đã không thành công. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi với việc giải phóng nửa nước ở miền Bắc, đi lên chủ nghĩa xã hội.<br />Việt Nam còn là nơi ấp ủ những mưu toan của Mỹ từ lâu. Đầu thập kỷ 50 Mỹ đã thấy “Đông Dương là phần thưởng đặt cho một trò chơi lớn… trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, hàng năm Đông Dương đã đem lại lợi tức khoảng 300 triệu đôla”.<br />Ngay khi vừa bước vào Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Eisenhower đã tuyên bố giúp Pháp trong chiến tranh Đông Dương là để “ngăn chặn một cách rẻ tiền nhất các sự kiện có thể gây ra những hậu quả khủng khiếp đối với nước nước Mỹ”. Từ tháng 8/1950 Mỹ đã triển khai phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự (MAAG) vào Việt Nam. Từ cuối năm 1950 đến cuối năm 1951, bằng các Hiệp định tay đôi ký với Pháp ở Đông Dương, như “Hiệp nghị phòng thủ chung Đông Dương”, “Kế hoạch hợp tác kinh tế”, “Kế hoạch an ninh chung”, Mỹ đã từng bước can thiệp vào Việt Nam. Những kế hoạch chiến tranh của Pháp ở Đông Dương như “Kế hoạch Rever”, “Kế hoạch Delatte de Tassingy”, “Kế hoạch Dalan”, “Kế hoạch Navarre” đều được Mỹ trực tiếp tham gia chỉ đạo thực hiện. Có thể nói Việt Nam là nơi tập trung quyền lợi sống còn, là đất dụng võ của họ.<br />Sau Hiệp định Genève 1954, đất nước Việt Nam bị chia làm hai miền. Cuộc chuyển quân tập kết đã làm thay đổi tình hình so sánh lực lượng, từ thế “Cài răng lược” ở phạm vi toàn quốc thành thế “Đối đầu” ở hai miền đất nước. Lực lượng cách mạng đang phát triển thuận lợi trên phạm vi toàn cục, nay tập trung ra miền Bắc, thế và lực lượng cách mạng nhất là ở miền Bắc nhưng vô cùng bất lợi ở miền Nam. Trong khi đó lực lượng Pháp và các phe phái chính trị phản động trên toàn quốc dồn cả về miền Nam, mang theo tâm trạng thua cuộc, hận thù, muốn tìm chỗ dựa mới, đó là cơ hội để Mỹ nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới.<br />Với những hoạt động xây dựng chủ nghĩa thực dân mới, tấn công đánh phá lực lượng và phong trào cách mạng, trong mấy năm 1954 - 1959 Mỹ - Diệm đã biến miền Nam Việt Nam từ một chiến trường chống chủ nghĩa thực dân thành một chiến trường phản kích lại các lực lượng cách mạng. Âm mưu chiến lược của Mỹ là biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự, một bàn đạp để tấn công miền Bắc và phe xã hội chủ nghĩa từ phía Nam, ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản đang lan tràn xuống vùng Đông Nam Á.<br />Mỹ đã thi thố ở Việt Nam 4 chiến lược chiến tranh, ứng dụng từ 3 lần thay đổi chiến lược toàn cầu, do 5 đời tổng thống kế tiếp nhau thực hiện từ năm 1953 đến năm 1975. Đó là sự lựa chọn đúng nơi, đúng lúc, đúng đối tượng tiến hành chiến tranh của Mỹ. Chưa bao giờ Mỹ huy động được sức mạnh của cả nước Mỹ cùng các nước phe Mỹ, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự như là trong thời kỳ họ tiến hành chiến tranh Việt Nam. Ý chí và quyết tâm của Mỹ khi đánh Việt Nam không phải chỉ nhằm khuất phục một dân tộc, dập tắt một ngọn lửa đấu tranh vì độc lập tự do, mà còn nhằm đe dọa nhiều nước khác, đồng thời thể nghiệm sức mạnh của Hoa Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XX.<br />Cách mạng Việt Nam vừa giành thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến 9 năm chống chủ nghĩa thực dân Pháp, nay lại đứng trước kẻ thù mới vừa lớn mạnh vừa đầy tham vọng. Nửa nước ở miền Bắc được giải phóng và có lực lượng cách mạng của cả nước tập trung về. Do đó niềm Bắc có nhiệm vụ phải nhanh chóng hoàn thành nốt những nhiệm vụ còn lại của Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để bước tiếp sang cuộc cách mạng mới, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Nửa nước còn lại ở miền Nam chưa được giải phóng, cách mạng lại bị mất thế lực, quần chúng nhân dân đang tiếp tục bị khủng bố đàn áp. Vì thế miền Nam có nhiệm vụ phải gây dựng lại lực lượng và phong trào cách mạng, tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam, giành tự do độc lập.<br />Hai miền của một đất nước bị cắt tiến hành đồng thời “hai cuộc cách mạng” khác nhau, dưới sự lãnh đạo của một đảng thống nhất là Đảng Lao Động Việt Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ trước mắt là xây dựng miền Bắc vững mạnh toàn diện, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam, miền Bắc là hậu phương to lớn, là chỗ dựa căn bản nhất cho toàn dân tộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có nhiệm vụ trước mắt là đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ và tay sai, miền Nam là tiền tuyến lớn, là chiến trường chính của cuộc kháng chiến.<br />Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có ý nghĩa quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của Cùch mạng Việt Nam, trước hết là đối với sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Cuộc đấu tranh chóng Mỹ ở miền Nam có ý nghĩa quyết định trực tiếp đối với việc giải phóng miền Nam giành tự do độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc.<br />Cả hai miền Nam Bắc có nhiệm vụ chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc để xây dựng một Việt Nam hòa bình - thống nhất - độc lập - dân chủ và giàu mạnh. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ kéo dài hơn 20 năm buộc nhân dân Việt Nam phải chọn con đường cách mạng bạo lực để gạt bỏ mọi trở ngại trên con đường hòa bình - thống nhất Tổ quốc.<br />Chấp nhận cuộc đụng đầu với Mỹ, người Việt Nam cũng sớm nhận thức được tính chất quyết liệt của cuộc chiến tranh không cân sức này, cùng những thuận lợi khó khăn đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của mình. Sức mạnh tổng hợp của Cách mạng Việt Nam thời kỳ đánh Mỹ, đem đối chọi với sức mạnh Mỹ dựa vào tham vọng và những ưu thế của khoa học kỹ thuật. Thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam những năm 1954 - 1975 đã cho thấy: không vũ lực nào đè bẹp được một dân tộc thiết tha với độc lập tự do.<br />II. CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG Ở MIỀN NAM CHỐNG CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC THỰC DÂN MỚI CỦA MỸ NHỮNG NĂM 1954 - 1965<br />1. Cuộc chiến đấu mới bắt đầu<br />Từ cuối năm 1954, Mỹ - Diệm ở miền Nam tập trung bình định lực lượng Đại Việt, Quốc Dân Đảng ở miền Trung, lực lượng Liên Tôn Cao - Hòa - Bình ở Nam Bộ. Cùng lúc đó Diệm cho gạt các phần tử thân Pháp, kể cả các tướng lĩnh cao cấp trong quân đội Liên hiệp Pháp. Các cuộc tập hợp dân chúng được bày biện ra như “Trưng cầu dân ý”, “Phế truất Bảo Đại”, “Suy tôn Ngô Tổng thống”… Năm 1956 nhà cầm quyền miền Nam tiếp tục cự tuyệt mọi đề nghị của Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về việc Hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước như Hiệp định Genève quy định. Được Mỹ khuyến khích và vạch kế hoạch, Diệm đơn phương tổ chức bầu cử Quốc hội, ban hành Hiến pháp riêng rẽ, lập “Nền đệ nhất cộng hòa” ở miền Nam Việt Nam, tuyên bố đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.<br />Chính quyền Diệm cũng đẩy mạnh các hoạt động đánh phá Cách mạng miền Nam. Các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” trong thời kỳ đầu từ tháng 2/1955 đến tháng 5/1956 được tiến hành chủ yếu ở các tỉnh khu V nhằm mục đích gây xáo trộn, phát hiện đối thủ, thí nghiệm các phương thức đánh phá cách mạng. Từ nửa sau năm 1956 trở đi giai đoạn 2 của chính sách Tố Cộng được đưa lên thành “Quốc sách” và triển khai ồ ạt trên toàn miền, trọng điểm là ở Nam Bộ.<br />Mục tiêu của Tố cộng là nhằm tận diệt Cộng sản ở toàn miền Nam cả về con người lẫn tư tưởng theo phương thức “Thà giết nhầm chứ không bỏ sót”, “Tiêu diệt Cộng sản tận gốc, tiêu diệt không thương tiếc, tiêu diệt như trong tình trạng chiến tranh”. Từ năm 1956 - 1959, hàng vạn cán bộ Đảng viên cách mạng đã bị địch truy lùng và khủng bố bắt giết, giam cầm hàng chục vạn quần chúng yêu nước. Nhiều nơi đã trắng cơ sở Đảng, lực lượng cách mạng miền Nam bị tổn thất nặng nề.<br />Kết hợp với các biện pháp bạo lực, Mỹ - Diệm còn dùng các thủ đoạn lừa mị, mua chuộc bằng các biện pháp kinh tế - xã hội. Những đại dụ “Cải cách điền địa” như dụ số 2 (ngày 8/1/1955), Dụ số 7 (ngày 5/2/1955), Dụ số 57 (ngày 22/10/1956) thực chất đã cướp đi số ruộng đất mà nông dân được cách mạng chia cấp trong kháng chiến, để trả lại cho địa chủ, nhằm xóa bỏ ảnh hưởng của cách mạng trong dân chúng. Việc xây dựng các “Dinh điền”, “Khu trù mật”, “Trại người Thượng” nhằm gom dân, quy khu lập ấp để tập trung khống chế quần chúng, cô lập các lực lượng cách mạng còn lại ở cơ sở. Anh em Diệm - Nhu còn lập ra Đảng “Cần lao nhân vị”, tổ chức “Phong trào cách mạng quốc gia”, lập ra “Thanh niên cộng hòa”, “Phụ nữ liên đới”, có hệ thống từ trung ương tới các địa phương để lôi kéo các tầng lớp dân chúng miền Nam vào những hoạt động chống phá cách mạng. Viện trợ của Mỹ đổ vào miền Nam Việt Nam cho chế độ Diệm ngày càng nhiều, từ năm 1954 đến 1957 đã có hơn 1,1 tỷ dollar dành riêng vào việc củng cố chế độ ngụy.<br />Ngay từ khi Hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chủ tịch đã thông báo tại Hội nghị lần thứ 6 của Đảng: “Tranh lấy hòa bình không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức tạp”. Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch ngày 22/7/1954 cũng xác định “Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”. Như vậy từ rất sớm, nhân dân Việt Nam đã chủ động trong việc đón nhận tình hình mới và sớm có quyết tâm mới để thực hiện mục tiêu hòa bình - thống nhất đất nước.<br />Khi lệnh ngưng bắn của Bộ Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ban ra trên chiến trường toàn quốc (lúa 0 giò ngày 22/7/1954), từ khu V vào tới Nam Bộ, từng đoàn cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang cách mạng, cán bộ dân - chính - đảng đã nghiêm chỉnh chuyển quân tập kết ra Bắc. Nhưng cũng có nhiều nơi để lại một số lực lượng làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh. Ở Nam Bộ có gần 60.000 đảng viên và khu V có 25.000 đảng viên ở lại rút vào hoạt động bí mật.<br />Trong tháng 8 và 9/1954 ở các địa phương miền Nam bắt đầu có những cuộc mít - tinh và hội thảo mừng hòa, hoan nghên đình chiến, đón chào Hiệp định Genève… Các hoạt động hợp pháp ấy do các lực lượng yêu nước và hòa bình dân chủ tổ chức, nhưng quân đội và cảnh sát của Ngô Đình Diệm đã ngăn cấm và đàn áp. Hành động khủng bố bằng bạo lực ấy khiến cho chính quyền và quân đội Diện sớm bị cô lập và bộc lộ là kẻ phá hoại hòa bình. Lập tức “Phong trào hòa bình” ở Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển ra các đô thị cùng miền thôn quê. Thành ủy Sài Gòn đã nắm lấy phong trào này, xây dựng thành một trong những lực lượng nòng cốt để lãnh đạo đấu tranh.<br />Để đáp ứng thực tế yêu cầu ấy, Đảng Lao Động Việt Nam đã đề ra hàng loạt văn kiện chỉ đạo hướng dẫn cách mạng miền Nam phát triển. Mở đầu là các Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ 6 (18/7/1954), Nghị quyết Bộ Chính trị (tháng 9/1954), Nghị quyết Bộ chính trị (tháng 6/1956); ở tại chiến trường có các Nghị quyết Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ (tháng 10/1954), Nghị quyết Hội nghị Liên khu ủy Khu V (21/10/1054), “Đề cương cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn (tháng 8/1956)…<br />Những nhóm vũ trang tuyên truyền, những đội tự vệ mật xuất hiện ở khu V và Nam Bộ vào đầu năm 1957 đã hỗ trợ cho phong trào quần chúng đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chống tố cộng đem lại nhiều hiệu quả. Từ nửa cuối năm 1957 các hoạt động vũ trang tuyên truyền ra đời rộ lên như một chuyển biến mới trong phong trào quần chúng cách mạng ở miền Nam. Hầu hết các địa phương đều cố gắng thành lập đội vũ trang và tự trang bị lấy vũ khí. Không tự giới hạn trong những hoạt động tự vệ và hỗ trợ cho đấu tranh chính trị nữa, các lực lượng vũ trang quần chúng đã tiến lên diệt tề trừ gian, diệt ác phá kềm.<br />Phong trào dần dần phát triển, đến năm 1958 đầu năm 1959 đã lan rộng khắp miền Nam. Ở Đồng bằng sông Cửu Long hoạt động vũ trang tuyên truyền từ đầu năm 1959 nổi lên khá mạnh làm cho bộ máy tề ngụy địch ở đây hoang mang rệu rã. Ở khu V phong trào vũ trang tuyên truyền lan nhanh trong các huyện miền núi phía Tây và đầu năm 1959 chúng đã xuất hiện nhiều hình thức nổi dậy của quần chúng.<br />Như vậy, sau mấy năm đối phó với những âm mưu thủ đoạn tàn bạo của Mỹ - Diệm, cách mạng miền Nam đã tìm lại con đường cách mạng bạo lực. Đảng ta tại hội nghị BCHTW lần thứ 15 (tháng 1/1959) đã chủ trương: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.<br />Với sự ra đời của Nghị quyết 15, đường lối và phương hướng đấu tranh giải phóng miền Nam đã được vạch ra một cách rõ ràng. Việc chi viện cho miền Nam từ tháng 2/1959 đã được bàn tính để mở đầu cho quá trình cách mạng miền Nam và kháng chiến chống Mỹ cứu nước.<br />Tháng 5/1959 tuyến đường vận tải chiến lược Bắc - Nam (đường 559 - đường mòn Hồ Chí Minh) được hình thành để đưa vũ khí, lương thực và người vào các chiến trường ở miền Nam. Được tiếp sức từ miền Bắc, các lực lượng cách mạng miền Nam nhanh chóng phát triển, phong trào đấu tranh được củng cố không ngừng. Cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam chống chế độ Mỹ - Diệm đang chuẩn bị có bước phát triển nhảy vọt.<br />2. Đồng Khởi - Bước phát triển nhảy vọt đầu tiên của cách mạng miền Nam<br />Sau khi tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh (ngày 23/3/1959), Ngô Đình Diệm cho ban hành luật số 10 (ngày 6/5/1959) quy định hai hình phạt cho những người chống đối là tử hình và khổ sai chung thân. Tiếp theo là việc chúng cho lập Tòa án quân sự đặc biệt lưu động xét xử những người yêu nước ở các nơi, ban hành luật số 21 về việc dùng máy chém trong thi hành án. Cùng lúc đó tất cả các lực lượng vũ trang của địch ở miền Nam được huy động tối đa vào việc mở hàng trăm cuộc càng quét lùng sục đánh phá, mục tiêu là tấn công các lực lượng cách mạng đang hình thành ở các địa phương. Nhằm tăng cường khả năng ứng phó về quân sự, địch chia miền Nam thành 3 Quân khu, đồng thời triển khai hộ thống gián điệp mật vụ từ trung ương xuống các địa phương. Đối với bộ máy chính quyền cơ sở, chúng chủ trương gián điệp hóa lực lượng tề xã ấp, tăng cường trang bị cho bảo đảm an dân vệ, đẩy mạnh việc quân sự hóa lực lượng thanh niên địa phương… Chế độ ngụy sau mấy năm tạm thời ổn định, nay đã mất ổn định và không thể thống trị như cũ được nữa.<br />Viện trợ Mỹ cho miền Nam năm 1959 đứng thứ ba trong các nước Đông Nam Á và đứng thứ 7 trong số các nước trên thế giới nhận nhiều viện trợ Mỹ. Lực lượng cố vấn Mỹ được tăng thêm cả về quân số lẫn các phái đoàn. Hệ thống hậu cần, thiết bị chiến trường, đường xá phục vụ cho chiến tranh được xây dựng và mở rộng, xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa xây dựng vào tháng 8/1959 sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh.<br />Song đã đến lúc không thể xoay chuyển được tình hình đang tiến đến một cơ bão táp cách mạng. Mỹ ngụy có nhiều cố gắng hòng ngăn chặn chiều hướng bất lợi nhưng “sự bất mãn và phẫn nộ” đối với chính quyền Diệm cứ ngày càng tăng không thể kìm chế được. Cách mạng miền Nam tuy còn gặp nhiều khó khăn, tổn thất và chậm đề ra đường lối phương pháp đấu tranh thích hợp, nhưng khi đã có Nghị quyết 15 thì sự chỉ đạo dẫn đường của nó đã đưa cách mạng phát triển nhanh không gì cản nổi. Không một địa phương nào ở miền Nam không chờ đợi những thời cơ thuận lợi để đứng lên chống chế độ Mỹ - Diệm. Bời vì đã đến lúc “ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không còn có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ”.<br />Ở khu V, từ đầu năm 1959, những cuộc nổi dậy diệt ác phá kìm giành quyền làm chủ đã nổ ra trong các huyện Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bác Ái (Bình Thuận). Đó là dấu hiệu của thời cơ cách mạng miền Nam đang đi tới chín muồi cho một phong trào khời nghĩa từng phần.<br />Ngày 28/8/1959 rừng núi Trà Bồng bừng bừng khí thế quật khởi. Mở đầu là hành động tẩy chay cuộc bầu cử do chính quyền ngụy tổ chức, sau đó từ những xô xát giữa quần chúng và binh lính địch ở xả Trà Phong, phong trào nổi dậy lan ra khắp các xã vùng núi Trà Bồng. Tiếng la hú cùng với cồng chiêng rộn lên gây khí thế, quần chúng nhân dân có cả đơn vị vũ trang 339 và các nhóm vũ trang du kích vừa ra đời kiên quyết nổi dậy diệt ác phá kiềm giành quyền làm chủ. Ủy ban nhân dân tự quản ra đời ở xã Trà Phong, sau đó lần lượt 16 xã của Trà Bồng đều lập chính quyền Nhân dân cách mạng. Từ Trà Bồng, phong trào nổi dậy khởi nghĩa lan nhanh ra khắp miền rừng núi phía Tây Quảng Ngãi. Đến cuối năm 1959 đã có 40 xã của tỉnh này được giải phóng, vùng căn cứ và vùng giải phóng của Quảng Ngãi mở rộng nối liền với Tây Nguyên.<br />Ngọn lửa Đồng Khởi một khi đã bùng lên thì nó nhanh chóng bén vào cánh đồng cỏ khô toàn miền Nam, nó sẽ bừng bừng cháy lên thiêu đốt chế độ độc tài phát xít. Cuối năm 1959 ở Nam Bộ tình hình cách mạng sôi nổi hẳn lên với chiến thắng Gò Quản Cung (Kiến Phong ngày 26/9/1959), Xẻo Rô (Rạch Giá ngày 24/9/1959). Đầu tháng 12/1959 các tỉnh Trung Nam Bộ (khu VIII) tiếp thu Nghị quyết 15, đề ra kế hoạch lãnh đạo các địa phương nổi dậy khởi nghĩa. Bắt tay vào hành động, đêm mồng 2/1/1960 lãnh đạo tỉnh Bế Tre đã họp khẩn cấp để quyết định: phát động một tuần lễ toàn dân nổi dậy diệt ác phá liềm, giải phóng nông thôn, làm chủ ruộng vườn.<br />Ngày 17/1/1960 sóng nổi dậy đã cuộc lên ở các xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh của huyện Mỏ Cày tỉnh Bến Tre. Những cơn “sóng thần” của quần chúng nổi dậy tràn qua cù lao Minh, cù lao Bảo, cù lao An Hòa rồi tràn qua toàn Nam Bộ. Từng đợt, từng cao điểm, những cuộc “Đồng Khởi”, “Đồng Khởi nhồi”, “Đồng Khởi bồi” đã dấy lên cùng với bao hận thù quân Mỹ - Diệm.<br />Từ Nam Bộ, phong trào Đồng Khởi dội trở ra Nam Trung Bộ, Trung Bộ và Tây Nguyên. Đến cuối năm 1960 đã có 2/3 cơ cấu chính quyền địch ở cơ sở bị tan rã. Cùng với sự tan rã của chính quyền ngụy ở cơ sở, hiện tượng đào rã ngũ trong ngụy quân cũng ngày càng phát triển, mâu thẫn phân hóa trong hàng ngũ địch đã dẫn đến đảo chính trong ngụy quyền trung ương ở Sài Gòn khiến Mỹ phải bối rối đối phó.<br />Phong trào Đồng Khởi đã giành quyền làm chủ cho hàng triệu người dân ở 1.383/2.627 xã toàn miền Nam, có 865 xã trong tổng số 1.193 xã của Nam Bộ và 3.200 thôn trong tổng số 5.721 thôn của vùng núi khu V không còn ngụy quyền. Đến cuối năm 1960 vùng giải phóng được mở rộng trên khắp nông thôn, đồng bằng và rừng núi, với số dân khoảng 5.600.000 người. Lực lượng vũ trang nhân dân từ trong cao trào Đồng Khởi cũng lần lượt ra đời gồm cả bộ đội tập trung của khu (3.034 người), của tỉnh huyện (12.500 người) và dân quân du kích tự vệ (10.000 người).<br />Ngày 20/12/1960 tại vùng giải phóng xã Tân Lập huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giới, các tầng lớp nhân dân miền Nam đã họp thành lập “Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam”. Chương trình hành động 10 điểm của Mặt trận đã đưa lên hàng đầu mục tiêu “Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh, dân tộc, dân chủ”. Mặt trận Giải phóng trở trành người đại diện chân chính, duy nhất của nhân dân miền Nam trong cuộc chiến đấu đang tiếp tục. Cách mạng miền Nam từ đây bước vào thời kỳ mới, thời kỳ dùng chiến tranh giải phóng chống chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ.<br />3. Thế trận buổi đầu của chiến tranh cách mạng chống chiến tranh đặc biệt của Mỹ<br />Sau Đồng Khởi, thời kỳ tạm thời ổn định của chế độ Mỹ - Diệm hoàn toàn chấm dứt, thời kỳ phát triển thế và lực của cách mạng miền Nam đã bắt đầu. Đế quốc Mỹ thấy rằng cần phải tăng cường chiến tranh để chống lại phong trào cách mạng đã và đang bùng lên. Song nhân dân miền Nam cũng đã có đủ các cơ sở để bước vào cuộc chiến tranh cách mạng toàn dân, toàn diện, trường kỳ theo phương pháp sáng tạo của chiến tranh nhân dân chống Mỹ cứu nước.<br />Tháng 1/1961 cơ quan Trung ương cục miền Nam được thành lập do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư, sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Lao Động Việt Nam đối với cuộc kháng chiến ở miền Nam được kiện toàn và củng cố, nhiều cán bộ dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo phong trào được tăng cường cho các cơ quan Trung ương Cục và các khu ủy.<br />Ngày 15/2/1961 lực lượng vũ trang quân giản phóng miền Nam Việt Nam chính thức ra đời, sau đó Ban quân sự miền và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp ở miền Nam được hình thành. Miền Nam được chia thành 6 quân khu (ở Nam Bộ có: Quân khu I - Đông Nam Bộ; Quân khu II - Trung Nam Bộ; Quân khu III - Tây Nam Bộ, Quân khu IV - Sài Gòn Gia Định).<br />Tháng 2/1962, Bộ CHính trị ra nghị quyết mới về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Thực tế sự phát triển của chiến tranh cách mạng từ sau Đồng Khởi cũng làm sáng tỏ nhiều vấn đề chiến lược chiến thuật của chiến tranh. Những nhận thực mới phù hợp với chiến trường miền Nam lúc này đã nhanh chóng được tiến hành là: Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cùng phát triển: đấu tranh chính trị tiến hành song song với đấu tranh vũ trang và phải luôn kết hợp 2 hình thức đấu tranh ấy; đấu tranh trên cả 3 vùng chiến lược: rừng núi - nông thôn đồng bằng và đô thị; từng vùng có phương thức sử dụng lực lượng và phương thức tác chiến khác nhau, nhưng cơ bản là vận dụng linh hoạt 3 phương châm: chính trị - vũ trang - binh vận; phương hướng phát triểnc của phong trào là từ tiến công - nổi dậy khởi nghĩa tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa để lật đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam. Như vậy phải nhanh chóng xây dựng lực lượng mọi mặt trong đó “Phải khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang ngày càng lớn mạnh, kể cả du kích, bộ đội địa phương và chủ lực”, phương châm hoạt động quân sự trước mắt là lấy chiến tranh làm chính kết hợp với vận động chiến.<br />Cuộc chiến tranh nhân dân du kích ở miền Nam từ sau Đồng Khởi như có phép màu nhiệm, nhanh chóng lan rộng khắp nơi. Tỷ lệ lực lượng vũ trang cách mạng với lực lượng địch lúc đầu là 1/17 nhưng một năm sau tăng lên 1/10, tình hình đó báo hiệu khả năng phát triển của chiến tranh cách mạng ở miền Nam là vô cùng to lớn.<br />Theo tổng kết của ta, năm 1961 quân dân miền Nam đánh 15.525 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 28.996 tên địch, bắt 3.529 tên khác, thu 6.000 súng các loại; trong năm có hơn 38,8 lượt người tham gia đấu tranh chính trị và binh vận, làm cho 14.500 sĩ quan ngụy đào ngũ; vùng giải phóng và vùng kiểm soát của mặt trận giải phóng có hơn 10.000 làng xã với hơn 6 triệu dân. Năm 1962 quân dân miền Nam loại khỏi vòng chiến đấu 35.000 tên địch, làm rã ngũ 32.000 tên khác. Đặc biệt là phong trào chống phá bình định ngày càng phát triển sâu rộng thành phong trào quần chúng và thu được kết quả lớn. Đến cuối năm 1962 có 2.665 ấp chiến lược bị phá trong đó có 484 ấp bị phá hoàn toàn. Dựa vào hệ thống phòng thủ có sẵn ở đó đã có 115 ấp chiến đấu được hình thành, làm trận địa cho phong trào du kích chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạng tạo kỳ diệu của mình, vùng giải phóng ở miềnNam ở cuối năm 1962 chiếm 4.441 xã trên tổnbg số 17.662 xã toàn miền Nam.<br />Đến cuối năm 1962, những mục tiêu của kế hoạch Staley - Taylor đã không đạt được. Ấp chiến lược chỉ có 37% kế hoạch được thực hiện. Chống chiến tranh du kích thì chiến tranh du kích vẫn cứ tồn tại không ngửng phát triển, lực lược vũ trang quân giải phóng tiếp tục trửng thành… Tình hình bi thảm đến nỗi tổng thống Mỹ Kennedy đã phải thú nhận trước giới báo chí ở NewYork rằng họ đang ở trong đường hầm chưa thấy lối ra.<br />Tuy vậy ở miền Nam, Mỹ - Diệm vẫn còn nhiều khả năng phát triển lực lượng, đẩy mạnh càn quét bình định, tăng cường biện pháp củng cố chế độc độc tài. Về phía cách mạng miền Nam, sau 2 năm xây dựng thế và lực, ta đã có khả năng nắm lấy quyền chủ động chiến trường, đã đánh thẳng vào mục tiêu chủ yếu của kế hoạch chiến tranh của địch. Ta đang đứng trước khả năng phát triển nhanh hơn và giành thắng lợi lớn hơn.<br />Ngày 2/1/1962, trận chống càn Ấp Bắc đã diễn ra ở một ấp nhỏ của xã Tân Phú Trung huyện Cai Lậy (Mỹ Tho), song thắng lợi vang dội của nó đã tác động lớn đến chiến trường miền Nam giai đoạn này. Lực lượng giải phóng chỉ khoảng tiểu đoàn do đồng chí tiểu đoàn trưởng D261/khu VIII chỉ huy đã chống chọi với lực lượng địch đông hơn gấp 10 lần do tư lệnh sư đoàn bộ binh 7 cùng với 51 cố vấn Mỹ chỉ huy. Chiến thuật của chiến tranh du kích với vũ khí thô sơ ứng chiến với chiến thuật tân kỳ “Trực thăng vận”, “Thiết sa vận”. Cuối cùng thắng lợi đã thuộc về lực lượng cách mạng. Trận Ấp Bắc đã báo trước khả năng thắng thua cho các bên tham chiến.<br />Ngày 8/4/1963 Trung ương Cục miền Nam phát động cao trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công”. Khắp các chiến trường từ Nam Bộ đến khu V, kể cả vùng ven Sài Gòn, đâu đâu cũng có những trận đánh theo khẩu hiệu hành động ấy. Kết thúc năm 1963, trên toàn miền Nam quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 78.000 tên địch, bắn rơi 100 máy bay, diệt và phá hủy 100 xe thiết giáp M.113, bắn cháy 236 tàu xuồng, thu được 11.000 súng các loại. Năm 1963 còn là năm chống phá bình định có hiệu quả nhất từ trước cho tới lúc đó, với 2.895 ấp trong tổng số 6.164 ấp, chiến lược bị phá banh, trong đó có nhiều ấp bị phá hoàn toàn; có 12.000 thôn ở miền Nam với 9.000.000 dân đã giành được quyền làm chủ ở những mức độ khác nhau.<br />Trong khi đó ở các đô thị phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân chống chế độ Mỹ - Diệm cũng diễn ra ngày một sôi động. Cuộc đàn áp của Diệm - Nhu đối với đồng bào Phật tử tăng ni năm 1963, đã không dập tắt được ngọn lửa đấu tranh ấy mà còn tạo ra nguyên cớ trực tiếp cho Mỹ thực hiện “Thay ngựa giữa dòng” một biện pháp được coi là để trừng phạt nặng nề nhất được giành cho các lực lượng tay sai.<br />Ngày 1/11/1963, cuộc đảo chính lật đổ gia đình Diệm - Nhu của nhóm tướng lĩnh ngụy do Dương Văn Minh cầm đầu, đã được tiến hành với sự ủng hộ của Mỹ. Tuy nhiên đó chỉ là hành động thay người nhận viện trợ Mỹ. Mặt trận giải phóng ngay sau đó (ngày 7/11/1963) đã khẳng định đó là sự thay đổi tập đoàn thống trị này bằng tập đoàn thống trị khác cũng độc tài và phục vụ chính sách xâm lược Mỹ. Đầu năm 1964 Mỹ đề ra 9 biện pháp cấp bách cho tình hình ngày một xấu đi ở miền Nam, trong đó tập trung vào 3 vấn đề chính.<br />* Mở rộng quyền hoạt động của cơ quan MACV.<br />* Đẩy mạnh việc phá hoại miền Bắc và ngăn chặn việc chi viện vào miền Nam.<br />* Tăng thêm lực lượng hiểm trợ Mỹ và trách nhiệm của nó.<br />Theo kế hoạch này, tướng Westmoreland sang thay cho tướng Harkil làm tư lệnh MCAV. Tập đoàn Nguyễn Khánh được dựng lên thay cho tập đoàn Dương Văn Minh. Việc khiêu khích đe dọa gây sức ép đối với miền Bắc được đẩy mạnh cùng với việc lập chính phủ thân Mỹ ở Lào và ép chính phủ Campuchia từ bỏ đường lối trung lập. Tháng 3/1964, Mc Namara lại đến Sài Gòn và lần này súyt nữa bị anh Nguyễn Văn Trỗi dùng mìn đánh phục ở cầu Công Lý. Mỹ đang hy vọng dùng Nguyễn Khánh đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt lên cao.<br />Tình hình miền Nam như Đảng ta trong Hội nghị BCHTW lần thứ 9 (tháng 12/1963) đã chỉ rõ: “Cần phải và có khả năng kìm chế và thắng địch trong loại chiến tranh đặc biệt”, trong giai đoạn hiện nay “Đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều có vai trò rất cơ bản và rất quyết định” nhưng “Đấu tranh vũ trang đóng vai trò quyết định trực tiếp”.<br />Vào những tháng đầu năm 1964, từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, từng đoàn cán bộ tướng lĩnh và chiến sĩ theo đường Trường Sơn và tăng cường cho miền Nam. Thực lực của chiến trường B được xây dựng nhanh hơn. Ở miền Nam hàng ngàn thanh niên từ các vùng giải phóng cũng nô nức tòng quân giết giặc bảo vệ quê hương (tỉnh Bến Tre năm 1964 có 8.000 thanh niên nhập ngũ, trong đó có 6.400 thanh niên bổ sung vào Quân giải phóng). Tháng 10/1963, ta thành lập cơ quan Quân ủy miền và Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam thay cho Ban quân sự miền. Năm 1963 so với năm 1962, Lực lượng vũ trang địa phương tăng gấp đôi. Đến năm 1964 ở miền Nam có 11 trung đoàn, 15 tiểu đoàn chủ lực, 25 tiểu đoàn, 90 đại đội bộ đội địa phương, 200.000 du kích các loại.<br />Với thực lực ấy, ta đã tổ chức nhiều trận chống càn và nhiều chiến dịch tiến công để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, phối hợp với các địa phương mở những đợt tổng phá ấp chiến lược. Ở các trọng điểm bình định như quanh Sài Gòn, Nam Bộ, khu V, phong trào ấp chiến lược, xây dựng xã chiến đấu đang ngày một mở rộng. Đặc biệt là cuối năm 1964 đầu 1965 những chiến thắng vang dội của quân giải phóng ở Bình Giã, An Lão, Ba Giai, Phước Long, Đồng Xoài… liên tiếp giáng cho quân ngụy những đoàn chí tử. Khả năng thắng lợi lớn về quân sự đang đến với quân giải phóng miền Nam, điều đó có nghĩa là quân ngụy - xương sống của chiến tranh đặc biệt đang suy sụp dần không thể cứu vãn.<br />Đô thị cũng không còn là nơi an toàn của chế độ ngụy Sài Gòn, khi những trận đánh của đặc công, biệt động Quân giải phóng liên tiếp gây kinh hoàng cho Mỹ ngụy. Đặc biệt là những cuộc đấu tranh chính trị khổng lồ ở đô thành Sài Gòn trong cao điểm tháng 8/1964. Hàng chục vạn lượt người rầm rộ xuống đường với khẩu hiệu chống “Hiến chương Vũng Tàu”, “Đả đảo đế quốc Mỹ”, “Đả đảo Nguyễn Khánh”… Tất cả đã làm rung chuyển chế độ thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.<br />Cho đến cuối năm 1964 đầu năm 1965, tình hình chuyển biến nhanh ở chiến trường báo hiệu một khả năng mới vô cùng thuận lợi là: chiến tranh cách mạng Việt nam có thể đánh bại hoàn toàn chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Tuy nhiên Mỹ còn nhiều mưu toan để leo thang chiến tranh. Hoạt động phá hoạt và khiêu khích gây sức ép của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam được bắt đầu từ năm 1961, tăng dần vào các năm tiếp theo, đến năm 1964 trở thành một trọng tâm của kế hoạch chiến tranh.<br />Từ ngày 30/7 đến ngày 2/8/1964 để có một lý do trực tiếp thuyết phục, Quốc hộ Mỹ cho phép quân đội của họ mở rộng chiến tranh chống nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tổng thống Mỹ Yolhson đã cho lực lượng hạm đội 7 ở Thái Bình Dương gây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”. Ngay sau đó “Nghị quyết vịnh Bắc Bộ” được thông qua, trở thành lời tuyên chiến của chính phủ Mỹ. Giới hiếu chiến Mỹ đã đánh lừa dư luận Mỹ, sau đó ngày 5/8/1964 đã mưu toan đánh trận phủ đầu vào miền Bắc bằng không quâ, gây sức ép buộc các lực lượng cách mạng ở miền Nam phải ngưng lại cuộc tiến công.<br />Những trận tiến công “Mũi tên xuyên” của không quân Mỹ cuối cùng không thực hiện được mục tiêu đánh phủ đầu; ngườc lại chúng đã gặp nhiều bắt ngờ: 8 máy bay phản lực của Mỹ bị bắn rơi, một phi công Mỹ bị bắt sống. Sau ngày 5/8 lịch sử ấy, Mỹ tiếp tục cho không quân, hải quân đánh phá miền Bắc, trọng điểm là đường vận tải chiến lược Trường Sơn. Song miền bắc cũng kịp thời ứng phó bằng hai công việc khẩn cấp nhất: chi viện tích cực hơn nữa cho miền Nam và chiến đấu chống không quân, hải quân Mỹ theo khẩu hiệu hành động của Nguyễn Viết Xuân: “Nhằm thằng quân thù mà bắn”.<br />Mỹ đã đạt tới giới hạn cố gắng nhưng vẫn không lập lại được chiến trường miền Nam như ý muốn. Viện trợ Mỹ cho miền Nam từ năm 1963 đến năm 1964 đã lên tới hơn 100 triệu dollar, trong đó trên 70% là dành cho quân sự; tổng số quân hơn nửa triệu người (gồm 161.000 quân ngụy, 26.200 quân yểm trợ Mỹ) vẫn không làm chủ được chiến trường. Số cuộc càn quét cứ tăng dần nhưng số dân và ấp bình định cứ tụt dần đến mức báo động. Ngụy quyền từ trung ương tới cơ sở đều trở thành “lũ âm binh” không thể kiểm soát được kể từ khi sử dụng chúng để lật đổ gia đình Ngô Đình Diệm…<br />Để cứu vãn tình hình, nửa đầu năm 1965 Mỹ đã vội vàng đổ quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc chuyển sang một bước ngoặc mới.<br />III. CẢ NƯỚC CÓ CHIẾN TRANH - 10 NĂM “ĐÁNH CHO MỸ CÚT, NGỤY NHÀO” (1965 - 1975)<br />1. Mỹ leo thang chiến tranh Việt Nam - cả nước kháng chiến chống Mỹ cứu nước<br />Có thể hình dung chế độ Ngụy miền Nam đang trên đà lao xuống vực sâu và tan vỡ thì quân đội viễn chinh Mỹ chư hầu đứng vào cản lại. Tháng 2/1965 các chiến dịch của không quân và hải quân Mỹ Plemmynd Dart (Mũi Lao Lửa) và Rolling Thunder (Sấm Rền) đánh phá ồ ạt ra miền bắc Việt Nam. Tháng 3 và 4/1965 những đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ đầu tiên được đưa vào Đà Nẵng. Ngày 17/7/1965 tổng thống Mỹ Johnson ra quyết định chấp nhận yêu cầu tăng quân số theo chiến lược “tìm diệt” của tướng Wesmoreland. Một kế hoạch gồm 3 giai đoạn áp dụng cho miền Nam Việt Nam từ giữa năm 1965 là:<br />1. Sáu tháng cuối năm 1965 phải ngăn chặn được chiều hướng thua.<br />2. Sáu tháng đầu năm 1966 phản công giành lại quyền chủ động.<br />3. Từ nửa cuối năm 1966 trở đi sẽ củng cố bình định kết thúc chiến tranh, rút quân Mỹ về nước.<br />Đến cuối năm 1965 đạo quân viễn chinh có mặt ở miền Nam là 184.314 lính Mỹ; 20.500 lính Nam Triều Tiên, Úc, Tân Tây Lan. Toàn bộ lực lượng quân sự Mỹ - chư hầu - ngụy Nam Việt Nam được đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của cơ quan MACV và do Bộ tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương trực tiếp điều hành. Các trận đánh của Mỹ - nguỵ - chư hầu sẽ được chi viện tối đa của hỏa lực Mỹ, kể cả máy bay chiến lược B52. Ngày 18/6/1965 trận rải thảm đầu tiên của máy bay B52 được thực hiện tại Bến Cát. Ngày 27/6/1965 cuộc hành quân hỗn hợp đầu tiên của quân viễn chinh Mỹ với lực lượng ngụy được tổ chức ở Tây Bắc Sài Gòn. Cuối tháng 6/1965, không quân và hải quân Mỹ kết thúc những trận đánh “trả đũa” để bắt đầu đánh rộng ra toàn miền Bắc Việt Nam, kể cả Hà Nội, Hải Phòng.<br />Cứ mỗi ngày lại tăng thêm một bước mới, cuộc chiến tranh của Mỹ chống Việt Nam từ năm 1965 loang nhanh như một vết dầu và hóa thành biển lửa ngùn ngụt tưởng không gì giập tắt được mặc dù tổng thống Mỹ lúc ấy luôn luôn nói tới “Hòa bình thương lượng” và “Sẽ tìm cách giữ sao cho cuộc chiến tranh không lan rộng”, nhưng cả thế giới đều lo ngại về khả năng ngược lại và băn khoăn cho sức chịu đựng của nhân dân Việt Nam.<br />Trước tình hình cả nước có chiến tranh, Đảng Lao Động Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) của BCHTW (khóa 3) ngày 23/2/1965 đã xác định: Cả nước đang có chiến tranh với đế quốc Mỹ…, “Cả nước đều phải tham gia đánh giặc, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn”, “Sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta là giải phóng cả nước và thống nhất tổ quốc đồng thời làm nghĩa quốc tế rất lớn: đánh bại cuộc thí nghiệm có tính chất quốc tế của bọn đế quốc do Mỹ cầm đầu”.<br />Mặt Trận Giải Phóng trong tuyên bố ngày 22/3/1965 đưa ra lập trường 5 điểm nói rõ Mỹ là kẻ gây chiến, là kẻ thù không đội trời chung của nhân dân Việt Nam, vì thế toàn dân vũ trang quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ và bọn Việt gian bán nước.<br />Ngày 31/3/1965, phong trào thi đua đặc biệt được phát động mang tên “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Nhân ngày kỷ niệm Hiệp định đình chiến Genève (ngày 20/7/1965) Chủ tịch Hồ CHí Minh kêu gọi: “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng… kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn.”<br />Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân từ Bắc chí Nam chống Mỹ cứu nước với quyết tâm sắt đá: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hợn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.<br />Cả dân tộc bước vào trận chiến đấu vì độc lập tự do, đó là hình ảnh rõ nét nhất về Việt Nam từ năm 1965, ở miền Nam những trận chiến đấu đầu tiên chống xâm lược Mỹ diễn ra khá dồn dập trong 6 tháng cuối năm 1965.<br />Ngày 26/5/1965, Quân giải phóng miền Nam tập kích diêt gọn 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ tại Núi Thành (Quảng Ngãi).<br />Ngày 18/8/1965, quân dân miền Nam bẻ gãy cuộc càn và loại khỏi vòng chiến đấu 900 lính thủy đánh bộ Mỹ ở Vạn Tường (Quảng Ngãi).<br />Từ ngày 14/11 đến 19/11/1965 trong chiến dịch Plây-me ta đã diệt 1.700 quân Mỹ thuộc lữa đoàn 3 sư đoàn không vận số 1 của chúng.<br />Trước đó, ngày 18/11/1965, Quân giải phóng miền Đông Nam Bộ tập kích diệt 300 tên Mỹ của Lữ dù 173 tại Đất Cuốc (Biên Hòa); ngày 13/11/1965 trong chiến dịch Bầu Bàng lại có 2.000 lính Mỹ thuộc Lữ đoàn 2 sư đoàn Anh Cả Đỏ bị tiêu diệt…<br />Khắp các chiến trường ở miền Nam, bước chân quân xâm lược đi đến đâu là ở đó chúng bị đánh đòn phủ đầu và bị tổn hại lớn. Chưa một cuộc chiến tranh nào mà quân đội Mỹ ngay từ những phút nhập cuộc đã phải gửi về nước nhiều bao đựng xác chết như lần này ở Việt Nam. Đối với Quân giải phóng miền Nam, thực tế chiến đấu thắng lợi đã khẳng định rằng ta hoàn toàn có khả năng tiêu diệt những đơn vị tinh nhuệ nhất của viễn chinh Mỹ, tiêu diệt những đơn vị ngày càng lớn của quân chủ lực ngụy. Kinh nghiệm chiến trường như Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nói: “Cứ đánh Mỹ ta sẽ tìm ra cách đánh thắng Mỹ”, khẩu hiệu hành động cho quân dân ta ở miền Nam lúc này là: “Tìm Mỹ mà diệt”, “Gặp Mỹ là đánh”, “Bám thắt lưng Mỹ mà đánh”… Danh hiệu “Dũng sỹ diệt Mỹ” cho cá nhân và “Đơn vị anh hùng diệt Mỹ” cho tập thể từ sau ngày 20/11/1965 trở thành mục tiêu phấn đấu trong các trận đánh của quân dân miền Nam.<br />Trong khi đó ở miền Bắc, lực lượng phòng không nhân dân Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tuy mới được xây dựng nhưng đã chống trả quyết liệt với không quân hiện đại của Mỹ ở Hồ Xá, Cồn Cỏ (Vĩnh Linh), Đồng Hới (Quảng Bình), Bạch Long Vĩ (Hải Phòng)… Tháng 4/1965 mặt trận cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa) trở thành trọng điểm của địch trong kế hoạch phá sập hệ thống cầu phà phía Nam Hà Nội trước mùa mưa.<br />Đến cuối năm 1965, những trận đánh giặc trời và giặc biển ở miền Bắc diễn ra cả ban ngày lẫn ban đêm. Nhưng quân dân miền Bắc có thể chiến đấu chống Mỹ bất cứ lúc nào, bởi không chừa một góc lãnh thổ nào lại không hình thành trận địa. Giặc Mỹ đã gây ra nhiều thiệt hại về người và của cho nhân dân miền Bắc, nhưng chúng không thực hiện được những mục tiêu căn bản là ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam. Năm 1965 chi viện ấy so với năm 1964 tăng 3 lần về lực lượng và tăng 5 lần về vũ khí đạn dược.<br />Cuộc chiến tranh phá hoại của chúng còn chốc lấy những hậu quả nặng nề, bởi những tổn hại của lực lượng không quân và hải quân Mỹ trên vùng trời và vùng biển miền Bắc. Trong năm 1965 Mỹ sử dụng 55.000 phí xuất đánh ra Bắc, trong đó chúng bị bắn rơi 834 máy bay các loại. Ba ngày 7/2, 8/2 và 11/2/1965 có 22 máy bay bị bắn rơi. Ngày 26/3/1965 có 8 máy bay bị bắn rơi ở Hà Tĩnh và Bạch Long Vĩ. Ngày 3/4/1965 lại thêm 8 chiếc nữa bỏ xác trong trận đánh ở Hàm Rồng. Chỉ 4 phút chiến đấu đầu tiên tại Hàm Rồng, biên đội không quân Trần Hanh đã bắn rơi 2 máy bay Thần Sấm F.105D của Mỹ. Ngày 24/7/1965 Bộ đội tên lửa ra quân lần đầu và bắn rơi 1 máy bay Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng. Khắp miền Bắc đâu đâu cũng thấy trận địa và sự sẵn sàng, người ta thi đua nhau “Bắn trúng từ loạt đạn đầu”, “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Bám thắt lưng địch mà đánh”… Cả miền Bắc bước vào chiến tranh tràn đầy niềm tin và hy vọng.<br />Vào những ngày cuối của năm đầu cả nước đánh Mỹ, từ 21 - 26/12/1965, Đảng Lao Động Việt Nam mở Hội nghị BCHTW lần thứ 12 bàn về tình hình và nhiệm vụ mới, “Nêu cao hơn nữa quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược bất kể trong tình huống nào”.<br />Vừa khi triển khai song lực lượng và bố trí chiến trường ở miền Nam với tổng quân số cã Mỹ - ngụy - chư hầu là 726.772 quân, Mỹ bắt đầu chiến lược phản công vào mùa khô 1965 - 1966 nhằm “tìm diệt” Quân giải phóng miền Nam tại hai chiến trường trọng điềm là khu V và miền Đông Nam Bộ. Chúng đưa ra kế hoạch 5 mục tiêu để triển khai trên 5 hướng là: Nam Quảng Ngãi, Bắc Bình Định, Nam Phú Yên, Đông Sài Gòn, Tây Bắc Sài Gòn.<br />Dùng lực lượng lớn phản công trên các hướng chính và cho từng bộ phận hành quân càn quét bình định trên các địa bàn còn lại, Mỹ nguỵ hy vọng chúng sẽ “tìm diệt” Quân giải phóng miền Nam, trả thù cho những đòn bị đánh phủ đầu vừa qua, giành lại quyền chủ động trên chiến trường, giải tỏa áp lực, củng cố bình định, ổn định lại trật tự cho chế độ thực dân mới.<br />Ngày 8/1/1966 cuộc phản công đã bắt đầu ở miền Đông Nam Bộ với những trận đánh vào Bàu Trai (Hậu Nghĩa), Củ Chi, Bến Cát. Ở khu V, cuộc phản công của địch được bắt đầu bằng trận đánh vào Nam Phú Yên từ 19/1/1966. Trong cả mùa khô 1965 - 1966, chúng đã tiến hành 450 cuộc hành quân, trong đó có 20 cuộc hành quân quy mô lớn. Từ cuối tháng 1/1966 đến tháng 3/1966, chiến sự càng sôi động bởi những hoạt động càn quét của địch có lực lượng đông, đánh dài ngày trên diện rộng nhưng có trọng điểm.<br />Địch đã dự tính đến sức chống đỡ của quân dân miền Nam nhưng vẫn không ngờ ở Việt Nam lại có kiều chiến tranh “tổng hợp” như chúng đã gặp trong những tháng năm này. Đó là loại dụng binh có cả lực lượng quần chúng đấu tranh trực diện với binh lính và chính quyền ngụy, còn đối phương chủ yếu thì không bao giờ nhìn rõ mặt, trận mạc thì toàn là địa đạo và làng xã chiến đấu.<br />Thiệt hại đối với chúng cũng bị bất ngờ: chỉ 12 ngày đêm cuối tháng 1/1966 quân dân Củ Chi diệt 17.000 tên địch; chỉ hơn 5 tiếng tập kích ngày 24/2/1966 Quân Giải Phóng Miền Nam đã đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn bộ binh, 2 chi đoàn xe bọc thép, 1 sở chỉ huy lữ đoàn của Mỹ; chỉ 5 ngày đánh nhỏ bắn tỉa, bộ đội địa phương và du kích An Lão diệt 200 tên địch, bắn hỏng 4 máy bay của chúng. Từ 28/1 đến 7/3/1966 quân dân Bình Định đã đập tan cuộc phản công lớn nhất mùa khô 1965 - 1966 của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 8.000 quân, bắn rơi và phá hủy 236 máy bay các loại.<br />Ngày 30/3/1966 đại sứ Cabogd Logd loan báo về Mỹ “Cuộc tấn công đã không làm hao tổn được Việt Cộng, không tìm diệt được một đơn vị chính qui lớn nào của Việt Cộng, không ngăn được du kích phát triển. Mỹ vẫn bị động, quân đội Sài Gòn giảm chất lượng nhanh chóng”. Đến giữa năm 1966, địch phải kết thúc cuộc phản công chiến lược. Có gần 70.000 quân Mỹ - chư hầu bị loại khỏi vòng chiến đấu, trong đó có 30.000 quân viễn ching, đánh thiệt hại 15 tiểu đoàn địch.<br />Thắng trong hiệp đầu của chiến tranh Cục Bộ (mùa khô 1965 - 1966), quân dân miền Nam càng hiểu rõ địch hơn, biết rõ khả năng chiến đấu của mình hơn, đã tìm được phương thức đánh Mỹ và xác định được quyết tâm thắng Mỹ. Đại hội dũng sĩ diệt Mỹ ở Củ Chi ngày 7/2/1966 đã nêu lên 10 kinh nghiệm của chiến tranh du kích. Quân ủy Trung ương lúc đó cũng kịp thời đề ra 6 phương thức tác chiến chiến lược của chiến tranh nhân dân. Đó là những cơ sở thực tiễn hết sức quý báu để quân dân miền Nam tiếp tục tiến lên giữ vững thế chiến lược tiến công cách mạng.<br />Tháng 6/1966 lần đầu tiên trong giai đoạn này ta mở chiến dịch ở đường 9 - Bắc Quảng Trị (Mặt trận B5), nhằm buộc địch phải phân tác lực lượng, thực hiện tiêu diệt chiến lược đối với quân cơ động chiến lược của địch bằng lực lượng chủ lực mạnh của ta ở miền Bắc.<br />Cùng lúc ấy, việc tăng cường lực lượng xây dựng nhanh đội quân chiến đấu cho cách mạng ở miền Nam được chú trọng. Hàng chục vạn thanh niên miền Bắc và từ các vùng giải phóng miền Nam đã gia nhập bộ đội. Số quân chủ lực của ta ở miền Nam đến cuối năm 1966 đã lên tới 230.000 người, gồm 8 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn pháo, một số trung đoàn và tiểu đoàn độc lập, tổng số tiểu đoàn cơ động của ta là 98 tiểu đoàn. Một số vũ khí trang bị mới của ta cũng bắt đầu đưa vào chiến trường như ĐKB, A12… Tổ chức chiến trường được củng cố lại như: Thành lập Quân khu Trị Thiên (B4), thành lập Đặc khu quân sự rừng Sát (Đoàn 10)…<br />Ở miền Bắc năm 1966 địch tiếp tục chiến tranh phá hoại với nhiều thủ đọan mới. Chúng tăng cường khống chế sân bay của ta, dùng máy bay tiêm kích bảo vệ máy bay cường kích khi ném bom, gây nhiễu ra đa và tên lửa, bắn phá từ xa vào bờ biển vào ban đêm… Nhưng theo cách của Quân Giải Phóng Miền Nam “Bám thắt lưng địch mà đánh”, quân dân miền Bắc cũng bám sát bọn giặc trời và giặc biển để tiềm ra cách đánh chúng.<br />Tháng 6/1966 các “Sư đoàn phòng không cơ động bảo vệ yếu địa” được thành lập để tổ chức chiến đấu theo lối hợp đồng binh chủng. Các cơ quan nghiên cứu trong ngoài quân đội đều tập trung nghiên cứu chiến lược chiến thuật đánh Mỹ. Hàng ngàn tổ đội săn máy bay với hàng triệu tay súng dân quân tự vệ miền Bắc đã đan thành lưới lửa tầm thấp đón đánh địch. Từ tháng 5/1966 đến tháng 12/1966 bình quân mỗi tháng có 86 máy bay Mỹ bỏ xác ở miền Bắc. Tháng 7/1966 và tháng 8/1966 có tới 232 máy bay địch rơi. Ngày 2/12/1966 Mỹ tập trung đánh quy mô lớn nhất ở miền Bắc, cũng là ngày quân dân miền Bắc lập kỷ lục về bắt giặc lái Mỹ với 7 tên trong 1 ngày. Đến cuối năm 1966 miền Bắc đã bắn trúng 1.620 máy bay hiện đại của không lực Hoa Kỳ.<br />Trong quá trình chiến đấu, việc tổ chức cuộc sống thời chiến cho nhân dân miền Bắc cũng là một thành công không nhỏ. Công tác phòng tránh, sơ tán được triển khai khá sớm. Chỉ một thời gian ngắn, gần 33.000.000 hố cá nhân, 7.000.000 hầm tập thể, hàng chục vạn công sự được đào đắp. Việc bảo vệ Hà Nội - trái tim của cả nước cũng là một trọng điểm, với việc tập trung lực lượng khá lớn để đánh lũ giặc trời, kiên quyết không cho chúng hoành hành khi xâm phạm bầu trời Thủ đô.<br />Vừa chiến đấu vừa sản xuất, quân dân miền Bắc vừa tích cực chi viện cho miền Nam ruột thịt, điều đó đã trở thành nếp nghĩ và việc làm thường xuyên cho từng con người, từng địa phương. Lúc có báo động máy bay tàu chiến địch đến, cả miền Bắc thành chiến trường. Giữa 2 trận đánh lại thấy miền Bắc dịu dàng, lao động tảo tần, chắt chiu. Phố xá và đường làng cũng như trên các quốc lộ đâu đâu cũng có dòng chữ xếp bằng vỏ bom Mỹ hoặc viết bằng phấn trắng học trò: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Cả miền Bắc đang cùng miền Nam bước vào những năm tháng kháng chiến hào hùng chống Mỹ cứu nước.<br />Từ cuối năm 1966, Mỹ rất quyết tâm cùng phe hiếu chiến leo thang chiến tranh Việt Nam. Khi có tổng số quân các loại là 889.000 (trong đó có 582.000 chủ lực), Mỹ liền huy động 20 sư đoàn, 10 lữ đoàn, trung đoàn cùng 4.000 máy bay; 2.500 xe tăng, xe bọc thép; 2.540 khẩu pháo; 500 tàu xuồng chiến đấu để mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai tập trung chủ yếu vào chiến trường miền Đông Nam Bộ - nơi mà chúng hy vọng sẽ tìm diệt quân giải phóng và các cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến miền Nam ở ngay căn cứ địa cách mạng lớn nhất này.<br />Từ tháng 9/1966 đến tháng 4/1967, Mỹ - nguỵ - chư hầu đã mở 895 cuộc hành quân càn quét tìm diệt (hơn gấp đôi số cuộc hànhq uân trong mùa khô lần trước), trong đó lớn nhất là các cuộc hành quân Attleboro (từ 14/9 đến 25/11/1966), Cedarsall (từ 8/1 đến 21/1/1967), Junction City (từ 22/2 đến 14/5/1967)… Điển hình là cuộc hành quân Junction City có tới 45.000 quân tham chiến, trong hơn 50 ngày chúng đánh đi đánh lại vào các khu Dương Minh Châu (Bắc tây Ninh) và khu tam giác sắt Củ Chi - Bến Cát - Bến Sỏi.<br />Khác với lần phản công trước, mùa khô năm 1966 - 1967 Mỹ - ngụy còn coi chương trình bình định cũng là một “gọng kìm” chiến luợc thứ hai phối hợp chặt chẽ với “gọng kìm” tìm diệt. Những chương trình bình định có tên thật hấp dẫn được áp dụng như: “Phát triển cách mạng”, “Tái thiết nông thôn”, “Chiến tranh chống nghèo đói và dốt nát”, “Ấp tân sinh”, “Ấp đời mới”… Đó là thực sự là cuộc chiến giành dân chiếm đất không kém phần quyết liệt. Ở tỉnh Long An mùa khô năm 1966 - 1967, bình quân mỗi người dân trong vùng trọng điểm bình định này phải hứng chị một quả bom Mỹ, trong đó quận Đức Huệ bình quân mỗi người chịu 1 tấn bom, xã Bình Quang của quận này có bình quân là 3 tấn bom/1 đầu người.<br />Song tất cả những cố gắng tìm diệt và bình định của Mỹ - nguỵ trong mùa khô năm 1966 - 1967 vẫn thất bại ê chề. Mặt trận giải phóng đã tổng kết, trong Đông Xuân năm 1966 - 1967 ta loại khỏi vòng chiến đấu 175.000 tên địch, trong đó có 7.000 quân Mỹ; bắn cháy, bắn hỏng, bắn rơi, bắn chìm, phá hủy 1.800 máy bay, 2.000 xe quân sự các loại, 100 tàu xuồng, 340 khẩu pháo… Chính quyền ngụy Sài Gòn thú nhận chỉ đạt được 13% kế hoạch bình định đề ra. Chính phủ Mỹ thừa nhận được báo cáo đánh giá: “Kết quả bình định có lẽ đã thụt lùi so với cách đây 2 hay 4 năm”. Khi mùa mưa năm 1967 ập đến thì cả đại quân Mỹ - ngụy - chư hầu không ai không nghĩ đến sự ảm đạm của mùa mưa năm 1966 và họ hết sức ngán ngẩm với chiến lược: “tìm diệt” của tướng Wesmoreland, dấu hiệu thất bại và sa lầy của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam đã rõ ràng.<br />Suốt mùa mưa năm 1967 quân giải phóng miền Nam tiếp tục mở hàng loạt chiến dịch tiến công địch ở miền Đông Nam Bộ, khu V, Tây Nguyên…, buộc địch đối phó hết sức lúng túng bị động. Cuối cùng chúng phải hình thành những tuyến phòng ngự chiến lược trên 2 hướng quan trọng nhất là Trị Thiên và Đông Nam Bộ để giữ miền Nam và Sài Gòn được an toàn hơn.<br />Trong khi ấy chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc dù đã cố gắng hết mức, nhưng vẫn không đạt được mục tiêu chiến lược đề ra. Địch dùng pháo ở bờ Nam sông Bến Hải bắn ra bờ Bắc, mở chiến dịch “Rồng Biển” với 60.000 thủy lôi phong tỏa các cửa sông biển miền Bắc, dùng pháo các hạm đội khống chế vùng ven biển khu IV cũ, sử dụng máy bay B52 rải thảm khu phi quân sự, số lượng máy bay xuất kích đánh phá miền Bắc tăng từ 6.000 lần chiếc/ tháng. Đầu năm 1966 lên 12.000 lần chiếc/ tháng cuối năm 1966; khối lượng bom địch ném xuống miền Bắc năm 1967 tăng gấp 7 lần so với năm 1965, làm cho 25/30 thành phố, thị xã của miền Bắc…<br />Để bổ sung cho chiến tranh phá hoại, từ đầu năm 1967 Mỹ còn cho triển khai “kế hoạch Dye Mark” thiết lập hàng rào điện tử dọch theo tuyến với chiều dài 35km. Đến cuối năm 1967 đã có 12km “hàng rào điện tử Mc Namara” được hình thành.<br />Song với cuộc chiến đấu của quân dân Việt Nam ở cả 2 miền Nam - Bắc vẫn phối hợp nhịp nhàng. Mỹ sử dụng “Chung một biểu đồ” cho chiến tranh cả ở miền Nam lẫn miền Bắc thì miền Bắc và miền Nam cũng chung một mục tiêu chống Mỹ bảo vệ miền Bắc giải phóng miền Nam - miền Bắc gọi thì miền Nam trả lời, miền Nam gọi thì miền Bắc sẵn sàng chia lửa, “Nam - Bắc thi đua đánh giặc Mỹ”. Đã đến lúc chiến tranh nhân dân địa phương cũng đánh được chiến tranh phá hoại. Lão dân quân Hoằng Hóa (Thanh Hóa) 2 lần bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng trường. Nữ dân quân Lệ Thủy (Quảng Bình) dùng pháo bộ binh bắn cháy tàu chiến Mỹ… Ở miền Bắc những năm gian khổ ác liệt ấy, nếp sống thời chiến tranh đã trở thành thói quen, lao động khẩn trương và chiến đấu bình tĩnh. Chiếc mũ rơm đã trở nên duyên dáng trên đầu em học sinh đến trường. Ánh đèn dưới mái nhà hạ thổ không còn tạo cảm giác tù mù nặng nề trong ngày làm việc, học tập như hồi chiến tranh nữa. Chợ Hoàng Hôn và chợ Tảng Sáng vẫn đủ thực phẩm tươi sống. Hệ thống giao thông mạng nhện đêm đêm vẫn ì ầm tiếng xe vận chuyển hàng hóa cho các nhà máy, xí nghiệp, nông trường. Đường mòn Hồ Chí Minh vẫn nối dài luồng hàng và quân đi B theo khẩu hiệu “Giặc phá ta sửa ta đi, mở đường mà tiến”.<br />Cả miền Bắc hậu phương đâu đâu cũng nêu cao quyết tâm “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”… Báo cáo của CIA ngày 12/5/1967 đã nói rõ ràng rằng chiến tranh phá hoại “Đã không làm giảm khả năng vật chất của đối phương trong việc tiếp tục cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam”. So với năm 1965, số hàng của miền Bắc chi viện cho miền Nam trong 6 tháng cuối năm 1967 tăng gấp 6 lần; quân số đưa vào chiến trường trung bình từ 5.000 - 7.000 người/ tháng, riêng tháng 1/1968 quân số đi B tăng lên 22.000 người.<br />Khi người Việt Nam đang tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện như thế thì người Mỹ lại bị cuộc chiến của họ ở Việt Nam chia xẻ đất nước. Chi phí cho chiến tranh Việt Nam năm 1967 gấp 1,5 lần cả 3 năm chiến Triều Tiên. Sự tiêu tốn sức người, sức của của một cuộc chiến tranh không thấy tiền đồ thắng lợi đã làm dấy lên làn sóng công phẫn của nhân dân. Cuộc biểu tình ngày 15/4/1967 của hơn 30.000 người làm náo động Washington, mở đầu cuộc chiến tranh ngay trong lòng nước Mỹ.<br />Nhưng chính quyền Johnson và phái hiếu chiến vẫn hy vọng rằng, chỉ có thắng lợi về quân sự với lực lượng mạnh ở miền Nam mới xoay chuyển được tình hình ấy. Đến cuối năm 1967, đầu năm 1968 quân Mỹ ở chiến trường miền Nam vẫn tăng hơn 500.000 người. Các đơn vị quân viễn chinh Mỹ như sư đoàn dù 101, sư đoàn bộ binh 25, sư đoàn kỵ binh không vận, lữ dù 173… đã tập trung về miền Đông Nam Bộ, chúng đang chuẩn bị cuộc phản công chiến lược lần thứ 3.<br />2. Tổng tấn công Mậu Thân năm 1968 - Bước ngoặc thứ hai của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước<br />Cùng thời gian này tại miền Nam Việt Nam cũng đang diễn ra quá trình chuẩn bị khác của lực lượng cách mạng nhằm làm cho Mỹ sẽ chịu một thất bại lớn hơn về quân sự đồng thời để tranh thủ thời điểm chính trị của nước Mỹ khi cuộc bầu cử tổng thống sắp diễn ra.<br />Đảng ta tại Hội nghị Bộ Chính trị họp (tháng 12/1967), sau đó tại Hội nghị BCHTW lần thứ 14 (tháng 1/1968) chủ trương: Tập trung mở những cuộc tấn công quy mô vào tất cả các đô thị, các căn cứ quân sự, kho tàng và các cơ quan của chế độ ngụy miền Nam buộc Mỹ phải nhượng bộ xuống thang chiến tranh. “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàng Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khời nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.<br />Ở miền Nam đến đầu năm 1968 quân giải phóng miền Nam đã có 7 sư đoàn, 15 trung đoàn, 50 tiểu đoàn độc lập; lực lượng vũ trang địa phương cũng có 55 tiểu đoàn, 17 đại đội, 144 trung đội độc lập; dân quân du kích có 300.000 người. Toàn bộ lực lượng ấy vừa bẻ gãy hai cuộc phản công chiến lược mủa khô của liên quânMỹ - ngụy - chư hầu, hiện đã có sẵn thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và đang đứng chân ở các vị trí chiến lược quan trọng, hừng hực khí thế chiến thắng. Thực lực và khả năng ấy là cơ sở của thế chiến lược tiến công cách mạng trong cuộc tổng công kích sắp tới.<br />Mặt khác, sau 9 năm tiến hành con đường cách mạng bạo lực, chiến tranh cách mạng miền Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế cả về thực lực lẫn về phương thức và kỹ chiến thuật chiến tranh. Khi đạo quân địch còn hơn 1 triệu người gồn 486.000 binh lính Mỹ, 650.000 binh lính ngụy, 57.800 các nước chư hầu, hệ thống thiết bị chiến trường của chúng còn gần như nguyên vẹn, việc tiến công trên quy mô lớn nhất, nhằm vào chổ địch mạnh nhất đòi hỏi ta phải có sự tính toán có thời gian, không thể vội vàng. Mặc dù trong chỉ đạo, Đảng đã đề ra 3 dự kiến phát triển của tình hình nhưng mọi sự chuẩn bị lâu dài và trực tiếp cho trận đánh này rõ ràng còn chưa đầy đủ.<br />Đêm 20/1/1968 tiếng súng tấn công của quân giải phóng đã nổ đều trên toàn tuyến đường 9 - Khe Sanh (Quảng Trị). Quân Mỹ ở căn cứ Tà Cơn bỗng nhiên bị rơi vào thế giống như quân Pháp ở Điện Biên Phủ hồi năm 1954, thật là kinh hoàng và ác liệt. Tuy vậy đó chỉ là trận nghi binh rất thành công để giữ yếu tố bất ngờ cho hướng trọng điểm.<br />Đêm 30 rạng 31/1/1968 cuộc tổng tấn công của quân giải phóng đã nổ ra trên khắp miền Nam, trọng điểm là các đô thị, trong đó Sài Gòn là mục tiêu quan trọng nhất. Tại đây, cuộc tiến công đồng loạt của cuộc vũ trang cách mạng ngay từ phút đầu đã gây cho địch nhiều bất ngờ. Đặc công và biệt động, bộ binh và các lực lượng vũ trang địa phương đã đánh trúng vào tất cả các căn cứ quân sự, sân bay, kho tàng, trạm thông tin, đài phát thanh, các cơ quan đầu não của chế độ ngụy miền Nam, thậm chí chiến sự xảy ra ngay trong Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Cờ Mặt Trận Giải Phóng tung bay ở nhiều nơi trong thành phố cùng lúc đó các thành phố, tỉnh lỵ, quận lỵ, các khu vực có Mỹ - ngụy chiếm đóng đều bị tấn công. Chiến tranh cách mạng thực sự tràn ngập vào các sào huyệt của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam.<br />Sau đợt tấn công đầu tiên trong ngày Tết Nguyên Đán, các đợt tấn công tháng 5/1968 và tháng 9/1968 không đạt được mục tiêu đã đề ra nhưng nó vẫn làm cho Mỹ - ngụy - chư hầu không thể chủ động đối phó với tình hình và chúng tiếp tục bị tổn thất sinh lực. Trong cuộc tổng tấn công này, ta cũng bị tổn thất với 111.306 cán bộ chiến sỹ hy sinh và bị thương.<br />Cuộc tổng tấn công Mậu Thân năm 1968 đã làm Mỹ choáng váng. Ngày 1/3/1968 Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc Manara, một trong các kiến trúc sư của chiến lược chiến tranh Việt Nam thời kỳ này đã phải từ chức vì không tìm thấy lối ra cho cuộc chiến. Ngày 22/3/1968 tướng Westmoreland bị cách chức và triệu hồi về nước. Ngày 25/3/1968 Mỹ đã triệu tập Hội đồng an ninh quốc gia xem xét lại toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam theo đó hàng loạt quyết định xuống thang chiến tranh đã nhanh chóng được triển khai như:<br />* Tăng cường quân ngụy về quân số và vũ khí, nâng cao hiệu lực chiến đấu của chúng, bảo đảm ngăn chặn và đẩy lùi các cuộc tấn công của đối phương.<br />* Ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra.<br />* Tăng cường 13.500 quân Mỹ vào miền Nam. Gọi 48.500 quân trù bị Mỹ.<br />* Bỏ chiến lược quân sự “Tìm và diệt” thay bằng chiến lược “Quét và giữ”. Từng bước thực hiện “Phi Mỹ hóa chiến tranh”, giảm dần sự dính líu trên bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.<br />Ngày 31/3/1968 Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố trên truyền hình toàn Liên bang những quyết định quan trọng bậc nhất của nước Mỹ và của vai trò tổng thống của ông. Đó là những vấn đề về việc ngừng ném bom ở miền Bắc Việt Nam sẽ cử đại biểu đi tìm kiến hòa bình thương lượng với Hà Nội, Mỹ chuyển sang thực hiện: “Phi Mỹ hóa chiến tranh”, quân Sài Gòn sẽ thay quân Mỹ trên toàn chiến trường, sẽ không ra ứng cử tổng thống Mỹ trong nhiệm kỳ tiếp theo.<br />Nhưng đòn đánh bất ngờ dịp Tết Mậu Thân làm cho quân số địch thương vong quá lớn, thiệt hại vật chất, vật tư chiến tranh rất nặng nề. Chỉ mấy tháng đầu năm 1968 có 150.000 quân bị loại khỏi vòng chiến đấu, 34% dự trữ chiến tranh bị phá hủy. Địch thú nhận trong 6 tháng đầu năm 1968 có 101.400 binh lính chết; bị thương hay mất tích, trong đó có 50.387 lính Mỹ. Tính đến cuối năm 1968 ta loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên địch, phá hỏng 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu xuồng chiến đấu; 700 kho đạn; 100 khẩu pháo các loại; diệt và bức hàng, bức rút 15.000 đồn bót, chi khu.<br />Như vậy, đối chiếu những quyết định của tổng thống Johnson tháng 3/1968 với những quyết định của ông tháng 3/1965, thì cơ bản là ý chí xâm lược của Mỹ đã bị lung lay, đường lối chiến lược chiến tranh một lần nữa bị đảo lộn, chiến tranh cục bộ đến đây đã kết thúc thất bại.<br />3. Việt Nam hóa chiến tranh và Liên minh 3 nước Đông Dương chống kẻ thù chung<br />Nửa cuối năm 1968 nước Mỹ diễn ra sự chuyển giao quyền lực giữa 2 Đảng Dân Chủ và Cộng Hòa, giữa hai thế lực hiếu chiến mà tổng thống đương nhiệm Johnson và tân tổng thống Nixơn là những người đại diện. Đó là lúc nước Mỹ đang khủng hoảng về tinh thần, mắc kẹt trong chiến tranh, cấu xé và chia rẽ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã gây ra căng thẳng gay gắt với nước Mỹ không riêng về mặt kinh tế, quân sự mà cản về xã hội cũng như chính trị.<br />Trong khi ấy ở chiến trường miền Nam diễn ra sự đảo thế về quân sự giữa 2 bên chiến tranh. Kẻ thù đã lợi dụng những sai lầm, sở hở của ta trong và sau cuộc Tổng tấn công Mậu Thân để phản kích điên cuồng, chiếm đóng nhiều vị trí của ta ở vùng nông thôn. Chương trình bình định cấp tốc triển khai ồ ạt, địch nhanh chóng có trong tay một hệ thống đồn chốt dày đặc khắp miền Nam làm cơ sở ban đầu cho việc thực hiện những âm mưu bình định sắp tới.<br />Việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cho cách mạng ở miền Nam đến cuối năm 1968 và đầu năm 1969 được triển khai chậm cHạp. Trong khi ấy Mỹ đã chuẩn bị xong chương trình Việt Nam hóa chiến tranh gồm 3 giai đoạn:<br />* Giai đoạn 1: Chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho ngụy quân, rút quân chiến đấu trên bộ của Mỹ làm suy yếu lực lượng cách mạng Việt Nam.<br />* Giai đoạn 2: Chuyển giao nhiệm vụ trên không cho ngụy, làm cho quân ngụy đủ sức đương đầu với lực lượng cách mạng miền Nam, giữ vững được Việt Nam và Đông Dương.<br />* Giai đoạn 3: Hoàn thành và củng cố “Việt Nam hóa chiến tranh”, lực lượng cách mạng miền Nam suy yếu đi và chiến tranh sẽ tàn lụi.<br />Giai đọan 1 là giai đoạn khó khăn nhất, cơ bản nhất và có ý nghĩa quyết định. Bởi vì như Nixơn đã trù liệu: “Nếu việc rút quân Mỹ là phản ánh kết quả của Việt Nam hóa chiến tranh thì bình định là mục đích chính của Việt Nam hóa chiến tranh”. Để thực hiện mục tiêu đó, Mỹ ngụy dự tính cần có 3 bước trong vòng 3 năm (từ tháng 6/1969 đến tháng 6/1972):<br />* Bước 1: Bình định vùng nông dân quan trọng, đẩy chủ lực cách mạng ra xa các đô thị, làm giảm sự tập trung của Quân giải phóng và tăng cường khả năng đối phó của quân ngụy, Mỹ bắt đầu rút quân.<br />* Bước 2: Bình định tất cả vùng nông thôn, giảm tối đa hoạt động của lực lượng vũ trang cách mạng, nguỵ được tăng cường và mạnh lên đủ sức đối phó với tình hình, Mỹ rút được đại bộ phận lực lượng chiến đấu.<br />* Bước 3: Hoàn thành bình định toàn miền Nam, lực lượng cách mạng hoạt động không đáng kể ở nội địa, ngụy đảm đương được vai trò của mình, Mỹ rút hết lực lượng chiến đấu ra khỏi miền Nam.<br />Như vậy, với Việt Nam hóa chiến tranh, quân Mỹ vẫn còn vai trò quan trọng ở chiến trường, là chỗ dựa chủ yếu của quân ngụy, nhưng quân ngụy sẽ phải thay thế và dần dần trở thành lực lượng chủ yếu của chiến tranh. Bình định là một biện pháp chiến lược, là nội dung hoạt động cụ thể của chiến tranh Việt Nam hóa. Mỹ tập trung xây dựng cho ngụy có: nguỵ quân mạnh - ngụy quyền mạnh - bộ máy cảnh sát mạnh - nền kinh tế mạnh, đó là những đảm bảo thành công của Việt Nam hóa chiến tranh; việc mở rộng chương trình bình định là “Chìa khóa thắng lợi”, là con đường dẫn đến những kết quả ấy.<br />Lúc đầu thành công lớn nhất của Tổng thống Nixơn và ê-kíp của ông là điều chỉnh kịp thời chủ trương vội vàng của Tổng thống Johnson “Phi Mỹ hóa chiến tranh”, thành đường lối “Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh”. Việc rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam sẽ phụ thuộc vào khả năng tự tiến hành chiến tranh của ngụy Nam Việt Nam. Thực tế này cũng góp phần hình thành lên những nguyên tắc căn bản cho một học thuyết mới mang tên “Học thuyết Nixơn”, đó là:<br />* Ưu tiên tối đa cho việc đề cao sức mạnh của Mỹ.<br />* Các đồng minh san sẻ trách nhiệm với Mỹ.<br />* Mỹ sẵn sàng thương lượng hòa bình bất cứ ở đâu.<br />Đó cũng là những nội dung cơ bản của “Chiến lược toàn cầu” mới của Mỹ trong những năm kể từ 1969. Nói cách khác, miền Nam Việt Nam là nơi thí điểm đầu tiên của chiến lược toàn cầu mới, Việt Nam hóa chiến tranh là Học thuyết Nixơn trong hành động.<br />Trong thực tế việc rút quân viễn chinh Mỹ ra khỏi Việt Nam là xu thế không thể cưỡng lại được nữa và chính quyền Mỹ buộc phải thực hiện từ tháng 7/1969 (sớm hơn dự kiến trong bước 1 đến tháng 6/1970). Để không gây nên ảnh hưởng đột ngột cho nguỵ, đồng thời thực hiện được việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ dùng lối rút quân nhỏ giọt kết hợp với việc xây dựng nhanh cho quân ngụy đủ mạnh thay thế vào các vị trí của Mỹ trên chiến trường miền Nam. Gần 4 năm (từ tháng 7/1969 đến tháng 3/1973) mới triệt thoái xong hơn nửa triệu quân, thời gian ấy đủ để tăng cường đội quân ngụy Nam Việt Nam từ 700.000 (1969) lên 1.100.000 (1971); lực lượng bán vũ trang từ 1.500.000 người lên 2.000.000 người; vũ khí trang bị vào loại mạnh và hiện đại nhất ở Đông Nam Á với hơn 1.100 máy bay chiến đấu các loại; gần 2.000 xe tăng, xe thiết giáp…<br />Tiếp tục chiến tranh bằng đội quân hùng hậu ấy, Mỹ - ngụy ở miền Nam vẫn cần có 2 yếu tố căn bản tối cần thiết, nền kinh tế ổn định và sự ủng hộ của dân chúng. Viện trợ của Mỹ do đó vẫn giữ vị trí quan trọng số 1 nhưng quá trình này phải tạo ra khả năng tự phát triển cho nền kinh tế. Từ năm 1970 trở đi nhiều biện pháp thúc đẩy nền kinh tế phát triển được thực hiện như tiến hành cơ giới hóa nông nghiệp, tiếp tục thay đổi chính sách ruộng đất bằng “Luật người cày có ruộng”, mở rộng hoạt động công nghiệp, dịch vụ và hoạt động xuất nhập khẩu… Kết quả to lớn của những cố gắng này là miền Nam Việt Nam trở thành địa chỉ đầu tư mới của giới tư bản Mỹ và các nước, mặc dù chiến tranh vẫn tiếp diễn, gánh nặng viện trợ của Mỹ vì thế có thể giảm bớt dần.<br />Để có sự ủng hộ của dân chúng phải tiếp tục chính sách bình định, nhưng phải đặt chính sách này trong khuôn khổ của cuộc “Chiến tranh giành dân”, coi bình định là biện pháp then chốt của Việt Nam hóa chiến tranh. Cơ quan chỉ đạo bình định của Mỹ (MACCORSS) ra đời trên cơ sở thống nhất tư tưởng, phối hợp hành động của các cơ quan MACV, phân cục tình báo CIA, Toà đại sứ Mỹ. Cơ quan an ninh điều hợp của ngụy cũng được thành lập từ Trung ương đến các địa phương.<br />Trước sự phát triển phức tạp của chiến tranh từ sau Mậu Thân, quân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp bộ Đảng, phải trải qua nhiều khó khăn gian khổ và tổn thất để khắc phục những sai lầm, tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Phương hướng chiến lược của chiến tranh của ta trong giai đoạn này là “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn. Những Nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị tháng 11/1968, tháng 4/1969, Nghị quyết Hội nghị BCHTW (khóa 3) lần thứ 18, 19, 20… là những văn kiện quan trọng của Đảng chỉ đạo chiến tranh Cách mạng Việt Nam, chống Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ để giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.<br />Ở miền Bắc, để kịp thời cùng miền Nam “Đánh cho Mỹ cút”, sau khi đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, miền Bắc đã tích cực chi viện toàn diện cho miền Nam. Khối lượng hàng hóa vũ khí vận chuyển đi B ngày càng nhiều. Hàng vạn Thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đã có mặt trên các tuyến vận tải chiến lược và làm đường dẫn xăng dầu từ miền Bắc vào miền Nam. Nhờ đó thực lực cách mạng miền Nam được tăng cường, sức chiến đấu của Quân giải phóng được nâng lên.<br />Năm 1969 mặc dù chiến trường gặp nhiều khó khăn tổn thất nhưng ta vẫn cố gắng mở các đợt tấn công Xuân và Hè. Mặt khác, vừa cố gắng duy trì hoạt động quân sự ta vừa tăng cường thực lực chính trị bằng việc thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (ngày 6/6/1969). Trong lúc đó tại Hội đàm Paris ta đưa ra “Giải pháp toàn bộ 10 điểm” về việc giải quyết hòa bình vấn đề miền Nam Việt Nam, mở đầu cho cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị. Từ đó những sáng kiến thúc đẩy đàm phán do chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Mặt trận giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời đưa ra, cùng với những hoạt động của quân dân ta trên chiến trường, trở thành những đòn tấn công phối hợp rất chặt chẽ với nhau.<br />Ngày 18/3/1970 Mỹ cho tiến hành cuộc đảo chính lật đổ nền trung lập của Campuchia. Sau đảo chính, Mỹ cố dự lên chế độ Lon Non làm tay sai, tàm cách mở rộng chiến tranh xâm lược sang Campuchia.<br />Ngày 29/4/1970 Mỹ ngụy Sài Gòn sử dụng 10.000 quân phiêu lưu đánh sang khu vực phía Đông - Bắc Campuchia, giáp với miền Đông Nam Bộ. Nhưng trong những năm 1970 - 1971, sự phối hợp chiến trường 3 nước Đông Dương đã đạt đến đỉnh cao mới.<br />Tại Hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương ngày 24 và 25/4/1970, Việt Nam - Lào - Campuchia đã ra tuyên bố chung có tính chất cương lĩnh đấu tranh chung và là Hiến chương về quan hệ láng giềng. Các bên cam kết hết lòng ủng hộ lẫn nhau theo yêu cầu của mỗi nước để chống kẻ thù chung giành độc lập, hòa bình, trung lập. Trên cơ sở đó, lực lượng cách mạng 3 nước hình thành một liên minh mới và phối hợp hoạt động ngày càng có hiệu quả.<br />Từ tháng 6/1970 quân dân miền Nam và lực lượng các mạng Campuchia đã phối hợp đánh Mỹ ngụy Sài Gòn, ngụy Phnôm Pênh, cải thiện rõ rệt tình hình ở miền Nam và Campuchia. Mỹ thú nhận chẳng những “Không tìm được bộ chỉ huy Trung ương Cục miền Nam, chỉ có một phần các kho tiếp tế của đối phương bị phá hủy, mà còn bị loại khỏi vòng chiến đấy 7.450 tên ngụy và 2.765 tên Mỹ và ngụy Phnôm Pênh thì không sao mạnh lên được.<br />Cuối tháng 6/1970 Quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu hủy bỏ Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, tước bỏ quyền của tổng thống Mỹ tự do leo thang mở rộng chiến tranh. Nội bộ nước Mỹ tiếp tục bị chia rẽ, làn sóng chống chiến tranh ngày một lan rộng, cuối cùng tổng thống Nixon buộc phải cho kết thúc cuộc chiến đấu trên bộ của Mỹ ở Campuchia.<br />Từ nửa cuối năm 1970 đến nửa đầu năm 1971 cuộc đọ sức giữa Mỹ và các lực lượng thâm Mỹ với quân dân cách mạng 3 nước Đông Dương lại chuyển trọng tâm sang khu vực Nam Lào và khu vực ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia. Địch có 280.000 quân Mỹ, 695.000 quân ngụy Sài Gòn, 120.000 ngụy Phnôm Pênh, 60.000 ngụy Viên Chăn cùng một số lính đánh thuê Thái Lan. Chúng cùng lúc mở 3 hướng tiến công chiến lược bằng 3 cuộc hành quân lớn: Lam Sơn 719, Toàn Thắng 01/71, Quang Trung 4, trong đó hành quân Lam Sơn 719 là quan trọng nhất, vì nó là thử thách quyết định của Việt Nam của Việt Nam hóa chiến tranh.<br />Tuy nhiên địch sẽ đương đầu với lực lượng cách mạng của cả Đông Dương với quyết tâm phải đánh thắng trận này dù có phải động viên sức người sức của và hy sinh to lớn. Lực lượng vũ trang quân đội nhân dân Vệt Nam có nhiệm vụ tập trung lực lượng, kiên quyết tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, bảo vệ bằng con đường chi viện cho các tiền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với nhân dân các nước Lào và Campuchia anh em, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mỹ và tay sai.<br />Cuộc chiến đấu của quân dân Đông Dương đã diễn ra vô cùng ác liệt nhưng cũng đầy những chiến công vang dội, đã đập tan mọi âm mưu thủ đọa của địch trong các cuộc hành quân, tiêu diệt nhiều sinh lực của chúng. Trên mặt trận Đường 9 - Nam Lào ta đã tiêu diệt của ngụy 23.000 tên, phá hủy bắn rơi 500 máy bay, thu gần 600 xe quân sự và 150 khẩu pháo. Cũng tại đây lực lượng tinh nhuệ nhất của quân đội Sài Gòn bị đánh bại, vai trò nòng cốt của nguỵ đồi với Việt Nam hoá chiến tranh bị giáng một đòn mạnh mẽ. Phối hợp với đường 9 Nam Lào, các mặt trận khác trên cả ba nước Đông Dương cũng hoạt động mạnh, gây cho địch nhiều tổn thất lớn cả về sinh lực và tinh thần.<br />Những hoạt động quân sự dồn dập đầu năm 1971 đã tạo ra cơ hội thuận lợi cho phong trào chống phá bình định nông thôn ở miền Nam Việt Nam. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long địch mở chiến dịch kéo dài hơn một năm để “Nhổ cỏ U Minh”, nhưng từ mùa mưa năm 1971 quân dân khu IX đã mở chiến dịch phản công chống bình định của địch. Trong khi đó ở Khu VIII quân dân Mỹ Tho cũng đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá các kế hoạch bình định của giặc … Số ấp địch kiểm soát năm 1971 so với năm 1970 giảm hơn 2.000 ấp, 70% trong số 117 xã được kiểm tra ở Miền Nam là có cơ sở cách mạng hoạt động. Nhìn chung theo nhận định của Trung ương cục tại Hội nghị tháng 10/1971, “Tình hình nông thôn (Nam Bộ) đã vượt qua thời kỳ khó khăn nghiêm trọng nhất”.<br />Kết quả đó diễn ra đồng thời với tình hình đô thị bắt đầu chuyển biến nhanh, đến giữa năm 1971 đã làm xuất hiện nhiều hình thức tổ chức công khai hợp pháp chuẩn bị đưa đấu tranh chính trị ở Miền Nam lên một cao trào mới. Sinh viên học sinh chống quân sự hoá học đường, những cuộc xuống đường của: Phong trào phụ nữ đòi quyền sống, Uỷ ban nhân dân tranh thủ hòa bình, Uỷ ban nhân dân đòi quyền sống, nghiệp đoàn 36 chợ đô thành, những cuộc tổng bãi công của 21 nghiệp đoàn chống thuế lương bổng, phong trào chống bắt thanh niên miền Nam Việt Nam đi làm bia đỡ đạn ở Lào và Campuchia… Đó là những trận đấu tranh rung chuyển phố phường và từ đó một “Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình” đã ra đời từ Sài Gòn lan nhanh khắp các thành thị miền Nam.<br />Thắng lợi to lớn của năm 1971 và khả năng phát triển thuận lợi của cách mạng miền Nam cho phép ta tính toán đến kế hoạch phát triển thế chiến lược tiến công tạo ra bước phát triển nhảy vọt cho cuộc kháng chiến.<br />4. Năm quyết định 1972 và bước ngoặt Hiệp định Paris<br />Đón trước thời điểm chính trị của nước Mỹ năm 1972, Đảng ta tại Hội nghị Bộ Chính trị (tháng 5/1971) đã đề ra chủ trương “Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường… giành thắng lợi quyết định trong năm 1972 buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua”.<br />Với quyết tâm giáng cho địch những đòn mạnh ở cả 3 vùng chiến lược ở miền Nam trong năm bẩu cử tổng thống Mỹ, ta chọn đòn tiến công của chủ lực tiến hành đồng thời trên 3 hướng Trị Thiên - Tây Nguyên - Đông Nam Bộ, phải “hành động bất ngờ và giành lấy thắng lợi cao nhất ”.<br />Cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 đã được gấp rút chuẩn bị từ cuối năm 1971. Ở miền Bắc trong năm 1971 có 150.000 thanh niên gia nhập quân đội đã đưa vào miền Nam 55.000 cán bộ chiến sĩ cùng khối lượng lớn vũ khí trang bị. Các binh khí kỹ thuật mới gồm cả xe tăng, pháo cơ giới, pháp hạng nặng lần đầu tiên được đưa vào chiến trường. Đường 559 đã có 6 tuyến trục dọc trong đó có tuyến đường kín để vận chuyển hành quân cả đêm và ngày. Nhờ vậy ở chiến trường quân giải phóng từ đầu năm 1972 đã có thể chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô tương đương quân đoàn. Ở các chiến trường ta phối hợp với bạn mở một số cuộc tấn công vào các vị trí địch tại cách đồng Chum, Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia; đồng thời đẩy mạnh các hoạt động chống phá bình định ở miền Nam.<br />Địch không bất ngờ trước cuộc tấn công năm 1972 của ta nhưng chúng không phán đoán hết khả năng của ta và quy mô cuộc tiến công. Mặc dù Mỹ - Trung Quốc ký thông báo chung Thượng Hải nhưng với “Quyết tâm không có gì thay đổi” kế hoạch tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 vẫn được ráo riết chuẩn bị. Trưa ngày 30/3/1972 ta bắt đầu nổ súng mở màn thực hiện quyết tâm ấy.<br />Trên hướng chủ yếu là Trị Thiên, những trận hiệp đồng binh chủng đầu tiên của giải phóng đem lại hiệu quả thật to lớn, chọc thủng tuyến phòng ngự vững chắc của địch ở đường 9. Ngày 2/5/1972 tỉnh Quảng Trị lọt vào tay quân giải phóng và sau đó tại đây diễn ra cuộc chiến 81 ngày đêm vô cùng ác liệt giành giật thành cổ Quảng Trị. Trên các hướng phối hợ, những trận tiến công vừa và nhỏ của quân giải phóng dồn dập ập xuống quân Mỹ - ngụy. Ta đã đánh chiếm và giải phóng nhiều địa bàn ở Tây Nguyên, Đông nam Bộ, đồng bằng khu V. Trong khi đó Đồng bằng sông Cửu Long lại phát triển các chiến dịch tấn công tổng hợp, mở ra triển vọng lớn cho phong trào chống phá bình định tại đây.<br />Chỉ 2 tháng tiến công, quân dân miền Nam đã tiêu diệt, là bị thương 32.241 tên địch, loại khỏi vòng chiến đấu 294 tên Mỹ, thu và phá hủy 356 khẩu pháo, 48.515 súng bộ binh, 6.679 máy truyền tin, 63 chiến xa M48 và 140 chiến xa M41, 258 xe M113, 131 xe bọc thép khác, 2.423 xe cơ giới, vừa phá vở hệ thống phòng thủ vòng ngoài của địch ta vừa đưa 10 sư đoàn chủ lực quân giải phóng đứng vững trên địa bàn miền Nam, lực lượng vũ trang 3 thứ quân ở miền Nam đã được bố trí lại trong thế vững chắc. Điều đó khiến cho quân ngụy khó lòng đảo ngược được tình thế đang có lợi cho ta, bất lợi cho chúng, đặc biệt là biện pháp chiến lược bình định nông thôn đến năm 1972 cũng không còn hiệu lực như mấy năm đầu Việt Nam hóa chiến tranh, hơn 1.000.000 dân giành được quyền làm chủ, vùng giải phóng mở rộng.<br />Mỹ bất ngờ với sự chuyển biến nhanh của tình hình và chúng kiên quyết trả đũa cuộc tiến công Xuân - Hè của ta. Đầu tháng 4/1972 Mỹ cho tập trung lực lượng lớn không quân và hải quân gồm 1.400 máy bay chiến đấu; 193 máy bay B52; 65 tàu chiến (bằng 40% máy bay chiến thuật, gần 50% máy bay chiến lược của cả nước Mỹ, 73% tàu chiến của Hạm đội 7), về vùng biển miền Nam và cả các căn cứ ở Thái Lan, phục vụ cho Ngụy phản kích ở miền Nam và gây lại chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.<br />Từ ngày 9/5/1972 Mỹ cho phong tỏa toàn bộ miền Bắc Việt Nam, đợt đầu là 7.0963 quả thủy lôi và sau đó là hàng ngàn quả thủy lôi khác giăng kín bờ biển, các tuyến vận chuyển đường biển đường sông miền Bắc. Quốc hội Mỹ viện trợ bổ sung khẩn cấp cho ngụy Sài Gòn 3 tỷ dollar. Tổng thống Nixon tuyên bố hoãn cuộc hòa đàm ở Paris.<br />Mỗi ngày có từ 300 đến 500 lần chiếc máy bay cường kích và từ 9 - 18 lần chiếc B52 ném hàng ngàn tấn bom xuống tất cả các mục tiêu không phân biệt dân sự hay quân sự. Trong cuộc đánh phá đêm 16/4/1972 ở Hải Phòng, B52 của Mỹ đá giết hại hàng trăm người dân và làm bị thương hơn 1.000 người khác. Nhiều loại vũ khí và kỹ thuật mới của chiến tranh không quân Mỹ lần đầu tiên áp dụng trong cuộc chiến tranh này như máy bay cánh cụp cánh xoè F111, bom có đầu dẫm bằng tia lade, tên lửa điều khiển, máy gây nhiễu điện tử… Mỹ hy vọng đây là biện pháp có tính quyết định chứ không còn là biện pháp hỗ trợ như trước đây nữa để bắt đối phương phải khuất phục và chấm dứt chiến tranh theo ý muốn của Mỹ.<br />Điều bất ngờ là hành động điên cuồng của Mỹ chỉ càng làm cho người Việt Nam thêm căm thù và quyết tâm đánh Mỹ. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng nhanh theo yêu cầu của mặt trận, cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc đã vươn tới đỉnh cao mới. Hàng trăm máy bay hiện đại của Mỹ đã phải bỏ xác ở khắp nơi trên miền Bắc.<br />Ngày 16/4/1972 Hà Nội và Hải Phòng bắn rơi 15 máy bay Mỹ (có 1 B52); ngày 19/4/1972 không quân nhân dân Việt Nam dùng máy bay MIC đánh trọng thương tàu khu trục Mỹ ở ngoài khơi Quảng Bình. Luồng hàng vận chuyển ở miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam vẫn thông suốt, không phải bởi một sức mạnh siêu nhiên nào mà ý chí quyết chiến quyết thắng của những con người không chịu bị khuất phục.<br />Trên mặt trận ngoại giao, theo chủ trương mới của Đảng về đàm phán ở Paris, ngày 8/10/1972 ta chủ động đưa ra dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt nam. Quả nhiên, vấn đề chiến tranh Việt Nam năm 1972 đã trở thành đề tài số một cho cuộc bầu cử tổng thống đang đến gần.<br />Chính quyền Nixon có tham vọng thắng cử, họ chơi lối đánh lừa cử tri và dư luận rằng bằng cách hứa chấp nhận dự thảo Hiệp định và chuẩn bị ký kết Hiệp định hòa bình. Cuối tháng 10/1972, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công khai trước dư luận về diễn tiến đàm phán và thái độ lật lọng của Mỹ về ký kết Hiệp định hòa bình.<br />Cùng lúc ấy là sự chẩn bị những phương án đối phó với âm mưu địch muốn giành thắng lợi quân sự sau khi Nixon thắng cử. Tháng 11/1972, các thành phố lớn ở miền Bắc khẩn trương chuẩn bị cho một thử thách mới. Hàng triệu người dân nhanh chóng rời khỏi thành phố, lưới lửa phòng không tầm thấp, tầm trung, tầm cao sẵn sàng đan lên bầu trời, bộ đội ra đa nêu cao khẩu hiệu “Không để Tổ quốc bị bất ngờ”… Hà Nội và Hải Phòng bước vào tháng cuối cùng của năm 1972 trong tư thế người ra trận, bình tĩnh, tự tin và kiên quyết.<br />Mỹ chủ trương đánh đòn quân sự để ép ta phải nhượng bộ chúng. Ngay sau ngày thắng cửa, Nixon cho đánh phá mạnh ở trong vĩ tuyến 20, ổ ạt tuôn đổ vũ khí và viện trợ cho ngụy đòi ta sửa đổi 120 chỗ trong dự thảo Hiệp định. Ngày 14/12/1972 chính quyền Nixon thông qua kế hoạch mở cuộc tập kích bằng B52 (mật danh là chiến dịch Linebeker II) đánh vào thủ đô Hà Nội.<br />Đêm 18/12/1972 cuộc tập kích chiến lược của chúng bắt đầu. Địch sử dụng 729 lần chiến B52, 1.900 lần chiếc máy bay cường kích đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Mỏ, Kép, Thái Nguyên trong đó quá nửa là đánh thẳng vào thủ đô Hà Nội. Chúng đánh cả ban ngày lẫn ban đêm, trong đó chúng chủ trương mỗi đêm phải có 3 trận, phải đánh dai dẳng và làm cho đối phương hiểu được sức mạnh không tưởng tượng nối của không quân chiến lược Mỹ.<br />Bom Mỹ đã giết hại trong 12 ngày đêm ấy 2.368 người dân và làm bị thương 3.526 người. Trận ngày 26/12/1972 chúng sử dụng 129 lần chiếc B52 trong đó có 105 lần chiếc đánh hơn 100 điểm ở Hà Nội, làm hàng trăm người chết, hàng ngàn người khác bị thương, tại phố Khâm Thiên có 300 người bị sát hại, 2.000 ngôi nhà bị phá sập…<br />Quân dân miền Bắc đã chống trả cuộc tập kích của không quân Mỹ bắt đầu từ 19 giờ 40 phút ngày 18/12/1972 và kép dài suối 12 ngày đêm sau đó. Chưa bao giờ và chưa ở đâu có 1 chiến dịch phòng không như 12 ngày đêm cuối năm 1972 ở miền Bắc; cũng chưa từng có trong lịch sử cảnh tượng B52 của Mỹ cháy rụng đỏ mặt Hồ Gươm. Từ 18/12/1972 đến 24/12/1972 đã có 46 máy bay Mỹ bị hạ, trong đó có 17 B52 và 5 F111, bắt sống 30 giặc lái. Ngày 26/12/1972 chỉ trong 1 giờ chiến đấu hiệp đồng đã hạ 18 máy bay Mỹ, trong số 8 B52 bị bắn rơi có 5 chiếc rơi tại chỗ. Đêm 29/12/1972 Hà Nội đánh trận cuối cùng của chiến dịch và hạ thêm 01 chiếc B52.<br />Trong 12 ngày đêm ấy đã có 81 máy bay không lực Hoa Kỳ nước xác trên ngọn lửa căm thù sục sôi của nhân dân Việt Nam, trong đó có 34 chiếc B52 và 5 chiếc F111. Tính chung cả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2, Mỹ đã bị mất thêm 728 máy bay trong đó có 59 chiếc B52, 137 tàu chiến bị bắn cháy, bắn trúng; hàng trăm giặc lái bị bắt sống hoặc thiệt mạng.<br />Sáng ngày 30/12/1972 Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 và đề nghị nối lại đàm phán ở Paris. Mỹ muốn giáng cho đối phương một đòn quân sự mạnh thì lại gặp một trận “Điện Biên Phủ trên không”; muốn tỏ rõ sức mạnh không thể tưởng tượng nổi của không quân chiến lược Hoa Kỳ thì những biểu tượng của sức mạnh răn đe bị mất uy thế. Tổng thống Nixon vừa tái đắc cử đã bị một trận “phản đòn”, muốn đàm phán trên thế mạnh đã phải trở lại Paris khẩn cấp và chấp nhận tất cả những gì đã chối từ và chấp nhận cả kết quả đàm phán ngoài mong muốn.<br />Chính trong bối cảnh ấy hội đàm Paris bước vào giai đoạn cuối cùng. Ngày 13/1/1973 kết thúc những đợt gặp riêng, ngày 23/1/1973 Hiệp định được ký tắt, ngày 27/1/1973 Hiệp định được ký chính thức, ngày 28/1/1973 Hiệp định bắt đầu có hiệu lực. Hiệp định có 9 chương với 23 điều khoản ghi nhận sự nhân nhượng Việt - Mỹ nhưng cơ bản là nó phản ánh thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam sau 18 năm chống Mỹ cứu nước.<br />Như vậy quyền dân tộc cơ bản và quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam được công nhận, Mỹ phải đơn phương rút quân, chấm dứt mọi dính líu quân sự ở miền Nam Việt Nam và cam kết đền bù chiến tranh cho nhân dân Việt Nam. Đó là kết quả của gần 5 năm đấu tranh đàm phán với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn, hàng trăm cuộc mít - tinh ủng hộ Việt Nam, kể từ ngày 19/5/1968 đến ngày 27/1/1973.<br />Hiệp định Paris được ký kết đã tạo bước ngoặc căn bản cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ta đã “Đánh cho Mỹ cút” và một thời cơ chiến lược đã mở ra cho quân dân ta tiến lên “Đánh cho ngụy nhào” để giải phóng hoàn toàn miền Nam.<br />5. Từ quyết tâm chiến lược Giải phóng miền Nam đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975<br />Ngụy rất sợ cái “thế đã báo” và trạng thái 2 chính quyền 2 vùng kiểm soát, do đó dựa vào sự ủng hộ của Mỹ (nhất là sau hội đàm Nixơn - Nguyễn văn Thiệu tại Xen Clêmenté ngày 3/4/1973), chính quyền và quân đội Sài Gòn chủ trương phá hoại Hiệp định Paris tiếp tục Việt Nam hóa chiến tranh. Ngay khi Hiệp định Paris có hiệu lực, ngụy Sài Gòn đã ồ ạt hành quân lấn chiếm thực hiện cái gọi là “Tràn ngập lãnh thổ”. Trong năm 1973 chúng đã sử dụng 2/3 lực lượng chủ lực (120/188 tiểu đoàn) để cùng với quân địa phương mở 11.365 cuộc hành quân lấn chiếm bình định và 349.67 cuộc hành quân cảnh sát.<br />Quân ngụy đến cuối năm 1973 kể cả “lực lượng dã chiến” và “lực lượng an ninh lãnh thổ” đã có tổng số 710.000 quân máy bay các loại. 1.611 tàu thuyền, tổng số dự trữ vật tư chiến tranh lên tới 1.930.000 tấn. Nhiều kế hoạch hỗn hợp của Mỹ ngụy được hình thành như: kế hoạch Lý Thường Kiệt 1973 - 1975, kế hoạch cộng đồng tái thiết và cộng đồng phát triển địa phương 1973 - 1975, kế hoạch xây dựng quân đội 1974 - 1979, kế hoạch kinh tế hậu chiến 1973 - 1980… Bằng những cách thức đó, Mỹ hy vọng ngụy có đủ khả năng đối phó với tình hình ở miền Nam.<br />Trong khi đó, sau Hiệp định Paris ta dự kiến diễn biến tình hình miền Nam sẽ có 2 khả năng: giữ được hòa bình và chiến tranh trở lại.Bài toán chiến lược của cách mạng Miền Nam sau Hiệp định Paris đã được tìm ra từ sau khi có Hiệp định Genève trước đó 19 năm. Mặc dù vậy Đảng ta tại Hội nghị BCHTW lần thứ 21 (tháng 7/1973) vẫn phải khẳng định lại rằng: “Con đường cách mạng của miền Nam là con đường cách mạng bạo lực. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công”.<br />Đến cuối năm 1973 đầu năm 1974, việc trừng trị địch hành quân bình định lấn chiếm đã trở nên phổ biến, nấht là sau khi có lệnh của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam và đánh trả những hành động chiến tranh của ngụy ở bất cứ đâu với hình thức và lực lượng thích đáng. Từ giữa năm 1974 những hoạt động tấn công mạnh mẽ, làm thất bại các hoạt động bình định của địch và đầy chúng vào thế phòng ngự.<br />Với vai trò là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi, hậu phương miền Bắc từ sau Hiệp định Paris cũng đứng trước những yêu cầu cấp bách về hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, chi viện đáp ứng yêu cầu của chiến tranh cách mạng ở miền Nam trong giai đoạn cuối. Chi viện quốc tế những năm 1973 - 1975 giảm nhanh, vì thế miền Bắc càng phải có trách nhiệm to lớn hơn lúc nào hết đối với miền Nam.<br />Đến năm 1974 miền Bắc đã đạt và vượt mức năm 1965 và 1971 trên nhiều lĩnh vực, nhờ vậy nền kinh tế - xã hội miền Bắc đã được ổn định. Việc huy động sức người sức của cho tiền tuyến là mối quan tâm lớn của nhân dân miền Bắc.<br />Những năm 1973 - 1975 đã có gần nửa triệu thanh niên nhập ngũ, năm 1973 - 1974 miền Bắc đã tăng viện cho miền Nam 263.691 cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang. Hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ, công nhân, thanh niên xung phong đã tăng cường cho việc nâng cấp đường vận tải chiến lược 559, mở rộng từ Tây Trường Sơn sang Đông Trường Sơn. Hàng vạn các loại xe ngày đêm vận chuyển, nối miền Bắc hậu phương với các căn cứ địa ở khu V, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, các quân đoàn chủ lực lần lượt ra đời: QĐ II (17/5/1973), QĐ I (24/10/1973), QĐ IV (20/7/1974), QĐ III (27/3/1975). Các lực lượng quân binh chủng và các lực lượng cơ động trực thuộc bộ được xây dựng. Các hoạt động huấn luyện, diễn tập được tổ chức thường xuyên. Chiến trường miền Nam tăng nhanh thực lực, chuẩn bị bước vào những hoạt động tạo thế, tạo thời cơ.<br />Những trận đánh của quân giải phóng ở Thượng Đức, Minh Long, Măng Bút, Măng Đen, Đông Xoài… Vào nửa cuối năm 1974 chứng tỏ rằng địch không còn khả năng chiếm giữ và ta có khả năng giải phóng các chi khu, quận lỵ. Những tín hiệu tại nước Mỹ sau khi Nixon từ chức (9/8/1974) càng làm cho ngụy hoang mang rệu rã. Từ tháng 10/1974, các đô thị miền Nam nhất là Sài Gòn đã bùng lên cao trào đấu tranh chính trị. Chế độ Thiệu đòi Thiệu từ chức.<br />Thời cơ thuận lợi cho việc giải phóng miền Nam kết thúc hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đến. Từ 30/9/1974 đến 8/10/1974 Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 1) đã được triệu tập để hoạch định kế hoạch 2 năm giải phóng miền Nam. Nhiệm vụ trung tâm trước mắt của nhân dân ta ở cả nước lúc này là: “Động viên những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả 2 miền mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân Ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, dành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn toàn Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà”. Với quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976, một kế hoạch chiến lược do Bộ Tổng tham mưu đề ra gồm 2 bước:<br />* Bước 1 (1975): Mở những cuộc tiến công chiến lược, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng các vị trí chiến lược quan trọng của ta.<br />* Bước 2 (1976): Tổng công kích, tổng khời nghĩa, giải phóng toàn miền Nam.<br />Từ ngày 8/12/1974 đến 8/1/1975 Hội nghị Bộ chính trị mở rộng (đợt 2), đã phân tích cụ thể thời cơ lịch sử và khả năng thực tế của ta và địch. Hội nghị nhận định “Cả năm 1975 là thời cơ, đòn tiến công quân sự mạnh tạo nên thời cơ, phong trào chính trị thúc đầy thời cơ chính trị thúc đầy thời cơ… cần phải khẩn trương, phải đánh nhanh hợn, nếu có thời cơ mà không kịp thời phát hiện, bỏ lỡ thì có tội lớn đối với dân tộc” và “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.<br />Ngay sau đó, chiến thắng Phước Long ngày 6/1/1975 đã kiểm nghiệp trực tiếp những nhận định kết luận của Hội nghị lịch sử này. Với chiến thắng giải phóng hoàn toàn 01 tỉnh đầu tiên của miền Nam, cả nước bước vào mùa Xuân đại thắng.<br />Với phương châm và tư tưởng chỉ đạo “Mạnh bạo, chắng thắng, chủ động, cơ động, linh hoạt bí mật, bất ngờ”, chiến dịch Tây Nguyên đã được tiến hành mở đầu cho việc thực hiện quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Tháng 2/1975 Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên được thành lập, hai sự đoàn Quân Giải Phóng Miền Nam (Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320A) ăn Tết đón xuân Tân Mão ngay tại Tây - Nam thị xã Buôn Mê Thuột.<br />Lúc đó địch ở cả Sài Gòn lẫn Tây Nguyên đều nhất trí cho rằng, năm 1975 ta đánh mạnh hơn năm 1974 nhưng không như năm 1968 và không bằng năm 1972. Chúng cho rằng ta chưa có khả năng đánh thị xã lớn hoặc đánh thành phố và trọng điểm hoạt động là Nam Bộ, thời gian hoạt động là từ sau Tết Nguyên Đán đến trước mùa mưa sẽ dừng lại nghỉ, do đó địch không cần thay đổi bố trí chiến lược.<br />Ngày 10/3/1975 trận tấn công đánh chiếm thị xã Buôn Mê Thuột bắt đầu. Sau 33 giờ chiến đấu hiệp đồng binh chủng, trưa ngày 11/3/1975 ta hoàn thành thắng lợi trận đánh. Đòn đánh điểm huyệt ở Buôn Mê Thuột đã đưa địch từ sai lầm này đến sai lầm khác, kéo theo hàng loạt những sụp đổ của địch trên cao nguyên chiến lược này.<br />Trong cơn “choáng váng và hãi hùng”, ngày 14/3/1975 nguỵ Sài Gòn quyết định rút bỏ Tây Nguyên, từ ngày 16/3 đến ngày 18/3/1975 Quân đoàn II ngụy thực hiện cuộc rút lui chiến lược nhưng bị đuổi đánh tơi bời. Từ ngày 17/3 đến ngày 25/3/1975 ta quét sạch địch và giải phóng hoàn toàn 6 tỉnh Tây Nguyên, sau đó truy đuổi địch và giải phóng các tỉnh duyên hải từ Phú Yên đến Khánh Hòa. Việc kết thúc thắng lợi chiến dịch đầu tiên không những khẳng định khả năng ta giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến, mà còn cho phép ta khẳng định khả năng thực thế giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.<br />Khi chiến dịch Tây Nguyên đang tiến triển thì một chiến dịch khác được hình thành trên 8 tỉnh miền Trung Trung Bộ. Vừa tạo thế bất ngờ cho chiến dịch tây Nguyên và phối hợp với Mặt trận Tây Nguyên, quân dân Trị Thiên và khu V đã thực hiện chiến dịch Xuân - Hè tiến công vây ép địch ở nhiều nơi trong Quân khu I và vùng chiến thuật I của chúng. Khi địch ở Tây Nguyên rút bỏ vị trí chiếm đóng thì địch ở Quảng Trị cũng có ý đồ co cụm về Huế và Đà Nẵng. Thừa cơ đó quân dân Trị Thiên đẩy mạnh tiến công. Ngày 19/3/1975 ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn Thừa Thiên Huế.<br />Ngày 21/3/1975 ta bước vào chiến dịch tấn công Huế, địch vội vàng rút bỏ Huế để giữ Đà Nẵng, tướng ngụy Ngô Quang Trưởng choáng váng mất tinh thần xin từ chức, Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu khẩn khoản xin Mỹ chi viện trực tiếp nhưng Tổng thống Mỹ Ford im lặng. Ngày 26/3/1975 ta giải phóng Huế, ngày 19/3/1975 ta tiêu diệt hoàn toàn căn cứ liên hợp Đà Nẵng, gần 10 vạn binh lính ngụy ở đây cùng với lực lượng địch từ các nơi khác dồn về đã bị đánh tan tành.<br />Cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân Trị Thiên khu V đã phát triển nhanh như vũ bão, quét sạch địch ở các địa phương, giải phóng hoàn toàn một dải miền Trung nối liền với miền Bắc và Tây Nguyên. Thắng lợi to lớn và nhanh chóng ở miền Trung cùng với Tây Nguyên đã cho phép ta chuyển nhanh cuộc tiến công chiến lược sang Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam.<br />Thời cơ nối tiếp thời cơ, chiến dịch mở ra chiến dịch, Hội nghị Bộ Chính trị ngày 31/3/1975 xác định “Từ giờ phút này trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu”. Các nghị sỹ Mỹ theo dõi tình hình miền Nam quả quyết, đã quá muộn để làm bất cứ việc gì nhằm lật ngược tình thế ở Nam Việt Nam. Ngày 1/4/1975 chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu được chuẩn bị theo tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” với tốc độ “một ngày bằng 20 năm”. Ngày 14/4/1975 Bộ Chính trị phê chuẩn đề nghị của bộ chỉ huy chiến dịch đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, phương án chiến dịch được thông qua lần cuối.<br />Như một bức tranh hoành tráng, xe pháo và tàu thuyền đủ loại, bộ đội và dân quân du kích, dân công và Thanh niên xung phong những ngả đường tấp nập…, cả dân tộc từ Bắc chí Nam đang hành quân, hậu phương đang dốc toàn lực ra tiền tuyến, nửa miền Nam vừa được giải phóng cũng góp sức vào chuẩn bị giải phóng nửa còn lại. Đầu tháng 4/1975 Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị cho quốc dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ (B2) hãy “táo bạo đánh các điểm then chốt… khi có thời cơ”.<br />Ngày 8/4/1975 ném bom Dinh Độc Lập ngày 9/4/1975 đánh Xuân Lộc, ngày 16/4/1975 đập tan phòng tuyến Phan Rang, ngày 17/4/1975 Phnôm Pênh giải phóng, ngày 18/4/1975 Tổng thống Mỹ Ford ra lệnh di tản người Mỹ khỏi Việt Nam, ngày 20/4/1975 Mỹ cuộc Thiệu từ chức, ngày 23/4/1975 Mỹ tuyên bố chiến tranh kết thúc, không thể giúp ngụy Nam Việt Nam, ngày 24/4/1975 Mỹ đề nghị Tổng thống nguỵ Trần Văn Hương đề nghị ngưng bắn… Tất cả các diễn biến dồn dập ấy diễn ra cùng lúc với 5 cánh quân gồm 270.000 người và 180.000 người khác phục vụ chiến dịch đang từng bước chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công vào Sài Gòn.<br />17 giờ ngày 26/4/1975 cuộc tổng công kích đánh chiếm Sài Gòn bắt đầu, các mục tiêu tấn công ngập chìm trong bão lửa. Mỹ vội vàng mở chiến dịch “người liều mạng” để di tản. Các tướng tá ngụy từ các sư đoàn bị đánh tơi tả, kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng, kẻ tự sát, kẻ cởi quân phục lẩn trốn vào đám tàn quân. Tổng thống ngụy muốn xin “bàn giao chính quyền”, các đại diện Mỹ Pháp tìm kế hoãn binh… Nhưng tất cả đã không thể ngăn cản được sức tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng trong “trận đánh cuối cùng” để kết thúc chiến tranh 30 năm.<br />11 giờ 30 ngày 30/4/1975 chiếc xe tăng biển số 843 của Quân đoàn II đã húc đổ cách cổng sắt Dinh Độc Lập, tiến vào cắm lá cờ giải phóng lên Dinh tổng thống ngụy quyền. Dương Văn Minh phải đầu hàng không điều kiện.<br />Cùng lúc đó đồng bằng sông Cửu Long cuộc sóng tấn công và nổi dậy. Trong ngày 30/4/1975 tiến công nổi dậy thắng lợi ở Kiến Phong, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Hà Tiên, Long An. Ngày 1/5/1975 các tỉnh Vĩnh Long, Chương Thiện, Cà Mau, Long Xuyên, Châu Đốc, Bến Tre, Kiến Tường và Côn Đảo, Phú Quốc được giải phóng. Đến ngày 2/5/1975 miền Nam Việt Nam từ đất liền đến hải đảo hoàn toàn giải phóng, Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc toàn thắng.<br />Ngày 15/5/ 1975 từ Hà Nội đến Sài Gòn và khắp các địa phương của Tổ quốc thống nhất, hàng chục triệu người trong những cuộc mít - tinh khổng lồ mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng đã vang lên khúc ca khải hoàn “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”.<br />Hơn 50 ngày thần tốc, cuộc tổng tấn công nổi dậy mùa Xuân 1975 đã đại thắng. Hơn 1 triệu quân ngụy bị tiêu diệt và ta rã ngay trên hệ thống thiết bị chiến trường của chúng. Ngụy quyền từ trung ương đến các địa phương sụp đổ hoàn toàn. Chế độ thực dân mới dày công xây dựng trong 20 năm bị xóa bỏ. Toàn bộ miền Nam từ đất liền đến hải đảo hoàn toàn giải phóng.<br />*<br />* *<br />Như Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổng kết ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc thắng lợi: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của Chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.<br />Kết thúc cuộc kháng chiến 21 năm nhân dân ta cũng kết thúc quá trình 30 năm chiến tranh cách mạng, chấm dứt hơn 1 thế kỷ bị thực dân đế quốc thống trị. Non sông thu về một mối, Nam - Bắc sum họp một nhà trong độc lập tự do. Truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường của dân tộc lại ghi thêm những trang sử mới oanh liệt và hào hùng.<br />Kết thúc một cuộc chiến tranh lâu dài nhất, tốn kém nhất, quy mô nhất, ác liệt dã man nhất kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Mỹ bị đảo lộn chiến lược toàn cầu và bước vào “thời kỳ sau Việt Nam” thật nặng nề. Trong lúc ấy một nước Việt Nam thống nhất ra đời cái tên mới “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” và bước vào thời kỳ xây dựng đất nước như nguyện ước của Bác Hồ “to đẹp hơn, đàng hoàng hơn”.<br />Ra khỏi một cuộc chiến tranh có tính chất “cuộc đụng đầu lịch sử”, cả Việt Nam và Mỹ đều phải chịu nhiều tổn thất to lớn. Chỉ tính về con người trong cuộc chiến này, theo số liệu thống kê của Đảng ta, Mỹ có 57.692 người chết, 300.000 người bị thương, 100.000 người bị tàn tật; Việt Nam có 1.100.000 liệt sĩ, 600.000 thương binh, 300.000 người mất tích, gần 2.000.000 người dân vô tội bị giết hại, 2.000.000 người dân khác bị tàn tật, 2.000.000 bị nhiễm chất độc hóa học…<br />Hậu quả chiến tranh nặng nề không dễ dàng khắc phục. Làm sao mà quên được những mất mát đau thương. Nhưng lịch sử cũng nhắc nhở ta rằng phải giữ lấy quá khứ ở phía sau khi nhìn về phía trước. Đó là cách tốt nhất để lưu giữ “thời đánh Mỹ” vào ký ức dân tộc.</span>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.comtag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-39051540496181968502007-08-04T08:56:00.000-07:002007-08-04T09:00:51.600-07:00LICH SU VIET NAM (1945 - 1954)<span style="font-family:times new roman;"><strong>VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954)<br /><br />I. TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN II<br />1. Những thuận lợi và khó khăn của nền kinh tế - xã hội và quá trình củng cố xây dựng chính quyền mới sau Cách Mạng Tháng Tám<br /></strong>Sau Cách Mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cùng lúc phải đối phó với muôn vàn khó khăn phức tạp. Nền kinh tế đất nước sau gần một thế kỷ bị chủ nghĩa thực dân kìm hãm và phải phục vụ chiến tranh đế quốc, đã trở nên xơ xác tiêu điều. Đồng ruộng hoang hóa, thiên tai liên miên làm cho nông nghiệp mất mùa liên tục. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp bị đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giao thông ách tắc, tài chính trống rỗng… Nạn thất nghiệp gia tăng ở cả thành thị và nông thôn, đặc biệt là nạn đói ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ tiếp tục đe dọa hàng triệu người. Đất nước có hơn 90% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội lan tràn, đời sống vật chất và tinh thần của người dân vô cùng thấp kém. Cái đói và cái dốt tích tụ từ bao năm đang kìm hãm cả dân tộc vừa giành được chính quyền về tay nhân dân. Nền Dân Chủ Cộng Hòa Việt Nam đang rất cần điều kiện hòa bình để củng cố xây dựng.<br />Đã vậy thù trong giặc ngoài lại đang có mặt khắp nơi trên đất nước. Lực lượng Đồng minh gồm hàng chục vạn quân kéo vào Việt Nam ngay khi cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta vừa giành được thắng lợi. Ở phái Bắc, được Mỹ cho phép, 20 vạn quân Tưởng tràn sang với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp phát xít Nhật, nhưng chúng lại nuôi dã tâm tiêu diệt Đảng Cộng Sản Đông Dương, phá tan Việt Minh và lật đổ chính phủ Hồ Chí Minh. Ở phía Nam quân Anh cũng sớm bộc lộ ý đồ giúp Pháp lập lại chế độ thuộc địa trên bán đảo Đông Dương. Quân Nhật trước khi buộc phải rời khỏi Đông Dương cũng ra sức phục thù cách mạng Việt Nam. Quân Pháp tranh thủ tăng cường lực lượng và đánh chiếm mở rộng địa bàn xâm lược trước khi quân Đồng minh rút khỏi Đông Dương. Lợi dụng vòng vây đế quốc đang rình rập cách mạng, bọn phản động trong nước nổi lên hoặc từ bên ngoài kéo về hoạt động gây rối, phá hoại, nhất là bọn phản dân hại nước trong tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách Mạng Đảng (Việt Cách) thù trong giặc ngoài đã cùng xuất hiện với nhiều bộ mặt và nhiều mưu mô thủ đọan khác nhau, nhưng nếu có chung một mục tiêu là bóp chết Chính quyền cách mạng còn non trẻ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thủ tiêu cuộc Cách mạng giải phóng do Đảng Cộng Sản Đông Dương đang tổ chức lãnh đạo.<br />Những khó khăn phức tạp về kinh tế xã hội cùng với nạn thù trong giặc ngoài ập đến, gây áp lực lớn đối với nền dân chủ cộng hòa còn trứng nước. Vận mệnh của dân tộc đang đứng trước thử thách nghiêm trọng khác nào “ngàn cân treo sợi tóc”. Sự lựa chọn chỉ có thể là hoặc tiếp tục con đường cách mạng hoặc đầu hàng. Tuy lúc ấy không ai chọn con đường thứ hai, nhưng phải tiếp tục con đường cách mạng như thế nào để đưa con thuyền Cách mạng Việt Nam ra khỏi thác ghềnh?<br />Ngày 3/9/1945, ngay sau khi mừng độc lập Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị thực hiện 6 biện pháp cấp bách: phát động phong trào tăng gia sản xuất và mở lạc quyên cứu đói, mở phong trào chống nạn mù chữ, tổ chức ngay cuộc tổng tuyển cử tự do dân chủ, mở phong trào giáo dục cần kiệm liêm chính, bài trừ hủ bại, bỏ ngay 3 thứ thuế vô nhân đạo (thuế thân, thuế chợ, thuế đò) và cấm hút thuốc phiện, tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết. Đây vừa là đòn tấn công đầu tiên của chính quyền mới, vừa là chính sách kinh tế xã hội đầu tiên của chế độ Dân Chủ Cộng Hòa Việt Nam.<br />Lòng tin của chính quyền cách mạng đối với nhân dân đã khơi dậy tình nhân ái, lòng ái quốc của hàng triệu đồng bào. Từ đó hàng loạt sắc lệnh của chính phủ, chủ trương của Đảng và Mặt Trận Việt Minh được nhanh chóng thi hành, biến thành hành động cách mạng thiết thực. Việc chống giặc đói và giặc dốt phục hồi nền kinh tế đất nước đã thu được những kết quả ban đầu khả quan: các cuộc “Lạc quyên cứu đói”. “Tuần lễ vàng” được tổ chức khắp nơi; toàn dân tăng gia sản xuất và Chính quyền cách mạng cách địa phương đã chia lại ruộng công, tạm gai tạm cấp ruộng hoang hóa và ruộng vắng chủ cho người thiếu ruộng; chế độ ngày làm 8 giờ được áp dụng, quan hệ chủ thợ được quy định lại; đồng tiền Việt Nam (tiền cụ Hồ) được phát hành, quỹ đảm phụ Quốc phòng được thành lập; phong trào “Bình dân học vụ” được phát động đã lôi cuốn hàng triệu người hiếu học muốn thoát nạn mù chữ; mùa khai trường đầu tiên của tuổi trẻ nước Việt Nam mới được tổ chức ngay sau ngày mừng độc lập; tiếng Việt được quy định sử dụng làm ngôn ngữ chính thức trong giảng dạy, học tập và trong các hoạt động chính trị xã hội; cuộc vận động xây dựng nếp sống mới đời sống văn hóa mới đã dấy lên ở cả thành thị và nông thôn… Bao công việc thật bề bộn nhưng mọi người đã hăm hở thực hiện, với ý thức làm chủ vận mệnh của mình trên một đất nước đã có tự do độc lập.<br />Việc xây dựng một nhà nước pháp quyền cũng được tổ chức khá sớm. Ngày 6/1/1946 cuộc Tổng tuyển cử tự do đầu tiên trong lịch sử dân tộc được tiến hành trên phạm vi cả nước. Nhiều nơi có 100% cử tri đi bầu: Hồ Chủ tịch trúng cử ở Hà Nội với số phiếu bầu cao nhất (98,4%); ở cả Nam Bộ có 42 cán bộ hy sinh cho thắng lợi của cuộc bầu cử. Ngày 2/3/1946 Quốc hội khóa I họp phiên đầu tiên. Quốc hội đã giao cho Cụ Hồ Chí Minh lập chính phủ mới. Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã được thông qua tại kỳ họp thứ II Quốc hội khóa 1 (từ ngày 28 /10 đến 8/11/1946). Ở các địa phương, cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp cũng được tổ chức. Từ đây một hệ thống chính quyền hợp hiến, hợp pháp được kiện toàn từ trung ương đến địa phương. Giữa hai kỳ họp Quốc hội khóa 1, ở Việt Nam có tồn tại một chính phủ Liên hiệp; những sự liên hiệp ấy thiếu nhiều cơ sở chính trị và xã hội để tồn tại… Đến đầu tháng 11/1946, Chính phủ Liên hiệp hoàn toàn tan vỡ. Một nhà nước của dân, do dân và vì dân trở lại trong sạch với uy tín ngày một cao, toàn tâm, toàn ý cho dân tộc.<br />Trong năm 1946 nhiều hoạt động chính trị xã hội được tiến hành để tăng cường thực lực cách mạng. Các Hội Cứu Quốc, thành viên của Mặt Trận Việt Minh được phát triển nhanh chóng, tháng 5/1946 Mặt Trận Liên Việt được thành lập. Tháng 7/1946 Đảng Xã Hội Việt Nam ra đời. Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam và sau đó Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam ra đời. Tháng 11/1946 Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được triệu tập… Chỉ trong vòng 1 năm sau Cách Mạng Tháng Tám thành công, các tổ chức đảng phái yêu nước, các đoàn thể quần chúng nhân dân đã được tập hợp thống nhất dưới ngọn cờ cách mạng của Đảng Cộng Sản và Chính phủ Hồ Chí Minh, tất cả đều hướng đến một mục tiêu chung: xây dựng nền hòa bình dân chủ Việt Nam, kiến thiết độc lập tự do cho dân tộc.<br />2. Vừa chống thù trong giặc ngoài, vừa chuẩn bị cho cuộc chiến tranh không tránh khỏi<br />Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, đất nước có nhiều loại kẻ thù như lúc này và cũng chưa bao giờ ta phải tung ra cùng lúc nhiều “ngón nghề trí tuệ” như thế để chống thù trong giặc ngoài.<br />Hàng loạt các đối sách vừa linh hoạt mềm dẻo vừa cương quyết cứng rắn đã được ứng dụng từ tháng 8/1945 đến cuối năm 1946. Đối với quân Nhật, trước khi chúng bị giải giáp ra khỏi Đông Dương, ta nhanh chóng giành lấy chính quyền từ tay chúng; sau đó tuỳ theo thái độ của chúng để hoặc là tạo thuận lợi cho chúng về nước hoặc dùng hành động cưỡng chế với chúng.<br />Đối với quân Đồng minh Anh lúc đầu ta đón tiếp thân thiện, nhưng khi họ giúp Pháp đánh chiếm Nam Bộ thì ta cật lực phản đối và có hành động kiên quyết.<br />Đối với quân Tưởng có rất nhiều tham vọng chính trị thâm độc, ta vừa thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc đối với chúng, vừa có hành động kiên quyết với bọn tay sai của chúng. Khi Tưởng và Pháp giàn xếp với nhau để đưa quan Pháp ra Bắc, ta lại tập trung vào việc đuổi nhanh quân Tưởng về nước.<br />Đối với quân Pháp đang có dã tâm lập lại chế độ thuộc địa, ta đánh phủ đầu chúng ở Nam Bộ, sau đó hòa hoãn với chúng để tranh thủ thời gian chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi. Đối với bọn tay sai thân đế quốc, ta vừa tranh thủ phân hóa, cô lập chúng, vừa có hành động kiên quyết, vạch mặt chúng, trấn áp chúng.<br />Đến cuối tháng 12/1946 về cơ bản những âm mưu thâm độc của kẻ thù đối với Cách mạng Việt Nam đều không thực hiện được; các loại thù trong giặc ngoài bị loại dần chỉ còn lại một mình thực dân Pháp đối chọi với Việt Nam. Tuy quân xâm lược Pháp đã chiếm hầu hết Nam Bộ và nhiều nơi ở Lào, Campuchia, chúng lại đã có mặt ở Sơn La, Lai Châu. Với Hiệp ước Pháp - Tưởng ở Trùng Khánh ngày 28/2/1946, quân Pháp được hợp pháp hóa việc đem quân vào Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Cuộc chiến tranh Pháp - Việt đứhg trước nguy cơ bùng nổ trên phạm vi toàn quốc vào đầu tháng 3/1946.<br />Đánh hay hòa? Dựa hẳn vào sự ủng hộ của nhân dân đối với chính phủ, bằng nhạy bén chính trị và tài mưu lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã chọn việc tạm hòa hoãn với Pháp nhằm tranh thủ hòa bình để chuẩn bị thêm cho một cuộc chiến tranh khó tránh khỏi.<br />Ngày 6/3/1946 bản Hiệp định Sơ Bộ giữa Việt Nam và Pháp được ký kết, Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp ra Bắc thay quân Tưởng và Pháp phải mở đàm phán với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bằng cách hợp pháp hóa sự chiếm đóng của kẻ thủ ở miền Bắc, Chính phủ Hồ Chí Minh đã chấp nhận một bước lùi để có thể thực hiện được những bước tiến mới vô cùng quan trọng.<br />Ngày 24/3/1946 Cao ủy Pháp ở Đông Dương D’Argenlieur mời Chủ tịch Hồ Chí Minh đàm thoại ở Vịnh Hạ Long. Từ ngày 19/4 đến ngày 10/5/1946 đàm phán trù bị Việt - Pháp ở Đà Lạt, sau đó từ ngày 16/7 đến 14/9/1946 đàm phán chính thức Việt - Pháp ở Pontainebleau và ký bản Tạm Ước mới. Ngày 16/4/1946 phái đoàn Quốc hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm Quốc hội Pháp ngày 31/5/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách thượng khách của nước Pháp sang thăm chính phủ và nhân dân Pháp.<br />Những hoạt động ngoại giao của đoàn quốc hội Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp cùng với việc ký bản Tạm Ước Pháp - Việt, đã có ý nghĩ to lớn về chính trị. Nó góp phần làm cho dư luận trong và ngoài nước, trước hết là ở Pháp thấy rõ thiện chí hòa bình của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ý nguyện tự do độc lập và thực sự không muốn chiến tranh của nước Việt Nam mới.<br />Với những âm mưu kiên quyết đánh chiếm Việt Nam và lập lại chế độ thuộc địa, thực dân Pháp tìm mọi cách trì hoãn cuộc đàm phán, phá hoạt mọi điều họ ký kết. Từ cuối năm 1946 thực dân Pháp đã ráo riết chuẩn bị cho một cuộc vũ trang xâm lược trên toàn cõi Đông Dương, chúng âm mưu tiến hành đánh úp ta ở Hà Nội để buộc chính phủ Hồ Chí Minh phải đầu hàng.<br />Ngày 20/11/1946 quân Pháp đánh Hải Phòng và Lạng Sơn. Đầu tháng 12/1946 Pháp cho đổ thêm quân vào Đà Nẵng và liên tục khiêu khích ta ở Hà Nội. Ngày 16/12/1946 D’Argenlieur đòi khôi phục lại Hiệp ước năm 1883 và 1884 trong lúc Valuy triển khai kế hoạch đánh chiếm Bắc Bộ. Ngày 17/12/1946 quân Pháp tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội. Ngày 18 và sáng 19/12/1946 Pháp đưa ra 3 tối hậu thư đòi ta phải đầu hàng… Thực dân Pháp đã chọn con đường chiến tranh với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.<br />Như vây, 16 tháng sau ngày Cách Mạng Cách Mạng Tháng Thành công, khó khăn phức tạp của tình hình đất nước tưởng như không thể vượt qua được, còn chiến tranh vẫn không tránh khỏi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thực chất của tình trạng ấy “chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng thực dân dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Đó cũng chính là lý do chính đáng nhất để nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ.<br />II. KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC BÙNG NỔ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN KIẾN QUỐC (1946 - 1953)<br />1. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ<br />Chính phủ Hồ Chí Minh từ ngay sau ngày giành được độc lập đã ý thức được âm mưu chiến tranh của thực dân Pháp ở Đông Dương. Vì thế cuộc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến bảo vệ thành quả Cách Mạng Tháng Tám đã được tiến hành song với việc củng cố xây dựng chính quyền mới.<br />Ở Nam Bộ sau ngày 23/9/1945 việc xây dựng lực lượng mọi mặt đã được thực hiện khẩn trương. Xứ ủy Nam Bộ hợp nhất ngày 15/10/1945 từ các nhóm Tiền Phong vàGiải Phóng được củng cố đến giữa năm 1946 thành lập Xứ ủy lâm thời mới. Ủy ban hành chính Nam Bộ chuyển thành Ủy ban kháng chiến Nam Bộ. Các căn cứ địa hình ở Đông Nam Bộ, Đồng Tháp Mười, U Minh, khu 7 xây sựng 16 chi đội vũ trang và nhiều Ban công tác, đội Cảm tử, Công an xung phong. Khu 8 và khu 9 ra sức xây dựng bộ đội du kích củng cố các đơn vị chiến đấu đã có. Chiến tranh du kích từ giữa năm 1946 trở đi đã lan rộng khắp Nam Bộ và Trung Bộ, Trung Trung Bộ, Tây Nguyên.<br />Tại Bắc Bộ ta tranh thủ xây dựng lực lượng cho cả nước. Từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1946 có thêm 50.000 thanh niên đầu quân. Các chi đội Nam Tiến được hình thành và đi vào chiến trường, các địa phương đều xây dựng lực lượng dân quân du kích. Ủy ban kháng chiến toàn quốc được thành lập, sau đó được đổi thành Quân sự ủy viên hội. Các cơ quan Bộ quốc phòng và quân ủy trung ương được thành lập. Các trường quân sự, trường võ bị ở Bắc Sơn. Sơn Tây, Quảng Ngãi khẩn trương đào tạo cán bộ quân sự. Cả nước chia thành 12 chiến khu. Đến cuối năm 1946 ta có lực lượng 12.000 bộ đội chính qui, hàng chục vạn quân địa phương được triển khai ở khắp nơi và sẵn sàng chiến đấu. Các phương án tác chiến được xây dựng. Đồng thời ở Bắc Bộ ta lần lượt trừng trị bọn phản động. Ngày 12/7/1946 ta khám phá và đập tan âm mưu đảo chính của bọn Quốc Dân Đảng. Tháng 11/1946 ta giải phóng các tỉnh trung du, thượng du khỏi ách chiếm đóng của bọn Tưởng và tay sai…<br />Tháng 12/1946 khi cuộc chiến tranh nhất quyết sẽ xảy ra, cả Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và thực dân Pháp đều đã sẵn sàng hành động. Pháp dự tính bằng lực lượng đã có sẽ đánh chớp nhoáng vào các cơ quan đầu não của ta ở Hà Nội, tiêu diệt bộ đội Việt Minh, đánh chiếm các thành phố lớn, buộc chính phủ Hồ Chí Minh đầu hàng và kết thúc chiến tranh. Quân xâm lược Pháp đã đẩy ta vào tình huống phải đối phó với những hành động khiêu khách gây hấn của chúng và hạn tối hậu thư đòi ta đầu hàng. Nhưng cuối cùng chúng lại bị bất ngờ trước cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ của quân dân ta.<br />Lúc 20 giờ ngày 19/12/1946 lệnh toàn quốc kháng chiến đã phát đi ở Hà Nội pháo binh thủ đô đã nã đại bác vào các vị trí chiếm đóng của địch, chiến lũy dựng lên, loa phát thanh kêu lên lời kêu gọi Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu là nô lệ”. Cuộc chiến đấu 60 ngày đên từ 19/12/1946 đến 17/2/1947 ở thủ đô Hà Nội diễn ra thật hào hùng như thuở nào giữa thành Hà Nội năm 1873 và năm 1882. Lịch sử hiện đại của Thủ đô Hà Nội ghi giữ những hình ảnh thật cảm động: chính trị viên đại đội Lê Gia Đính đập bom diệt cả tiểu đội địch trước thềm Bắc Bộ Phủ, trung đội trưởng Trần Thành ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch ở Chợ Hôm. Đội tự vệ Bưu Điện thành phố chiến đấu đến người cuối cùng bên bở Hồ Gươm… Quân Pháp thuộc sư đoàn bộ binh thiết giáp số 2 đã phản kích quyết liệt nhưng quân dân Hà Nội dũng cảm ngoan cường đã tiêu diệt nhiều quân xâm lược.<br />Cuộc chiến đấu diễn ra tại nhiều thành phố khác tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và làm thất bại âm mưu đánh mau thắng mau của chúng. Quân dân Huế chiến đấu ròng rã 50 ngày đêm trong thành phố, diệt 2.000 tên Pháp. Quân dân Đà Nẵng giam châm 10.000 quân Pháp tại đây trong 90 ngày đêm. Quân dân Nam Định, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hòn Gai chiến đấu tiêu diệt gọn bọn chiếm đóng, giữ vững trận địa quê hương. Tại Sài Gòn ngày 20/12/1946 các đội Cảm tử đều đồng loạt nổ súng. Ngày 17/2/1947 Xứ ủy Nam Bộ quyết định mở một cuộc tiến công toàn Nam Bộ giam chân 40.000 quân Pháp ở đây không cho chúng đi ứng cứu.<br />2. Bước vào kháng chiến trường kỳ<br />Cùng với cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt ở các thành phố và các khu vực xung yếu, hàng loạt công việc cấp bách của cuộc kháng chiến lâu dài cũng được khẩn trương tiến hành kế hoạch tổng di chuyển các cơ quan, kho tàng máy móc từ các đô thị đưa lên vùng căn cứ đã được chuẩn bị chu đáo từ trước, nên khi chiến sự bùng nổ đã thực hiện khá nhanh và kịp thời. Từ tháng 11/1946 đến tháng 2/1947 đã có gần 40.000 tấn máy móc, nguyên vật liệu, thiết bị được chuyển về Việt Bắc. Ở Bắc Bộ có gần 2/3 số các máy móc xí nghiệp được di chuyển, trên cơ sở đó ta nhanh chóng xây dựng được 57 cơ sở sản xuất công nghiệp ở vùng kháng chiến. Cơ quan đài tiếng nói Việt Nam, Kho bạc Hà Nội, trường Đại học Y khoa được di chuyển gần như toàn bộ lên chiến khu. Việt Bắc trở thành thủ đô kháng chiến.<br />Tiêu thổ kháng chiến cũng là một biện pháp mà dân ta biết từ lâu mỗi khi chống giặc ngoại xâm, nay lại được đem vào cuộc chống Pháp. Ngày 6/2/1947 Hồ Chủ tịch kêu gọi và phát động cuộc phá hoại để kháng chiến. Ta đã đào và đốt phá hàng ngàn cây số đường sắt, đường bộ, hàng vạn cầu cống, hàng vạn hécta cao su cùng nhiều nhà cửa, đầu máy toa xe… Tuy nhiên việc phá hoại tràn lan ở một số nơi đã gây thiệt hại lớn đến tài sản quốc gia. Nhìn chung công tác tiêu thổ kháng chiến có tác dụng tích cực lúc ban đầu, sau đó nó có ảnh hưởng không tốt đến công cuộc kiến quốc.<br />Thực dân Pháp bất ngờ trước cuộc toàn kháng chiến của ta, song ngay sau đó chúng lập tức phản kích chiếm lại các thành phố. Chúng hình dung đối phương mà chúng đang ứng phó là một khối hình chóp nón có đỉnh chính là cơ quan đầu não kháng chiến ở Việt Bắc, cần phải tiêu diệt cơ quan đầu não ấy trước khi phá tan cái khối hình chóp kia để kết thúc chiến tranh. Tháng 9/1947 tại Sơn Tây, Cao ủy Pháp là Bolaer tuyên bố không có lý do gì để kéo dài chiến tranh. Sau đó ngày 7/10/1947 12.000 quân Pháp chia làm 3 hướng tấn công lên Việt Bắc. Địch ồ ạt tiến công và dự tính chỉ cần 3 tuần lễ sẽ đập tan đầu não Việt Minh, buộc Chính phủ Hồ Chí Minh phải đầu hàng…<br />Sau chỉ thị “Bolaer nói gì ta phải làm gì”, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chủ trương “Chủ trương phải phá tan cuộc tấn công Mùa Đông của giặc Pháp”. Đúng là địch mạo hiểm khi tấn công lên Việt Bắc, nhưng bộ đội Việt Minh đã chuẩn bị sẵn tình huống này và đón đánh quân đội Pháp ngay từ đầu cuộc tấn công. Sau 75 ngày đêm chống càn, quân dân Việt Bắc đã đánh bại cuộc phản công đầu tiên của Pháp, buộc Pháp phải từ bỏ chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh căn cứ địa Việt Bắc được giữ vững, các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được bảo toàn, quân dân cả nước vô cùng phấn khởi tin tưởng vào Chính phủ Hồ Chí Minh.<br />Toàn quốc kháng chiến đến bước ngoặc đầu tiên ở Việt Bắc mới chỉ gần 1 năm chiến tranh, Việt Nam không hề bị động đối phó với cuộc chiến xâm lược của Pháp, ngược lại Pháp đã 2 lần bị bất ngờ và phải thay đổi chiến lược chiến tranh. Cuộc chiến đấu không cân sức của nhân dân Việt Nam chống xâm lược đến đây chưa có nhiều thay đổi về lực lượng nhưng bước đầu đã có thay đổi về thế. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện trường kỳ, tự lực cánh sinh, quân ta quyết tâm làm thay đổi nhanh chóng cả thế và lực bằng quá trình kháng chiến với kiến quốc.<br />3. Đẩy nhanh công cuộc kháng chiến - kiến quốc (1948 - 1950)<br />Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 3/1948 phong trào “Thi đua ái quốc” được phát động rộng rãi trong cả nước, nhằm thúc đẩy cuộc kháng chiến kiến quốc phát triển. Toàn quân, toàn dân Việt Nam thi đua tăng gia sản xuất, xây dựng kinh tế kháng chiến, hăng say luyện quân lập công. Khẩu hiệu “Người người thi đua, ngành ngành thi đua” đã nảy nở những hành động ái quốc ở hầu khắp các tầng lớp nhân dân các địa phương, đem lại hiệu quả thực tế trong hoạt động kháng chiến kiến quốc.<br />Chính phủ kháng chiến đã ban hành nhiều chính sách kinh tế giúp đỡ tầng lớp nông dân, công nhân lao động về mọi mặt để họ yên tâm và hăng hái sản xuất. Các sắc lệnh về giảm tô, giảm tức, tạm giao cấp đất cho nông dân được ban hành. Đến cuối năm 1949 từ Liên khu IV trở ra đã có 113.000 hécta đất được giao cho nông dân, còn ở Nam Bộ số ruộng đất của địa chủ bỏ chạy khá nhiều và được chính quyền kháng chiến giao cho nông dân canh tác việc giảm tô được hưởng ứng triệt để nhất. Đến năm 1953 có hàng trăm ngàn mẫu ruộng được giảm tô, 25% ở miền Tây Nam Bộ có nơi giảm 50 - 60%.<br />Từ tháng 4/1953 một số vùng tự do ở Việt Bắc và Bắc khu IV đã tiến hành thí điểm cải cách ruộng đất, tạo ra ảnh hưởng tích cực thúc đẩy cuộc kháng chiến. Chính sách ruộng đất của Chính phủ Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp mới chỉ là bước đầu của cuộc Cách mạng ruộng đất mà Đảng Cộng Sản Đông Dương đã đề ra cho mình trong Luận cương đầu tiên. Tuy chưa có điều kiện thực hiện chính sách này nhiều hơn nữa, triệt để hơn nữa nhưng những việc đã làm được có ý nghĩa rất sâu sắc, bởi nó khắc sâu trong tâm tưởng người dân niềm tin vững chắc vào Đảng Cộng Sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là sức mạnh tinh thần đến sức mạnh vật chất vô cùng to lớn, đưa kháng chiến đến thắng lợi.<br />Năm 1951, chính sách thuế nông nghiệp của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được áp dụng đã làm tăng thêm cho nguồn lực kinh tế cho cuộc kháng chiến, lối làm ăn tập thể theo tổ vần công, đổi công được phổ biến và nhiều nơi còn lập ra tổ chức hợp tác xã nông nghiệp. Đến năm 1950 cả nước đã có 25.000 tổ đổi công và gần 1.500 hợp tác xã nông nghiệp. Sản lượng hoa màu ở các vùng tự do ngày một tăng lên, riêng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, năm 1950 đã đạt sản lượng hơn 2.400 tấn lương thực.<br />Việc khôi phục giao thông từ năm 1948 trở đi được đặt ra như một yêu cầu mới của cuộc kháng chiến - kiến quốc tuy đây đó có lúc vẫn phải phá lộ đào đường đắp đê ngăn cản các cuộc hành quân càn quét của địch, những hệ thống cầu đường đến năm 1950 đã bước đầu được khôi phục hoặc làm mới để phục vụ cho việc chuyển hàng hóa, giao lưu kinh tế văn hóa các địa phương, phục vụ các chiến dịch quân sự. Ở Liên khu Việt Bắc đã sửa chữa 1.046 km đường xe, 40km đường sắt, hàng trăm cầu cống được sữa chữa hoặc làm mới. Ở Nam Bộ nhiều con kênh mới (kênh kháng chiến) làm tăng cường hệ thống giao thông đường thủy vốn đã rất thuận lợi cho chiến trường của chiến tranh du kích ở đây.<br />Văn hóa kháng chiến phát triển nhanh ở các vùng tự do để mở đầu cho việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, đẩy lùi nền văn hóa ngu dân của chế độ thực dân phong kiến. Tháng 7/1948 Đại hội văn hóa toàn quốc lần thứ 2 được triệu tập ở Việt Bắc. Tại Đại hội này, báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh được giới văn nghệ sĩ hoan nghênh bởi lập trường văn hóa của Đảng với phương châm dân tộc, khoa học và đại chúng rất phù hợp với tâm tư nguyện vọng của giới văn nghệ sĩ. Từ đó một đội ngũ mới những người công tác văn hóa văn nghệ hình thành, nhiều văn nghệ sĩ lớp trước đi theo con đường Cách mạng vô sản đã trở thành chim đầu đàn trên bầu trời ban mai của nền văn hóa dân tộc trong thờii kỳ hiện đại.<br />Công tác giáo dục làm việc chăm lo sức khỏe đời sống tinh thần cho dân chúng được các cấp chính quyền kháng chiến nỗ lực tạo ra cơ sở phát triển. Theo tổng kết của Đảng ta về cuộc kháng chiến chống Pháp, tính đến năm 1950 có 75.000 thôn của 1.500 xã ở 84 huyện thuộc 10 tỉnh duy trì phong trào xóa nạn mù chữ. Giáo dục phổ thông và giáo dục bổ túc được chú ý xây dựng ở vùng tự do và thu hút nhiều bộ phận nhân dân tham gia. Tại đây một đời sống văn hóa mới được dần dần hình thành các cán bộ chiến sĩ cách mạng cùng với các tầng lớp nhân dân lao động được học tập mở mang kiến thức trong điều kiện kháng chiến còn nhiều thiếu thốn về vật chất, hạn chế về kinh nghiệm, nhưng bộ mặt văn hóa tinh thần của xã hội vùng tự do vẫn có những cải thiện.<br />Về xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân trong điều kiện kháng chiến được chú trọng để không ngừng củng cố hậu phương, phát triển thực lực các mạng. Những nơi còn duy trì Ủy ban kháng chiến hành chính thì các ủy ban phải luôn luôn kiện toàn tổ chức nhằm tăng cường thành phần cơ bản. Những nơi chỉ có Mặt Trận Việt Minh, thì việc củng cố các đoàn thể cứu quốc, tăng cường hội viên được coi là nhiệm vụ thường xuyên… Ở hầu hết các địa phương trong cả nước, sự kết hợp lãnh đạo giữa các cấp Đảng bộ với các cấp cơ quan đoàn thể trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự đã dần dần trở nên nhịp nhàng và có hiệu quả tốt. Để tăng cường lực lượng quân sự, tháng 1/1949 nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ban hành sắc lệnh nghĩa vụ quân sự, sau đó đến tháng 2/1950 chính phủ ban hành lệnh tổng động viên. Với các sắc lệnh này, đến cuối năm 1950, chỉ tính từ khu IV trở ra đã có 500.000 thanh niên ghi tên tòng quân và hàng chục vạn người khác tham gia vào các đoàn dân công phục vụ chiến đấu. Ở Nam Bộ và nhiều vùng địch hậu khác có khá đông các nhân sĩ yêu nước thanh niên học sinh, công nhân lao động, nhà tư sản, nhà buôn nghe theo tiếng gọi của cuộc chiến đấu chính nghĩa, đã ủng hộ cách mạng thậm chí đã ra vùng tự do tham gia kháng chiến.<br />Quan hệ đối ngoại của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những năm chiến tranh Việt - Pháp là một trong những hoạt động mới mẻ và không nhiều thuận lợi. Song do dự chuyển biến tích cực của tình thế giới, sự phát triển vững chắc của cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta Việt Nam đã ngày càng được dư luận quốc tế quan tâm đến quan hệ của Việt Nam với các nước vì thế được tạo dựng, mở ra những trang đầu cho lịch sử ngoại giao của nước Việt Nam mới. Hoạt động giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước láng giềng Việt Nam - Lào - Campuchia - Trung Quốc đã bước đầu phát triển nhằm phát triển cách mạng mỗi nước và trong khu vực ngoài ra quan hệ Việt - Pháp lúc chưa toàn quốc kháng chiến cũng tranh thủ được dư luận tiến bộ của nước Pháp.<br />Tháng 12/1949 Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thăm chính thức Liên Xô, hội đàm với Xtalin. Ngày 14/1/1950, thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là chính phủ hợp pháp duy nhất của nước Việt Nam và sẵn sàng kiến lập ngoại giao với các nước trên cơ sở tôn trọng chủ quyền lãnh thổ quốc gia bình đẳng.<br />Đáp lại thiện chí đó, ngày 18/1/1950, Liên Xô và Trung Quốc ra tuyên bố công nhận nuớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đến cuối tháng 1/1950 đã có thêm 9 nước khác công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh vị trí chính trị của nước Việt Nam trên trường quốc tế từ đó được nâng cao lên, có ý nghĩa rất tích cực đối với cuộc kháng chiến đang tiếp tục của nhân dân Việt Nam, góp phần làm thay đổi thế và lực cho cuộc kháng chiến.<br />4. Tiếp tục giành nhiều thắng lợi trên Mặt trận quân sự (1948 - 1953)<br />Trên Mặt trận quân sự, vào lúc hệ thống đồn bót nhỏ dày đặc theo kế hoạch De Latuur mọc lên ở Nam Bộ giữa những năm 1948 thì từng bộ phận nhỏ các đơn vị bộ đội Việt Minh cũng được đưa vào các vùng địch hậu theo kế hoạch phân tán lực lượng chủ lực để gây men cho phong trào nhân dân du kích chiến tranh phát triển. Thực dân Pháp quay về với nhiệm vụ bình định mà trọng điểm là Nam Bộ nhưng vẫn muốn cô lập Việt Bắc, chia cắt Bắc Bộ và Trung Bộ. Tuy nhiên chúng đã không thể tự do hành động như trước và ngày càng mất dần quyền chủ động chiến trường. Trong khi đó các lực lượng kháng chiến từng bước phát triển. Ở những nơi chiến tranh du kích phát triển mạnh các hoạt động phá đồn bót, diệt tề, trừ gian đã chống lại có hiệu quả các biện pháp bình định của quân đội Pháp, làng xã chiến đấu và địa đạo từ năm 1948 bắt đầu hình thành và ở ngay trọng điểm bình định. Cuối năm 1948 phong trào tổng phá tề gây tổn hại lớn cho quân ngụy và bộ máy tề ngụy. Đặc biệt là những trận vận động chiến ở La Ngà, Tầm Vu, Láng Le… Từ năm 1948 gây nhức nhối cho quân xâm lược Pháp.<br />Trong tình thế ấy đáng lẽ Pháp phải đặt nhiệm vụ cấp thiết là củng cố lại lực lượng, đặt lại việc bình định đồng bằng, nhưng với kế hoạch mới của Rever họ lại đem quân đi tăng cường phòng thủ biên giới, lập hành lang Đông Tây chia cắt Bắc Bộ. Nhất là từ cuối năm 1949 khi nước Cộng Hòa Nhân Trung Hoa ra đời và sau đó Chính phủ mặt trận It-xa-rac ở Campuchia thành lập (tháng 4/1950), Chính phủ mặt trận It-xa-rac ở Lào thành lập (tháng 8/1950), Diễn biến dồn dập ấy làm cho Pháp lo sợ về sự phối hợp liên minh của 3 nước Đông Dương, chúng càng ra sức bao vây cô lập cách mạng Việt Nam, chia rẽ cuộc kháng chiến của 3 nước Đông Dương trên toàn Đông Dương lúc này. Chúng có 21 vạn quân nhưng đang dồn phân lớn ra chiến trường Bắc Bộ, nhất là lực lượng Âu Phi.<br />Về phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cuộc kháng chiến trường kỳ làm cho bộ đội Việt Minh càng đánh càng mạnh. Sau một thời gian phân tán chủ lực, gây dựng phát triển chiến tranh du kích, đến giữa năm 1949 bộ đội chủ lực Việt Minh lại được tập trung để xây dựng các trung đoàn đại đoàn hoàn chỉnh lực lược 3 thứ quân. Đến cuối năm 1950 quân đội nhân dân Việt Nam đã có lực lượng 130.000 bộ đội chủ lực các loại với 24 tiểu đoàn cơ động và khoảng 3 triệu dân quân du kích địa phương. Chiến tranh du kích vẫn là phổ biến như từ Xuân - Hè năm 1949 bộ đội Việt Minh đã mở hàng loạt chiến dịch tiến công vừa và nhỏ ở Bắc Bộ. Trên đà đó giữa năm 1950, một chiến dịch tiến công lớn đã được bàn tính nhằm đánh thằng vào kế hoạch Revet của Pháp, mục tiêu là hệ thống phòng thủ biên giới Đông Bắc Bắc Bộ.<br />Tướng Võ Nguyên Giáp đề ra “phương án đánh Đông Khê” theo đó gần 30.000 bộ đội cùng hàng chục vạn dân công đã tích cực chuẩn bị cho các đợt tấn công đánh điểm, diệt viện dọc tuyến quốc lộ số 4, trong đó Đông Khê là trận mở màn, Hồ Chủ tịch trực tiếp ra mặt trận đôn đốc quân sĩ, trong lúc đó các chiến trường khác ở khu III, khu IV, khu V, Nam Bộ cũng được chỉ đạo phối hợp hoạt động để giam chân địch không cho chúng ứng cứu nhau và tập trung đối phó ở mặt trận chính. Trận chiến ở biên giới diễn ra đúng như dự đoán. Từ ngày 16/9/1950 Mặt trận Đông Khê nổ súng, Pháp vội rút quân khỏi Cao Bằng để tập trung đánh lên Việt Bắc nhưng mưu kế của chúng không thành. Ở Thái Nguyên chúng bị đòn đau, tuyến biên giới dọc quốc lộ số 4 chúng bị mất trắng. Ngày 14/10/1950 bộ đội Việt Minh mừng chiến dịch đại thắng sau gần một tháng chiến đấu. Quân Pháp chịu một tổn thất lớn nhất từ trước tới nay, chỉ 28 ngày mà 10 tiểu đoàn bị nướng trụi vào chiến trường biên giới, 8.300 quân tinh nhuệ bị xóa xổ, hơn 3.000 tấn vũ khí trang bị đã mất, chiến lược phòng thủ Đông Dương bị đảo lộn, thật là chưa từng có trong lịch sử chiến tranh ở đây. Bộ đội Việt Minh giải phóng hàng ngàn cây số vuông đất đai, khai thông biên giới 7.500km, giải phóng 350.000 dân. Chiến thắng biên giới cắm cột mốc mới trên con đường trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, nó cũng đánh dấu thời kỳ mới của kháng chiến trường kỳ, khi quyền chủ động chiến trường đã chuyển hẳn về phía lực lượng kháng chiến.<br />Kế hoạch Rever tan vỡ, tháng 12/1950 viên tướng tài ba của Pháp là De Lattre de Tassigny thôi giữ chức tư lệnh lục quân khối NATO sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh kiêm chức Cao ủy Pháp ở Đông Dương. Trước đó hiệp định viện trợ quân sự Pháp - Mỹ đã được ký kết để Pháp có thêm điều kiện theo đuổi chiến tranh ở Đông Dương. Với tổng số quân là 338.000 người, Tassigny cố thực hiện bình định gấp rút, phản công mạnh mẽ và muốn tập trung giải quyết trước hết vấn đề Bắc Bộ. Tại đây Pháp cho dựng tuyến phòng thủ boong ke gồm 1.300 lô cốt do 20 tiểu đoàn Âu Phi chốt giữ.<br />Những cuộc kháng Pháp ở Đông Dương từ sau trận Biên giới Thu Đông năm 1950, đã tiếp tục tiến những bước dài đến thắng lợi hoàn toàn, mặc dù còn trải qua nhiều khó khăn. Trong cuộc tiếp kiến Hồ Chủ tịch tại Việt Bắc, trước khi Pháp triển khai kế hoạch De Tassigny, một nhà báo nước ngoài hỏi về sự bắt đầu thời kỳ Tổng phản công của lực lượng kháng chiến, vị Tổng tư lệnh Hồ Chí Minh nhắc họ “Phải nhớ rằng kháng chiến của chúng tôi là trường kỳ kháng chiến”, phương châm chiến lược ấy đối với những kẻ đang tham vọng giành một thắng lợi nhanh chóng về quân sự thì không phải là điều dễ hiểu.<br />Tháng 2/1951, Đảng Cộng Sản Đông Dương tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 2. So với hội nghị hợp nhất cách đó 21 năm chỉ có 4 đại biểu dự bàn thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam lần này 221 đại biểu thay mặt cho 766.349 đảng viên cộng sản toàn quốc, đã họp bàn về xây dựng Đảng Lao Động Việt Nam. Đây không chỉ là việc đưa Đảng ra hoạt động công khai sau 50 tháng rút và bí mật mà còn là sự tiếp tục đặt lại cho đúng vấn đề Cách mạng Đông Dương cho phù hợp với khuôn khổ mỗi dân tộc quốc gia. Những người cộng sản Đông Dương sau khi giải tán đảng chung, xây dựng lực lượng cách mạng riêng cho từng dân tộc, đã thành lập một liên minh đoàn kết chiến đấu có tính chất chiến lực để tiếp tục những quan hệ hợp tác tương trợ giúp đỡ lẫn nhau đã có.<br />Trong lúc giữa núi rừng Việt Bắc đang diễn ra những chuyển biến chính trị to lớn ấy, thì bộ đội cụ Hồ báo công dồn dập. Những chiến dịch tấn công địch được mở ra khắp nơi: trung du, đường số 18, Hà Nam Ninh, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào… còn ở đồng bằng Bắc Bộ, Trị Thiên, khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ thì chiến tranh du kích lan rộng. Cả Pháp và Mỹ đều coi Bắc Đông Dương là chiến trường chính, trong đó Việt Bắc là trọng điểm số một, chúng tập trung binh hùng tường giỏi ra các chiến trường Bắc Đông Dương, nuôi ý định kết thúc chiến tranh ở đó.<br />Các chiến trường phía Nam, nhất là Nam Bộ vì vậy có điều kiện thuận lợi để đưa chiến tranh du kích ở đây lên đỉnh cao và phát triển dần lên chiến tranh chính quy. Tuy nhiên việc xây dự thực lực cách mạng ở Nam Bộ chưa tương xứng với việc phát triển của tình hình. Từ năm 1950 trở đi, Cách mạng Nam Bộ lại gặp nhiều khó khăn phức tạp. Trong lúc đó các chiến trường phía Bắc đã tích cực xây dựng thực lực mạnh, nhất là xây dựng các đơn vị bộ đội chủ lực cơ động. Đến năm 1952 tại đây đã có 6 đại đoàn bộ binh (312, 316, 320, 325, 308, 304) 2 trung đoàn bộ binh (246, 148) và một đại đoàn công pháo (351).<br />Sự mất cân đối trong xây dựng lực lượng ở phía Bắc và ở phía Nam đã không được khắc phục. Vì thế khi bước vào thời kỳ Phản công và Tổng phản công thì chiến trường Nam Bộ không thể mở được các chiến dịch lớn.<br />Dù sao cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam cho đến Đông Xuân 1952 - 1953 vẫn có thể bước sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định, mở đầu bằng việc tiếp tục mở các chiến dịch tiến công quân sự, làm tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch, tiến tới đánh bại chúng về quân sự. Khi Pháp - Mỹ đưa ra kế hoạch Navarre thì khả năng trên đây của bộ đội Việt Minh vẫn không mất đi tính hiện thực.<br />III. TỪ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ LỊCH SỬ ĐẾN HIỆP ĐỊNH GENÈVE, KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1953 - 1954)<br />1. Pháp - Mỹ triển khai kế hoạch Navarre tiếp tục kéo dài chiến tranh, nhưng chúng đã thất bại trước chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 của ta<br />Sau 8 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, quân đội Pháp càng cố tìm kiếm thắng lợi thì thắng lợi càng xa vời, buộc họ phải cậy nhờ vào tài chính và mưu lược của Mỹ. Cũng đã đến lúc nước Pháp không cho phép quân đội của họ tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh, nhất là theo đuổi một cuộc chiến tranh không còn khả năng thắng lợi. Trong tình thế ấy, một lần nữa Pháp lại cử Navarre, một viên tướng tài giỏi của khối NATO sang Đông Dương làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp.<br />Ngày 7/5/1953 Navarre có mặt ở chiến trường Đông Dương, tháng 7 năm đó kế hoạch quân sự của ông được Hội đồng chính phủ và Hội đồng quốc phòng Pháp thông qua, trở thành niềm hy vọng của nước Pháp trong lần cuối cùng thay đổi chiến lược chiến tranh. Với nhiệm vụ giành một thắng lợi quân sự, tạo cơ sở cho một giải pháp chính trị, Navarre tập trung chủ yếu vào việc xây dựng khối chủ lực cơ động lớn gấp 3 lần hiện tại ở Đông Dương, để trong vòng 18 tháng có thể “Chuyển bại thành thắng”.<br />Cả Pháp - Mỹ đều dồn nỗ lực, trí tuệ cho kế hoạch tập trung quân của Navarre, coi đó là bí quyết thắng lợi của chiến tranh. Đến đầu năm 1954, Navarre đã có trong tay 480.000 quân (trong đó có 146.000 quân Aâu - Phi), gồm 100 tiểu đoàn bộ binh và 10 tiểu đoàn dù, tất cả đều là lực lượng chủ lực cơ động. Viện trợ của Mỹ tăng lên nhanh chóng và chiếm 73% chiến phí chiến tranh Đông Dương lúc này.<br />Suốt mùa hè và mùa thu năm 1953 tướng Navarre điều khiển quân tướng để tập trung lớn ở đồng bằng Bắc Bộ, còn các chiến trường khác thì rất sơ hở. Đối phó với tình hình ấy, tháng 9/1953 Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam đã quyết định và triển khai kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, khởi đầu là việc điều một bộ phận lực lượng chủ lực lên Tây Bắc. Quả nhiên khi bộ đội Việt Nam mở hướng Tây Bắc thì Pháp không thể làm ngơ, Navarre vội điều quân từ đồng bằng Bắc Bộ lên Tây Bắc, chiếm giữ Lai Châu, lập vị trí chiếm đóng mới ở Điện Biên Phủ. Theo đà đó từ tháng 11/1953 đến tháng 2/1954, ta đã mở liên tục các chiến dịch tấn công quân sự ở khắp các chiến trường Đông Dương, nhất là các vị trí chiến lược như Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Tây Nguyên…<br />Navarre vừa tập trung xong quân đã phải điều đi ứng phó và chia ra làm nhiều mảng rời rạc với nhau. Không những thế chúng còn bị tiêu hao khá nhiều sinh lực, tinh thần quân đội có sút giảm, kế hoạch tập trung gần hoàn thành bước một thì đã có nguy cơ tan vỡ. Nhưng trong quá trình ấy Navarre còn thấy khả năng thu hút bộ đội Việt Minh lên Điện Biên Phủ để giáng cho họ một đòn chiến lược. Navarre cho xây dựng Điện Biên Phủ thành một pháo đài không thể công phá, sẵn sàng nghiền nát bộ đội Việt Minh, một việc làm ngoài dự kiến ban đầu của Pháp - Mỹ.<br />2. Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử<br />Tiếp tục làm phá sản kế hoạch Navarre, từ đầu tháng 12/1953 bộ đội Việt Minh vừa phá kế hoạch tập trung quân vừa chuẩn bị cho việc chấp nhận giao chiến với quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ. Lúc ấy Pháp và Mỹ yên trí rằng nếu chấp nhận giao chiến tại thung lũng Tây Bắc này thì bộ đội cụ Hồ sẽ phải gặp rất nhiều bất lợi và khó khăn rằng chỉ có sức mạnh thần kỳ nào đó mới giúp Việt Minh tránh khỏi một tổn thất lớn khi họ dám tuyên chiến với quân đội Pháp - Mỹ.<br />Nhưng không phải là huyền thoại mà là có thật một sức mạnh thần kỳ của Việt Minh ở Điện Biên Phủ. Đó là sự hợp lại sức lực, ý chí, máu và mồ hôi của 261.464 dân công với 10.301.570 ngày công mở hàng ngàn cây số đường bộ, vận chuyển 27.400 tấn gạo, hàng chục ngàn tấn vũ khí đạn dược, thuốc men bằng 628 chiếc xe tải, 11.800 ghe thuyền, 20.000 xe đạp thồ, 500 ngựa thồ, hàng ngàn xe trâu bò kéo. Đó còn là sự đồng tâm hiệp lực, tư tưởng quyết tâm và mưu lược của 4 đại đoàn quân, với 11 trung đoàn bộ binh, một đại đoàn công pháo cùng hàng vạn thanh niên xung phong. Đó chính là hình ảnh ra quân của một dân tộc mang theo khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” mà quân xâm lược Pháp đã không sao có được.<br />Những tờ truyền đơn thách thức của viên chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cuối tháng 2/1954 không kích động được sự nôn nóng của quân đội tướng Giáp, ngược lại tướng Võ Nguyên Giáp càng bình tĩnh chọn lại phương án đánh, kiên trì và quyết tâm chuyển từ “Đánh nhanh thắng nhanh” sang “Đánh chắc thắng chắc”.<br />Ngày 12/3/1954 trong lúc ở bờ biển Quy Nhơn, quân Pháp được lệnh của tướng Navarre tiếp tục chiến dịch Át-lăng thì ở Điện Biên Phủ các chiến sĩ bộ đội Việt Minh đón thư Bác Hồ động viên trước giờ nổ súng; cũng tại đây các sỹ quan Pháp được De Castries thông báo tin tình báo về cuộc tấn công của tướng Giáp sẽ bắt đầu vào 5 giờ chiều ngày mai; sau khi nghe tất cả tin ấy tất cả họ cười ồ lên.<br />Nhưng tin tức đó quả là chính xác. Đúng 17 giờ ngày 13/3/1954, pháo binh của bộ đội Việt Minh nã vào căn cứ đồi A1 mở màn cho chiến dịch tấn công Điện Biên Phủ. Bộ đội Việt Minh tổ chức thực hiện 3 đợt tấn công.<br />* Đợt 1 từ 13/3 đến 17/3/1954, mở cửa tập đoàn cứ điểm, quan quân De Castries hoảng hồn chống đỡ.<br />* Đợt 2 từ ngày 30/3 đến 26/4/1954, tấn công vây lấn băm nát tập đoàn cứ điểm, giằng co quyết liệt, Pháp ở Điện Biên Phủ hoàn toàn tuyệt vọng.<br />* Đợt 3 từ 1/5 đến 7/5/1954, tổ công kích tiêu diệt toàn tập đoàn căn cứ địch. Điện Biên Phủ thất thủ và Pháp Mỹ ở Đông Dương bàng hoàng.<br />Tròn 56 ngày kể từ 17 giờ ngày 13/3/154 đến 17 giờ 30 ngày 7/5/1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ gồm 49 cứ điểm chia làm 3 phân khu, do 16.200 quân chiếm giữ đã bị công phá. De Castries vừa được thăng chức tướng được vài ngày thì phải dẫn đầu đoàn quân sống sót ra đầu hàng các dũng sỹ Việt Minh ở Điện Biên Phủ.<br />Hòa cùng tiếng súng mặt trận Điện Biên Phủ từ đầu tháng 3/1954 và nhất là từ tháng 5/1954, tiếng súng tấn công nổi dậy đã nổ khắp miền đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ. Phong trào rộng lớn ấy ở các chiến trường trong cả nước, sau thắng trận Điện Biên Phủ đã và đang chuyển thành cao trào mới để nối dài chiến công lớn.<br />3. Hội nghị Genève về Đông Dương và việc kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp<br />Thắng lợi ở Điện Biên Phủ và thực tế cao trào tiến công nổi dây ấy, khẳng định khả năng mới của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, ta có thể đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp bằng những thắng lợi quân sự.<br />Từ đầu năm 1954 Hội nghị của các nước lớn bàn về lập lại hòa bình, chấm dứt cuộc chiến tranh Triều Tiên và Đông Dương đã triệu tập ở Genève (Thuỵ Sỹ). Sau khi giải quyết xong vấn đề Triều Tiên, cuối tháng 4/1954 Hội nghị bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương, nhưng chỉ sau khi thất thủ ở Điện Biên Phủ, Pháp - Mỹ mới sốt sắng họp bàn hội nghị.<br />Phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu đến tham dự Hội nghị trong tư thế của người vừa chiến thắng quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Xuất phát từ nguyện vọng hòa bình của dân tộc, nắm bắt theo xu thế hòa bình của thế giới và khu vực, phái đoàn Việt Nam tại hội nghị Genève đã bày tỏ thiện chí chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương, giải quyết vấn đề Đông Dương một cách triệt để cả về quân sự lẫn chính trị, trên cơ sở các nước tôn trọng chủ quyền thống nhất, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuy vậy cuộc mặc cả của các nước lớn đã chi phối kết quả cuối cùng của hội nghị quan trọng này.<br />Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp, ngày 20/7/1954 “Hiệp định đình chỉ chiến sự lập lại hòa bình ở Đông Dương” được ký kết. Theo đó vĩ tuyến 17 trở thành giới tuyến quân sự tạm thời, việc chuyển quân tập kết lực lượng của cả hai bên chiến tranh được tiến hành, việc thống nhất đất nước ở Việt Nam sẽ được thực hiện bằng một cuộc trưng cầu dân ý, sau hai năm thi hành Hiệp định và bằng một cuộc Tổng tuyển cử tự do trong cả nước…<br />Việc ký kết Hiệp định Genève phản ảnh xu thế chung của tình hình thế giới lúc đó và cũng chứng minh cho lập trường đàm phán và nguyện vọng hòa bình, chấm dứt chiến tranh của nhân dân Việt Nam. Mặc dù chỉ dừng lại ở những giải pháp quân sự, nhưng Hiệp định Genève ngày 20/7/1954 cùng với thắng lợi của Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam chống xâm lược.<br />“Chín năm làm một Điện Biên<br />Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”<br />(Tố Hữu)<br />Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử dân tộc thật oai hùng, Đảng ta đã đánh giá về sự kiện này trong những ngày đánh Mỹ (1970), rằng chiến thắng Điện Biên Phủ “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đàng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”.<br />Việt Nam - Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh, những tiếng thân quen ấy từ mùa hè năm 1954 bắt đầu vang lên trên khắp các châu lục. Đó là niều tự hào của dân tộc ta và cũng là niềm tự hào chung của tất cả các nước đang đấu tranh thoát khỏi ách thực dân, đòi tự do độc lập.<br />*<br />* *<br />Cuộc “kháng chiến ba ngàn ngày không nghỉ” đã kết thúc với việc đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược kiểu cũ của thực dân Pháp có Mỹ can thiệp. Tài liệu tổng kết của Đảng ta về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thắng lợi và bài học đã cho biết những con số thống kê như sau: đã có 579.500 quân Pháp và tay sai bị chết, bị thương, bị bắt ở đây; 435 máy bay bị đánh rơi và phá hủy; 603 tàu chiến và canô bị đánh chìm và bắn cháy; 344 khẩu pháo cùng hàng ngàn xe quân sự bị phá hủy; 130.415 súng các loại bỏ lại chiến trường… Pháp và Mỹ đã tiêu tốn vào cuộc chiến tranh ấy 3.000 tỷ france và 2,6 tỷ USD. Trong thời gian chiến tranh ấy nuớc Pháp có 20 lần thay đổi Chính phủ, 7 lần thay thế Cao uỷ và 8 lần thay đổi Tổng chỉ huy quân sự ở Đông Dương. Vậy mà Pháp vẫn không thể lấy lại được thuộc địa này, ngay sau khi nhân dân ở đây vừa giành lại được nền độc lập dân tộc.<br />Trong 9 năm kháng chiến, quân dân Việt Nam đã lần lượt đánh bại 5 kế hoạch chiến lược chiến tranh của Pháp; đã mở 10 chiến dịch lớn có ý nghĩa như những đòn chiến lược giáng vào đạo quân viễn chinh của Pháp sau đại chiến thế giới lần thứ II. Như vậy chọn con đường chiến tranh là nước Pháp đã tự chọn con đường kết thúc thê thảm thời kỳ đế quốc hùng mạnh của mình, thời kỳ mà công cuộc thực dân của người Pháp có vai trò và ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nhiều quốc gia dân tộc.<br />Với thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chẳng những thành quả của Cách Mạng Tháng Tám được bảo vệ vững chắc mà còn phát triển thêm thành quả vĩ đại ấy. Đó là việc các nước phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng, nền kinh tế - xã hội của chế độ mới được thử thách trong chiến tranh đã có thêm nhiều sức mạnh và kinh nghiệm để củng cố, phát triển sự nghiệp cách mạng của cả nước có thêm nhiều yếu tố mới, cơ sở mới rất căn bản để tiến đến giành những thắng lợi to lớn và toàn vẹn.<br />Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp góp phần quyết định vào việc làm sụp đổ hoàn toàn chế độ thực dân kiểu cũ trên bán đảo Đông Dương, mở đường cho việc làm sụp đổ toàn bộ hệ thống thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của kháng chiến chống Pháp đẽ để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta những kinh nghiệm thực tế sinh động của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, kinh nghiệm của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược. Đó không chỉ là “vốn liếng” mà nhân dân ta đem vào cuộc.</span>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-27544245531287630982007-07-30T22:30:00.001-07:002007-07-30T22:30:57.339-07:00TAI LIEU THAM KHAO PHAN LICH SU VIET NAM CAN DAI<span style="font-family:arial;"><br />TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN ĐẠI<br />(1858 - 1945)<br /><br />1. Phan Thuận An, Lăng tẩm Huế một kỳ quan, NXB Thuận Hóa, Huế, 2003.<br />2. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Hà Nội, 1964.<br />3. Đào Duy Anh, Lịch sử Việt, tập I và II, Hà Nội, 1958.<br />4. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Thành phố Hồ Chí Minh (tái bản), 1992.<br />5. Đào Duy Anh, Lịch sử cách mạng Việt Nam từ 1862 đến 1930, Hà Nội, 1955.<br />6. Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, NXB Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1971.<br />7. Nguyễn Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ, Sài Gòn, 1971.<br />8. Aumiphin J.P, Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1858 - 1939), Hà Nội, 1994.<br />9. Thái Bạch, Thi văn quốc cấm thời thuộc Pháp, Sài Gòn, 1968.<br />10. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Các tổ chức tiền thân của Đảng, Hà Nội, 1977.<br />11. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, Nhà tù Côn Đảo 1862 - 1945, NXB Sự Thật Hà Nội, 1987.<br />12. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang, Bác Tôn - Cuộc đời và sự nghiệp (1888 - 1980), NXB Sự Thật, Hà Nội, 1988.<br />13. Đỗ Bang - Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế, 1996.<br />14. Nguyễn Lương Bích, Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, NXB Quân đội Nhân dân, 2003.<br />15. Trần Thái Bình, Tìm hiểu lịch sử Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2001.<br />16. Nguyễn Công Bình, Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc, Hà Nội, 1959.<br />17. Bộ môn Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Trường Đại học Luật Hà Nội, Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam (từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX), tập bài giảng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.<br />18. Brocheux - Héméry, Indonchine, Une Colonisation Ambiguê (1858 - 1954), Paris, 1995.<br />19. Buttinger, The Smaller Dragon, New York, 1962.<br />20. Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ - con người và di cảo, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.<br />21. Cheneaux, Le Vietnam - etude de Politique et d’Histoire, Paris, 1968.<br />22. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1995.<br />23. Phan Đại Doãn - Nguyễn Minh Tường - Hoàng Phương - Lê Thành Lân - Nguyễn Ngọc Quỳnh, Một số vấn đề về quan chế triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế, 1998.<br />24. Tiên Đàm, Việc khẩn hoang ở Nam Kỳ dưới triều Nguyễn, Sài Gòn, 1962.<br />25. Nguyễn Khắc Đạm, Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam, Hà Nội, 1957.<br />26. Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc dân Đảng, Sài Gòn, 1965.<br />27. Trần Bá Đệ, Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.<br />28. Trần Văn Giàu, Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước năm 1858, Hà Nội, 1958.<br />29. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1980.<br />30. Trần Văn Giàu - Đinh Xuân Lâm, Lịch sử cận đại Việt Nam, (4 tập) NXB Giáo dục, Hà Nội, 1959, 1960, 1961, 1963.<br />31. Gosselin, L’Empire d’Annam, Paris, 1904.<br />32. Jean Carpentier, Lebrun, Histoire de France, Éditions du Seuil, Paris, 1992<br />33. Lê Mậu Hãn (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.<br />34. Nguyễn Sĩ Hải, Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ: 1802-1847, Luận án Tiến sỹ Luật Khoa, Sài Gòn, 1962.<br />35. Hà Minh Hồng, Lịch sử Việt Nam cận hiện đại, Tủ sách Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, 1997.<br />36. Phan Khoang, Việt Pháp bang giao lược sử (từ thế kỷ XVII tới đầu thế kỷ XX), Huế, 1950.<br />37. Phan Khoang, Việt Nam Pháp thuộc sử, Sài Gòn, 1971.<br />38. Nguyễn Văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam - Trung tâm UNESCO Bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, 2001.<br />39. Nguyễn Văn Kiệm, Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lịch sử cận đại Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003.<br />40. Nguyễn Văn Kiệm, “Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (271) tháng 11, 12.1993.<br />41. Thái Văn Kiểm, Đất Việt trời Nam, Nguồn Sống, Sài Gòn, 1960.<br />42. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, quyển II, trung tâm học liệu Sài Gòn, 1971.<br />43. Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam des origines à 1858, Paris, 1982.<br />44. Lê Thành Khôi, Nông dân Việt Nam trong lịch sử, Viện Sử học, Hà Nội, 1977.<br />45. Dương Kỵ, Việt sử khảo lược, Thuận Hóa, 1949.<br />46. Đinh Xuân Lâm, Lịch sử cận - hiện đại Việt Nam một số vấn đề nghiên cứu, NXB Thế Giới, Hà Nội, 1998.<br />47. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.<br />48. Đinh Xuân Lâm - Dương Lan Hải, Nghiên cứu Việt Nam - một số vấn đề lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, Hà Nội, 1998.<br />49. Đinh Xuân Lâm, “Triều Nguyễn trước âm mưu bành trướng của tư bản phương Tây (1802-1858)”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 11-12/1993.<br />50. Hoàng Văn Lân - Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam 1858 - cuối thế kỷ XIX, XB Giáo Dục, 1979.<br />51. Nguyễn Thiệu Lâu, Quốc sử tạp lục, NXB Mũi Cà Mau, 1995.<br />52. Phan Huy Lê - Chu Thiên - Vương Hoàng Tuyên, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập III, Hà Nội, 1965.<br />53. Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn, Lịch sử Việt Nam, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991.<br />54. Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. NXB Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960.<br />55. Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh nghĩa thục, NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1968.<br />56. Trần Huy Liệu, Lịch sử 80 năm chống Pháp, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1957.<br />57. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002.<br />58. Nhiều tác giả, Những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn, NXB Khoa học Xã hội, 1992, 1995.<br />59. Nhiều tác giả, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Tập II, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977.<br />60. Lương Ninh (chủ biên), Lịch sử Việt Nam giản yếu, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.<br />61. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập VIII, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993.<br />62. Tạ Quang Phát, “Quốc húy của triều Nguyễn”, Việt Nam khảo cổ tập san, số 4/1968.<br />63. Nguyễn Danh Phiệt, “Suy nghĩ về bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 11-12/1993.<br />64. Philippe Langlet, L’ancienne historiographie d’état au Vietnam, École française d’Extrême-Orient, Tome I, Paris, 1990.<br />65. Vũ Huy Phúc, Chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1979.<br />66. Vũ Huy Phúc, Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam 1858 - 1945, Hà Nội, 1996.<br />67. Nguyễn Trọng Phúc, “70 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt nam (1930- 2000), những bài học chủ yếu”, Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 2/2000.<br />68. Lê Hữu Phước, Lịch sử nhà tù Côn Đảo 1862 - 1930, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh 1992.<br />69. Đặng Phương, Nước Việt Nam trên đường bang giao, Việt Nam tự do xuất bản cuộc, Sài Gòn, 1959. (sách không đánh số trang).<br />70. Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.<br />71. Nguyễn Phan Quang, Lịch sử Việt Nam (1858 - 1884), Quyển III, tập 2, NXB Giáo Dục, 1977.<br />72. Nguyễn Phan Quang, Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986.<br />73. Nguyễn Phan Quang - Trương Hữu Quýnh - Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử Việt Nam (1428 - 1858), NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1980.<br />74. Nguyễn Phan Quang - Võ Xuân Đàn, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 1884, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000.<br />75. Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.<br />76. Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003.<br />77. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập III (Bản dịch của Viện Sử học), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971.<br />78. Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu (bản dịch của Hoàng Văn Hòe và Nguyễn Quang Tô), Tủ sách Cổ văn - Ủy ban dịch thuật - Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, 1974.<br />79. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, (Bản dịch của Viện Sử học), Hà Nội, 1963.<br />80. Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu, nhà in Đắc Lập, Huế, 1925.<br />81. Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám cương mục, NXB Sử học, Hà Nội, 1958 - 1960.<br />82. Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chánh biên, Nhóm nghiên cứu Sử Địa Việt Nam, Sài Gòn, 1969.<br />83. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, tập II, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993.<br />84. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, (bản dịch của Viện Sử học), Hà Nội, 1969.<br />85. Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, (quyển II), NXB Văn hóa Á châu, Sài Gòn, 1958.<br />86. Schreiner, Đại Nam quốc lược sử, Nguyễn Văn Nhàn dịch, Sài Gòn, 1905.<br />87. Văn Tạo, “Sơ bộ nhận thức về nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (271) tháng 11, 12.1993.<br />88. Trần Huy Liệu - Văn Tạo (chủ biên), Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, 12 tập, Hà Nội, 1956 - 1959.<br />89. Phạm Đình Tân, Chủ nghĩa đế quốc Pháp và tình hình công nghiệp ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, Hà Nội, 1959.<br />90. Nguyễn Phúc Tấn, A Modern History of Vietnam (1802 - 1954), Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1964.<br />91. Nguyễn Văn Tuân, Nguyễn triều long hưng sự tích, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1968.<br />92. Chu Thiên, “Chính sách khẩn hoang của triều Nguyễn”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 56, tháng 11/1963.<br />93. Vũ Quốc Thông, Pháp chế sử Việt Nam, Tủ sách Đại học Sài Gòn, 1968.<br />94. Cao Huy Thuần, Christianisme et Colonialisme au Vietnam, 1857 - 1914, Luận án Tiến sĩ quốc gia, Paris, 1970.<br />95. Nhượng Tống, Tân Việt cách mạng đảng, Hà Nội, 1945.<br />96. Đinh Gia Trinh, Sơ thảo lược sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Hà Nội, 1969.<br />97. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, “Chuyên đề về nhà Nguyễn”, số 271, 1993.<br />98. Nguyễn Khắc Thuần, Thế thứ các triều vua Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.<br />99. Hà Văn Thư - Trần Hồng Đức, Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003.<br />100. Ưng Trình, Việt Nam ngoại giao sử (cận đại), Trí Đức Thư Xã, Hà Nội, 1953.<br />101. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Lịch sử Việt Nam tập II. NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985.<br />102. Viện Sử học Việt Nam, Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam, Hà Nội, 1960.<br />103. Viện Sử học Việt Nam, Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại, Hà Nội, 1990 - 1992.<br />104. Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh, Một số vấn đề về nhà Nguyễn, Kỷ yếu hội thảo khoa học, TP. Hồ Chí Minh, 1994.<br />105. Viện Lịch sử Đảng, Côn Đảo - địa ngục trần gian (1930 - 1945), Hà Nội, 1985.<br />106. Nguyễn Đắc Xuân, Chín đời chúa mười ba đời vua Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế, 2001.<br />107. Nguyễn Văn Xuân, Phong trào Đông Du, NXB Lá Bối, Sài Gòn. 1970.<br />108. Nguyễn Văn Xuân, Phong trào Duy Tân, NXB Đà Nẵng, 1995.<br />109. Yoshiharu Tsuboi, Nước Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, (bản dịch của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam), Hà Nội, 1993.</span>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-68258325270339438232007-07-30T22:26:00.000-07:002007-07-30T22:27:21.011-07:00VIET NAM GIAI DOAN 1930 - 1945<span style="font-family:times new roman;"><strong>VIỆT NAM TỪ SAU KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM<br />(1930 - 1945)<br /><br />I. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG SAU KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI<br />1. Tình hình đất nước trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới<br /></strong>Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929 - 1933 làm cho nền kinh tế xã hội của tất cả các nước tư bản chủ nghĩa đều bị đình trệ, nền dân chủ tư sản bị thủ tiêu và thay thế vào đó là nền chuyên chính của bọn phát xít. Nước Pháp bước vào khủng hoảng có muộn hơn nhưng lại kéo dài và cũng như nhiều đế quốc khác muốn thoát khỏi tình trạng bi thảm của cuộc khủng hoảng, giới tư bản tài chính Pháp tìm cách trút hậu quả nặng nề của nó lên đầu nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.<br />Đông Dương lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế từ rất sớm và ngày càng trầm trọng. Nông nghiệp bị phá hoại nặng nề do giá nông sản bị sụt nhanh chóng: giá gạo từ 13,1 đ/tạ năm 1930 xuống còn 3,2 đ/tạ năm 1933; giá cao su từ 20 france/kg năm 1929 xuống còn 4 france/kg năm 1931. Hàng ngàn hécta đồng ruộng bị bỏ hoang, hàng trăm đồn điền bị thu hẹp diện tích hoặc ngưng hoạt động. Từ năm 1930 - 1933 diện tích đất hoang hóa từ 200.000 ha - 500.000 ha. Sản xuất gạo giảm từ 1.797.000 tấn năm 1928 xuống còn 959.000 tấn năm 1931.<br />Sản xuất công nghiệp cũng bị đình đốn, nhất là ngành khai mỏ. Hàng loạt nhà máy xí nghiệp đóng cửa, thương mại xuất nhập khẩu đều bị sút giảm, trị giá xuất khẩu giảm từ 18.000.000 đồng Đông Dương (năm 1929) chỉ còn 10.000.000 đồng Đông Dương (năm 1934), hàng vạn công nhân và lao động bị sa thải hoặc nghỉ việc.<br />Để góp phần giải quyết khủng hoảng kinh tế ở chính quốc và giữ cho Đông Dương trong quỹ đạo thực dân, thực dân Pháp cho ngưng lại cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II theo quy mô lớn đang diễn ra, đồng thời chúng khẩn trương áp dụng những biệp pháp cấp thiết ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội.<br />Trước hết là việc Pháp cho thắt chặt hàng rào thuế quan, chỉ ưu tiên cho hàng hóa Pháp vào Đông Dương, kiên quyết giành độc quyền thương mại ở thị trường này. Hàng Pháp vào Đông Dương từ chỗ chỉ chịu mức thuế thấp nhất (2,5%) đến việc miễn thuế hoàn toàn, trong khi hàng các nước vào thị trường này chịu thuế ngày một cao, có thứ phải nộp thuế 100% giá trị hàng hóa.<br />Việc tăng thuế cũng là một biện pháp sớm được chú ý. Thuế thân ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ tăng 20%, thuế môn bài tăng từ 3 - 8 lần. Các biện pháp thu tài chính khác ở Đông Dương như mở công trái, lạc quyên, vay dài hạn… cũng được áp dụng, tất cả đã đem về cho ngân sách liên bang một nguồn thu lớn và tăng nhanh. Chỉ tính năm 1930 có 17 khoản thu ngoài thuế đã đem về cho ngân sách 117.000.000 đồng. Chính phủ Pháp còn quy định lại giá trị đồng bạc Đông Dương, tiến hành thu bạc cũ đổi bạc mới có lượng bạc kém hơn. Chỉ tính khoản thu chênh lệch 7 gram/ đồng đã thu được 49.000.000 đồng.<br />Đối với chủ tư bản người Pháp ở thuộc địa, chính quyền thực hiện “trợ cấp tài chính” để giúp họ khỏi bị phá sản. Một số nhà tư bản được hợp nhất lại cả vốn liếng vào quy mô kinh doanh, tạo ra sức cạnh tranh lớn hơn để tồn tại và phát triển, nhất là trong các ngành trồng lúa, cao su, cà phê. Trong quan hệ chủ - thợ, chính phủ thực dân cho ban hành một số quy chế lao động mới như chế độ lao động đới với phụ nữ, trẻ em, trách nhiệm vi phạm luật lệ lao động, hoà giải tranh chấp về lao động…, nhìn chung là các “qui chế” này chỉ nhằm bảo vệ cho giới chủ tư bản, góp phần xoa dịu bởi mâu thuẫn của giới lao động.<br />Về chính trị - xã hội, chính quyền thực dân ở Đông Dương thi hành chính sách hai mặt. Một mặt là đẩy mạnh các biện pháp văn hóa giáo dục, tuyên truyền lôi kéo người bản xứ, tranh thủ các tầng lớp thượng lưu, tô vẽ cho cái gọi là “văn minh khai hóa”, đề cao tư tưởng chống cộng, coi chống cộng là một chủ thuyết trong các hoạt động chính trị - xã hội.<br />Mặt khác chúng thi hành chính sách khủng bố trắng một cách tàn bạo ở cả thành thị và thôn quê, nhất là từ sau khởi nghĩa Yên Bái tháng 2/1930. Bạo lực của chính quyền thực dân đã gây ra nhiều tổn thất cho các lực lượng yêu nước, nhưng địch vẫn không tạo được sự yên ổn về chính trị và trật tự xã hội, ngược lại nó chỉ làm ngột ngạt thêm không khí ở thuộc địa, làm âm ỉ thêm trong lòng xã hội những ngọn lửa đấu tranh quyết liệt mà thôi.<br />Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội thuộc địa Việt Nam tiếp tục phân hóa, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp tiếp tục tăng lên. Giai cấp nông dân và giai cấp vô sản là hai bộ phận đông đảo nhất trong xã hội, cũng là hai đối tượng chủ yếu của chính sách bóc lột vơ vét của tư bản Pháp ở thuộc địa. Họ lại có đời sống bị bần cùng hóa và hiện đang bị đe dọa trực tiếp bởi nạn chết đói, thất nghiệp không có cách nào chống đỡ. Người Pháp lúc đó đã tận mắt nhìn thấy và loan báo “người ta có thể cầm chắc là nông dân sống ở cái mức cùng cực của đói kém và nghèo khổ”, còn công nhân thì những người chưa bị sa thải có đồng lương “không bao giờ vượt quá từ 2 - 2,5 france/ ngày (tức là 20 - 25 xu/ ngày). Trong các xưởng dệt ngày làm việc từ 7 giờ sáng đế 9 giờ tối, ở các đồn điền công nhân phải làm việc từ 15 - 16 giờ một ngày…”. Do đó các tầng lớp lao động như nông dân, thợ thủ công, vô sản, cùng những người làm nghề tự do ở cả thành thị và thôn quê, đều mong muốn đấu tranh cải thiện đời sống và chống lại xã hội thuộc địa.<br />Song ngay cả trong giai cấp địa chủ, tư bản và tầng lớp thượng lưu bản xứ cũng có những bộ phận gặp nhiều khốn khó vì bị phá sản, bị chèn ép, bị vỡ nợ bởi thuế má ngày một cao và không đủ sức cạnh tranh với tư bản Pháp. Từ năm 1929 - 1933 ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn có 502 vụ án khánh tận và 160 vụ án phát mãi tài sản.<br />Đó cũng là lúc các thuộc địa nói chung, Đông Dương nói riêng, từ trong cùng cực của đời sống kinh tế, phải giải phóng khỏi ách thống trị của ngoại bang bằng chính sức mạnh của mình. Đông Dương trong cuộc khủng hoảng kinh tế không còn bình yên như trước nửa, đã trở thành một Đông Dương sôi động trong sự phân hóa của xã hội thuộc địa. Điều kiện vật chất xã hội ấy là cơ sở cho sự phát triển các tư tưởng mới đang du nhập vào Việt Nam.<br />Tư tưởng tư sản tiếp tục ăn sâu vào nhiều bộ phận xã hội nhưng kể từ sau thất bại của Việt Nam Quốc Dân Đảng, những bộ phận tích cực đi theo đường lối ấy bị thất bại và tan vỡ về tổ chức làm cho nhiều người mất phương hướng, một số đi theo đường lối cải lương thì được tán dương chủ thuyết Pháp - Việt đề huề, hoặc lao sâu vào con đường tiêu cực chống phá cách mạng giải phóng dân tộc. Trong lúc đó tư tưởng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin dần dần chiếm ưu thế. Sự xuất hiện Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm 1930 khác hẳn sự ra đời của các tổ chức chính trị đương thời, đã thu hút sự chú ý của đông đảo các giai tầng xã hội.<br />Sự tuyên truyền chống cộng đã phản tác dụng, vô hình chung lại đề cao chủng nghĩa Cộng sản. Đó cũng là lúc hình ảnh nhà nước công - nông ở Liên Xô đang có sức thuyết phục khá lớn, nhiều dân tộc bị áp bức đang mơ ước chế độ Xô - Viết… Như thế một thời kỳ đấu tranh cách mạng đi theo xu hướng mới nhất định sẽ bùng nổ.<br />2. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh<br />Ở Việt Nam từ năm 1930 trở đi, con đường Cách mạng vô sản đã dẫn dắt nhân dân ta đấu tranh bằng những cao trào rộng lớn. Mở đầu cho những bước phát triển mới là sự bùng nổ cao trào chống đế quốc phong kiến những năm 1930 - 1931, đỉnh cao là sự xuất hiện và tồn tại của các Xô - Viết ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.<br />Không phải là do “Cộng sản kích động” như các quan chức thực dân lúc ấy nhận định, cao trào cách mạng những năm 1930 - 1931 bùng nổ ngay sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái, là hậu quả của những chính sách kinh tế - xã hội của thực dân Pháp ở Đông Dương trong giai đoạn này. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 đã kịp thời đưa ra đường lối phù hợp nhất với nguyện vọng đấu tranh của xã hội lúc đó, vì vậy Đảng Cộng Sản đã trở thành người lãnh đạo phong trào dân tộc.<br />Bắt đầu là những cuộc đấu tranh ôn hòa ủng hộ các chiến sĩ Yên Bái, chống chính sách khủ bố trắng của Pháp, nổ ra từ tháng 2 - 4/1930. Phong trào được mở màn bằng các cuộc bãi công ở đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, lan nhanh ra khắp thành thị và thôn quê ở Bắc - Trung - Nam. Qua đó các Đảng bộ địa phương được thống nhất về tổ chức, quần chúng công nông được tập hợp lại, tinh thần đấu tranh của nhân dân tiếp tục được hâm nóng lên và gây dựng phong trào thành phong trào mới.<br />Ngày 1/5/1930 nhân kỷ niệm Quốc Tế Lao động, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ động giành lấy việc phát động phong trào trên phạm vi toàn quốc với 2 lực lượng đông đảo nhất là vô sản và nông dân cờ đỏ búa liềm lần đầu tiên xuất hiện ở các thành phố lớn và nhiều vùng thôn quê. Những cuộc mít - tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng kỷ niệm ngày 1/5 được tổ chức thật rầm rộ. Trong đó cuộc mít - tinh ở Vinh - Bến Thủy đã bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Quần chúng rất căm phẫn, được nhân dân các vùng xung quanh ủng hộ, họ tiếp tục đấu tranh chống khủng bố.<br />Phong trào của công nông từ Vinh - Bến Thủy lan nhanh sang các huyện, tổng của hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Với sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân theo lời kêu gọi của Xứ ủy Trung Kỳ. Chỉ 3 tháng kể từ 1/5/1930 ở Nghệ An và Hà Tĩnh có 97 cuộc đấu tranh. Đó là bước chuẩn bị trực tiếp đưa phong trào ở đây lên đỉnh cao.<br />Từ cuối tháng 8/1930 những cuộc biểu tình với quy mô lớn ở các vùng nông thôn 2 tình Nghệ An và Hà Tĩnh đã lôi kéo hàng chục ngàn người kết thành một khối, mít - tinh biểu tình, biểu dương lực lượng. Cuộc đấu tranh nọ kế tiếp cuộc đấu tranh kia nổ ra không dứt và chuyển sang bạo động. Ngày 30/8/1930, hơn 3 ngàn nông dân huyện Nam Đàn biểu tình kéo đến huyện lỵ phá huyện đường. Ngày 1/9/1930, gần 20.000 nông dân huyện Thanh Chương đấu tranh với khí giận ngút trời. Ngày 7/9/1930 hơn 3000 nông dân huyện Can Lộc kéo vào huyện đường đốt sổ sách, giấy tờ, sổ sách của chính quyền tay sai, phá nhà lao. Ngày 12/9/1930, hơn 8.000 nông dân huyện Hưng Nguyên biểu tình và bị đàn áp dã man tại ga Yên Xuân nhưng quần chúng vẫn không nao núng, họ càng tập họp đông hơn và xông lên tấn công vào hệ thống chính quyền địch ở cơ sở. Quần chúng nông dân các vùng nông thôn được công nhân các nhà máy, xí nghiệp ở Vinh, Bến Thủy ủng hộ, đã biểu dương sức mạnh đoàn kết, lòng căm thù, ý chí quyết đấu đòi tự do cuộc sống. Trong quá trình đó sự tàn bạo của kẻ thù càng làm cho nhân dân sôi sục.<br />Trước khí thế “xông lên chọc trời” của quần chúng cách mạng, chính quyền thực dân phong kiến ở nhiều nơi của Nghệ An - Hà Tĩnh đã bị tan rã, hoặc tê liệt, bỏ chạy. Trong tình hình đó các chi bộ Đảng và tổ chức Nông Hội Đỏ ở các thôn - xã đứng ra quản lý, điều hành mọi hoạt động trong địa phương thay thế vào vị trí các cơ sở chính quyền địch đã bỏ trống. Dựa theo những hiểu biết sơ lược về chính quyền Xô Viết ở nước Nga qua các tài liệu và báo chí của Đảng, người ta gọi các tổ chức vừa dựng lên là Xã Bộ Nông, Thôn Bộ Nông hoặc các Xô Viết.<br />Mặc dù còn sơ khai nhưng các Xô Viết Nghệ Tĩnh đã có thực chất là một chính quyền cách mạng của công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua Đảng tiên phong của nó. Việc đập tan bộ máy chính quyền cũ, xây dựng bộ máy chính quyền mới, tổ chức một xã hội mới dân chủ tự do thật sự cho nhân dân lao động, tích cực bảo vệ chính quyền vừa giành được…, đó là những nhiệm vụ lớn lao mà các Xô Viết đã bước đấu thực hiện, nhất là các Đảng bộ ở đây chưa sẵn sàng, các điều kiện chủ quan, khách quan, thuận lợi của cách mạng cả nước chưa có, những việc làm tích cực đó còn là sự đột phá táo bạo.<br />Các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh chỉ được tồn tại chưa đầy 8 tháng, kể từ tháng 9/1930, nhưng đã có nhiều cố gắng sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa - xã hội. Đó là những hoạt động bãi bỏ các thứ thuế vô lý, bất công; chia lại đất công cho nông dân nghèo kể cả nam và nữ; quy định lại tô tức; tổ chức sản xuất chung; trợ cấp gia đình thiếu túng; bài trừ phong tục tập quán lạc hậu; lập Đội Tự Vệ Đỏ; xây dựng các đoàn thể quần chúng… Chính bọn tay sai của thực Pháp cũng phải thừa nhận một thực tế trong các Xô Viết: “Họ chôn cất người chết, cấp tiền bạc cho gia đình người chết hoặc bị nạn trong các cuộc biểu tình, cho cả những người nghèo khổ nữa. Họ phát thuốc cho người ốm, xử các vụ kiện tụng. Họ trừng trị những người nghiện thuốc phiện, nghiện rượu và cấm các hội hè cúng tế trong làng…”<br />Xô Viết Nghệ Tĩnh đã thu hút sự chú ý quan tâm của nhiều lực lượng trong, ngoài nước lúc đó. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng Sản Đông Dương, cả nước dấy lên phong trào đấu tranh, ủng hộ Xô Viết, chống khủng bố trắng. Nguyễn Ái Quốc và Quốc Tế Cộng Sản rất chú ý theo dõi và góp ý kiến cho những người cộng sản Đông Dương để bảo vệ các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh. Ở các nước Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ đã có nhiều hoạt động báo chí và xã hội ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh.<br />Còn bọn thực dân phong kiến thì vô cùng hoảng sợ. Chúng cho rằng “Từ khi nước Pháp đặt nền đô hộ trên đất nước này, chưa bao giờ có một nguy cơ nào đe dọa sự an nguy nội bộ của mình lớn hơn, thực sự hơn” và nó “Rất trầm trọng… tầm rộng lớn của nó đã làm chúng ta sửng sốt…”. Chính vì vậy từ Toàn quyền Đông Dương Pasquier, Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol đến các lực lượng tay sai trong chính phủ Nam triều, đều trực tiếp đến Nghệ An - Hà Tĩnh để vạch kế hoạch bình định. Sau đó là hàng loạt biện pháp tàn bạo và nham hiểm cùng với các biện pháp lừa bịp của chúng đã được tung ra để đàn áp các Xô Viết.<br />Đồn bót được dựng lên dày đặc, binh lính các nơi được điều động về, bắn giết bắt bớ giam cầm là những hoạt động đầu tiên của những công cụ bạo lực mà chính quyền thực dân đối phó với phong trào quần chúng. Các chính sách “Lấy quan nhà trị dân nhà”, “Buộc dân cày ra đầu thú” được đem ra áp dụng. Chúng “Phát thẻ quy thuận”, tổ chức “Rước cờ vàng”, chúng lập “Xã đoàn”, dùng sách báo tranh ảnh tuyên truyền vu cáo nói xấu công sản… Trong thực tế lúc ấy địch chỉ cần dùng 1 biện pháp quân sự cũng thừa sức để đàn áp các Xô Viết ở Nghệ Tĩnh, nhưng chúng đã không từ một biện pháp nào kể cả các biện pháp kinh tế xã hội và lừa mị để đánh phá cách mạng. Đến giữa năm 1933 các Xô Viết Nghệ Tĩnh lần lượt thất bại.<br />Tuy nhiên, đó không phải là sự thất bại của đường lối và phương pháp Cách mạng vô sản. Xô Viết Nghệ Tĩnh và cả phong trào cách mạng 1930 - 1931 là minh chứng hùng hồn nhất cho truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm kiên cường, sức sống mãnh liệt và sức sáng tạo phi thường của dân tộc Việt Nam. Nó khẳng định trong thực tế: Đường lối cách mạng, uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng, của giai cấp vô sản Việt Nam. Nó sáng tạo ra nhiều hình thức và phương pháp đấu tranh mới cho cách mạng; đồng thời nó để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho những người yêu nước và cách mạng đang đấu tranh cho nền tự do và độc lập của tổ quốc.<br />Về vị trí của cao trào cách mạng này, Đảng ta đã đánh giá: “Trực tiếp mà nói, không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930 - 1931 trong đó công - nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình thì không thể có cao trào những năm 1936 - 1939”. Cao trào đấu tranh cách mạng 1930 -1 931 đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, là “Bước thắng lợi đấu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển về sau của cách mạng.”<br />3. Đấu tranh cho dân sinh dân chủ những năm 1932 - 1935<br />Những năm sau khi các Xô Viết Nghệ Tĩnh bị dìm trong biển máu, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta gặp nhiều khó khăn do bị tổn thất nhiều cả về lực lượng, tổ chức, phương thức hoạt động cũng không còn thích hợp nữa. Thực dân Pháp triệt để thi hành chính sách khủng bố trắng đối với tất cả những người yêu nước. Hai năm 1930 - 1931 ở Bắc Kỳ có 21 phiên tòa Đại hình xử 1.094 vụ án chính trị. Những năm 1930 - 1933 Hội đồng Đề hình Bắc Kỳ và Toàn án Nam Kỳ kết án 6.902 vụ án chính trị. Chính quyền thuộc địa Đông Dương từ 1930 - 1933 đã bắt giam 246.532 người chủ yếu là các cán bộ, đảng viên Cộng sản. Những cơ sở Đảng và quần chúng tích cực. Các nhà tù Hỏa Lò, Khám Lớn, Kon Tum, Côn Đảo, Lao Bảo, Sơn La… có rất đông các chính trị phạm là những người yêu nước và cách mạng.<br />Mặt khác trong những năm 1931 - 1935 địch cũng buộc phải có những cải cách dân chủ dù rất hạn chế, để củng cố nền thống trị của chúng ở Đông Dương. Tháng 6/1931 Ủy ban điều tra Đông Dương được thành lập để xem xét lại toàn bộ chính sách cai trị của Pháp ở thuộc địa này. Cuối năm 1931 Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp là Paul Reinaud trực tiếp sang Đông Dương xem xét tình hình quyết định chính sách. Từ năm 1932 hàng loạt các cải cách lừa bịp của chúng được triển khai như: cải tổ giáo dục sơ học, cải tổ tư pháp bản xứ, đưa Bảo Đại về nước lập nội các Nam Triều mới, củng cố các Viện Dân Biểu và Hội Đồng Quản Hạt, đưa Bùi Quang Chiêu vào Thượng Hội Đồng Tthuộc Địa ở Pháp, nâng ngạch lương công chức Pháp cho công chức bản xứ, cho tư bản bản xứ tham gia đấu thầu và hưởng “quy chế lao động”, cấp học bổng cho người bản xứ, khuyến khích phát triển tôn giáo, xuất bản các sách báo lãng mạng, sách thần tiên, sách bói toán…<br />Bằng những biện pháp đó thực dân Pháp đã tranh thủ lôi kéo được một số người trong tầng lớp tiểu tư sản và tầng lớp thượng lưu; nhiều người hy vọng vào cái gọi là: “cải cách” của chính quyền thực dân. Nhưng đại đa số là những người tranh thủ những điều kiện thuận lợi để thực hiện nguyện vọng học tập vươn lên của mình hoặc tranh thủ làm ăn kiếm sống và vẫn không quên thân phận một người dân mất nước.<br />Trong hoàn cảnh có những thay đổi như vậy, xã hội thuộc địa xuất hiện những xu hướng mới trên các lĩnh vực văn hóa văn nghệ và tư tưởng. Trào lưu Thơ Mới, văn học lãng mạng với Tự Lực Văn Đoàn,văn học hiện thực phê phán, đó là những dòng văn học ra đời và tồn tại song song những năm 1932 - 1935. Đó là những tiếng nói mới của các bộ phận dân cư trước hiện tình đất nước, là sự chán ghét chế độ thuộc địa với những cách thức khác nhau của đội ngũ trí thức tiểu tư sản. Cuộc đấu tranh giữa Triết học duy vật và Triết học duy tâm, thông qua cuộc tranh luận tiêu biểu giữa Hải Triều và Phan Khôi những năm 1933 - 1934 lại là những xung đột về thế giới quan và nhân sinh quan trong xã hội. Đầu năm 1935 trên báo chí công khai ở thuộc địa, quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh và quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật đã luận chiến với nhau. Chính các cuộc đấu tranh giữa những xu hướng khác nhau trên những lĩnh vực văn hóa tư tưởng trên đây đã góp phần đắc lực vào sự phân hóa xã hội về tư tưởng chính trị. Một bộ phận khá đông những người tư sản, tiểu tư sản trí thức sau đó đã đứng về phái nhân dân lao động, đấu tranh cho quyền lợi dân tộc Việt Nam. Đội ngũ những người yêu nước và cách mạng dưới ngọn cờ cách mạng vô sản ngày một đông.<br />Trong lúc đó, những bộ phận cơ sở Đảng còn lại cũng kiên trì đấu tranh bảo vệ và xây dựng củng cố lực lượng, gây dựng tổ chức, phát triển phong trào của mình. Các xứ ủy lâm thời sau nhiều nỗ lực đã được gây dựng lại ở Bắc Kỳ (1932), ở Nam Kỳ (1933), ở Trung Kỳ (1934), các cơ sở Đảng Cộng Sản Đông Dương cũng được xây dựng ở Campuchia và Lào năm 1934.<br />Tháng 3/1935, được sự giúp đỡ của Quốc Tế Cộng Sản, những người cộng sản Đông Dương đã tiến hành cuộc Đại hội Đảng ở Ma Cao, bầu ra Ban Chấp Hành Trung Ương mới gồm 13 thành viên do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư. Nghị quyết chính trị của Đại hội Đại biểu lần thứ nhất ngày 27 - 31/3/1935 của Đảng Cộng Sản Đông Dương vạch rõ “Thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng kịp thời”. Như vậy về cơ bản, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã được phục hồi về tổ chức.<br />Trước đó, từ năm 1932 cùng với nhu cầu dân chủ ngày càng tăng lên trong xã hội, các hội quần chúng công khai ra đời như hội Tương Tế, hội Cấy, hội Gặt, hội Thể Thao; các nghiệp đoàn cũng hình thành. Đấu tranh công khai, hợp pháp đòi dân sinh, dân chủ trong các tầng lớp nhân dân từ đó cũng dần dần phát triển. Khi hệ thống Đảng Cộng Sản Đông Dương được phục hồi thì phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng công nông cũng được dấy lên mạnh mẽ dưới những hình thức ôn hòa như mít - tinh, biểu tình, bãi công, bãi khóa, bãi thị. Đến năm 1935, bằng sự phục hồi của Đảng Cộng Sản Đông Dương và các lực lượng yêu nước, phong trào dân tộc lại sẵn sàng bước vào một thời kỳ đấu tranh mới.<br />Có thể nói những năm đầu tiên trên con đường Cách mạng vô sản, phong trào dân tộc sau hơn nửa thế kỷ tồn tại, phát triển đã có những yếu tố căn bản được kiểm nghiệm trong thực tế để khẳng định có thể đảm bảo đưa phong trào đến thắng lợi cuối cùng.<br />II. CUỘC VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ 1936 - 1939<br />Những năm 1930 - 1936 chủ nghĩa phát xít đã phát triển thành một trào lưu chính trị và thắng thế ở nhiều nước trên thế giới. Đảng phát xít Ý ra đời năm 1920, đến năm 1922 giành được chính quyền ở Roma. Đảng Quốc xã Đức ra đời năm 1919, đến năm 1933 trở thành Đảng cầm quyền. Ở Nhật, sau cuộc đảo chính bất thành của phái “Sĩ Quan Trẻ”, chính quyền quân phiệt từ năm 1936 chuyển sang phát xít hóa…<br />Chủ nghĩa phát xít, như Quốc Tế Cộng Sản đã khái quát: “Chính là sự tấn công tàn bạo nhất của tư bản chống lại quần chúng lao động”, “Chính là chủ nghĩa Xô Vanh đến cực điểm và là chiến tranh xâm lược”, “là nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, Xô Vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính”. Trên cơ sở nhận thực đó, Đại hội lần thứ VII của Quốc Tế Cộng Sản họp tại Matxcơva tháng 7/1935, chủ trương thành lập Mặt Trận Nhân Dân rộng rãi trên toàn thế giới để chống chủ nghĩa phát xít, chống nguy cơ chiến tranh.<br />Trong xu thế chung của thế giới chống phát xít, tháng 1/1936, Mặt Trận Bình Dân Pháp đã ra đời, mặt trận tập hợp nhiều tổ chức Đảng phái chống phát xít Pháp, trong đó đông đảo nhất là Đảng Xã Hội, Đảng Cấp Tiến, Đảng Cộng Sản, Tổng Liên đoàn Lao động, Tổng Liên đoàn Lao động Thống Nhất. Trong cuộc bầu cử tháng 4/1936, bọn phát xít Pháp hoàn toàn thất bại, lực lượng Dân chủ hoàn toàn thắng thế, chính phủ Mặt Trận Bình Dân được thành lập. Sau đó chính phủ này buộc phải thi hành cương lĩnh dân chủ chống phát xít của Mặt Trận Bình Dân. Đối với các thuộc địa, Mặt Trận Bình Dân chủ trương mở các cuộc điều tra tình hình và thu thập dân nguyện, ban hành các quyền tự do dân chủ, tự do nghiệp đoàn, cải thiện đời sống giới lao động, toàn xá chính trị phạm…<br />1. Phong trào Đông Dương Đại hội 1936<br />Ở Đông Dương từ năm 1935 trở đi, áp lực của cuộc khủng hoảng kinh tế đã phục hồi rất chậm. Các công ty độc quyền của tư bản Pháp ra sức bành trướng thế lực, làm phá sản hàng loạt các chủ tư bản nhỏ người Pháp và người Việt. Chính quyền thuộc địa còn cho tăng thêm thuế thân ở Bắc Kỳ, đặt thêm thuế lợi tức ở Nam Kỳ, các thành thị có thêm thuế cư trú.. Tuy vậy do chính phủ ở chính quốc đã ngả theo xu hường cánh tả nên chính phủ thuộc địa không thể thi hành chính sách khủng bố trắng tàn bạo như trước được nữa. Các tầng lớp nhân dân và cả một số bộ phận thượng lưu đều mong muốn có những thay đổi cần thiết trong đời sống kinh tế - xã hội. Nhất là khi nghe tin chính phủ Pháp sẽ cử ban điều tra của Nghị viện Pháp sang Đông Dương, nhiều người ở thuộc địa tỏ ý trông chờ hi vọng những cải cách đân chủ.<br />Trước sự chuyển biến chung của tình hình, Đảng Cộng Sản Đông Dương đã gửi thư ngỏ cho các tổ chức và nhóm cách mạng ở Đông Dương (4/1936) và thư công khai cho các đồng chí toàn Đảng (6/1936). Cùng lúc đó, Nguyễn Văn Tạo, một đảng viên hoạt động công khai viết cuốn “Mặt Trận Bình Dân Pháp và nguyện vọng của quần chúng Đông Dương”. Ngày 26/7/1936 Hội nghị Thượng Hải của Ban Chấp Hành Trung Ương. Đảng Cộng Sản Đông Dương chủ trương thành lập “Mặt Trận Nhân Dân Phản Đế Đông Dương” để chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo hòa bình. Ngày 29/7/1936 (và sau đó ngày 5/8/1936) nhà trí thức yêu nước Nguyễn An Ninh qua tờ báo La Lutte đã kêu gọi “Tiến tới một Đại hội Đông Dương”, “Hãy bắt tay vào Đại hội Đông Dương” để thảo bản dân nguyện của toàn thể nhân dân Đông Dương. Từ những chỉ đạo và nắm bắt sáng kiến ấy, phong trào Đại hội Đông Dương đã bùng nổ, mở đầu một cao trào đấu tranh dân chủ mới ở Việt Nam. Tại Nam Kỳ ngày 13/8/1936 Ủy ban trù bị Đại hội Đông Dương đầu tiên ra đời ở Hội quán báo Việt Nam (số 78 phố La Grandier, nay đường Lý Tự Trọng) gồm 19 người (có 3 đại biểu Cộng sản). Sau đó các Ủy ban hành động được hình thành khắp nơi cả thành phố, thị xã lẫn nông thôn. Đến tháng 9/1936, Nam Kỳ đã có hơn 600 Ủy ban hành động. Đông nhất là ở các thành thị như Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hòa (riêng Sài Gòn - Chợ Lớn có 31 Ủy bn hành động). Các nhà máy xí nghiệp trường học cũng có Ủy ban hành động, có một phần ba số xã vùng nông thôn lập Ủy ban hành động. Các Ủy ban hành động tổ chức hội họp, mít - tinh sôi nổi, truyền đơn, báo chí cũng cổ vũ vận động cho các Ủy ban hành động hoạt động công khai. Gần một nửa trong số 600 Ủy ban hành động có trụ sở với những Ủy viên thường trực là những cán bộ cách mạng hay những người yêu nước.<br />Tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ tháng 9/1936 các Ủy ban lâm thời Đại hội Đông Dương cũng được ra đời ở Hà nội và Huế, sau đó các Ủy ban hành động hình thành ở các tỉnh xung quanh trong các nhà in, xưởng máy, trong các giới tiểu thương, phụ nữ, nông thôn… đâu đâu cũng nói đến dân nguyện, các cơ sở Ủy ban hành động lần lượt ra đời.<br />Phong trào quần chúng dân lên mạnh mẽ, ảnh hưởng của Đảng Cộng Sản Đông Dương ngày một lan rộng. Thực dân Pháp từ chỗ đối phó thận trọng đến chỗ dung túng cho bọn phản động thuộc địa công khai đàn áp phong trào đồng thời tìm cách lôi kéo, chia rẽ phong trào, xoa dịu quần chúng. Ngày 15/9/1936 Pháp ra lệnh giải tán các Ủy ban hành động ở Nam Kỳ, ngày 19/9/1936 Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp là Mutter cho phép bọn thực dân ở Đông Dương dùng biện pháp thích đáng để dập tắt phong trào Đại hội Đông Dương. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, chính quyền thực dân cũng đã ra lệnh giải tán các Ủy ban hành động ngay khi phong trào vừa phát động.<br />Tuy nhiên với những hoạt động thu thập dân nguyện và tình hình thực tế tại Đông Dương, chính phủ Pháp buộc phải cho ban hành tại thuộc địa một số quyền tự do dân chủ hạn chế. Ngày 11/10/1936, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định về quyền lợi của lao động Đông Dương như chế độ nghỉ Chủ Nhật, chế độ nghỉ phép năm, chế độ ngày làm 8 giờ… Tháng 12/1936 một số chế độ lao động khác được ban hành như học nghề, tiền lương, nghỉ đẻ, cúp phạt để xoa dịu phong trào, chính quyền thực dân còn đồng thời cho ân xá một số chính trị phạm. Năm 1936 có khoảng 1.000 người và đến tháng 10/1937 đã có 1.532 người được ra khỏi các nhà tù đế quốc trở về với phong trào quần chúng. Đầu năm 1937 Quốc hội Pháp phải cử đại diện là Godart sang Đông Dương để thu thập tình hình.<br />Phong trào Đại hội Đông Dương sau đỉnh cao tháng 9/1936 đi vào kết thúc, nhưng được tin có đại diện chính phủ Pháp sang Đông Dương. Phong trào quần chúng lại bùng lên với danh nghĩa đón Godart. Suốt trong tháng 1 và đầu tháng 2/1937 hàng chục vạn người ở khắp Bắc - Trung - Nam đã mít - tinh, biểu tình đón người đại diện nhà nước Pháp đến thuộc địa. Quần chúng mang theo bản “dân nguyện” đòi dân sinh dân chủ, trao cho Godart trên khắp nẻo đường kinh lý ở Đông Dương. Đối với thực dân Pháp ở Đông Dương, phong trào đón Godart rõ ràng là một phong trào công khai của quần chúng lao động chống chế độ phản động thuộc địa của chúng, trong đó người tổ chức và lãnh đạo không ai khác là Đảng Cộng Sản Đông Dương.<br />2. Mặt Ttrận Dân Chủ Đông Dương và sự phát triển của cao trào đấu tranh dân chủ những năm trước chiến tranh<br />Từ năm 1937, theo chủ trương của Đảng Cộng Sản Đông Dương tận dụng các khả năng công khai hợp pháp, Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương và các tổ chức đoàn thể quần chúng của mặt trận như Đoàn Thanh Niên Dân Chủ, Hội Cứu Tế Bình Dân, Công Hội, Nông Hội ra đời. Ở các thành thị và nông thôn lại rất phát triển hội quần chúng như Ái Hữu, Tương Tế, Thể Thao, Âm Nhạc, Kịch, Du Lịch, Chèo, Hội Cấy, Hội Gặt…<br />Để tập hợp các lực lượng khác, Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương thông qua các nhóm cộng sản công khai (nhóm Tin Tức, Ngày Nay ở Bắc Kỳ, Dân Chúng ở Nam Kỳ, một bộ phận trong viện dân biểu ở Trung Kỳ) đã liên minh với các chi nhánh Đảng Xã Hội Pháp, Đảng Lập Hiến, Viện Dân Biểu, lập tổ chức cơ sở của mặt trận.<br />Với việc tổ chức tập hợp nhiều thành phần xã hội, Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương sẽ có vai trò mới trong cuộc đấu tranh, nhất là trong đấu tranh nghị trường. Những cuộc bầu cử Viện Dân Biểu Trung Kỳ, Viện Dân Biểu Bắc Kỳ, Hội Đồng thành phố Hà Nội, Đại Hội đồng kinh tế - tài chính Đông Dương trong 2 năm 1937 - 1938 đã lần đầu tiên gây sự chú ý lớn trong các tầng lớp dân chúng hữu quan, bởi sự tham gia của Mặt Trận Dân Chủ.<br />Chương trình hành động và danh sách ứng cử của Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương đã gây lòng tin và giành thắng lợi cao trong các cuộc bầu cử thời gian này. Cuộc bầu cử Hội đồng thành phố Hà Nội đã có 15 người của Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương trúng cửa, trong đó cựu chính trị phạm Khuất Duy Tiến là người được nhiều phiếu nhất.<br />Những hoạt động đấu tranh công khai hợp pháp của quần chúng ngày một sôi nổi với những hình thức phong phú như mít - tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng, bãi công… Ngày 1/5/1938 tại Hà Nội đã có cuộc biểu dương lực lượng lớn nhất vớ 250.000 người trong khu vực nhà Đấu Xảo để kỷ niệm ngày Quốc Tế Lao Động. Các thành phố cũng thường xuyên nổ ra bãi công, bãi thị, bãi khóa… Nửa cuối năm 1936 có 361 cuộc đấu tranh công khai của quần chúng lao động, năm 1937 lại có gần 400 cuộc đấu tranh của công nhân và hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân, năm 1938 có 135 cuộc bãi công của công nhân và 125 cuộc đấu tranh của nông dân…<br />Như vậy, trong khuôn khổ xã hội thuộc địa, những hoạt động công khai hợp pháp của Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương mà người lĩnh xướng là Đảng Cộng Sản Đông Dương đã đem đến cho phong trào dân tộc một sinh khí mới để phát triển, một sự chuyển biến mới trong cách thức và nội dung đấu tranh, một sự bổ sung mới vào lực lượng tiến hành vào địa bàn diễn tiến. Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương do Đảng Cộng Sản đề xướng và làm nòng cốt, đã có công lớn trong việc phát động cao trào Dân Chủ ở Đông Dương.<br />Mặt khác, trong cao trào Dân Chủ những năm 1936 - 1939, đời sống tư tưởng văn hóa của dân tộc cũng có nhiều thay đổi, phản ánh sự chuyển biến của đời sống kinh tế - xã hội thuộc địa những năm trước chiến tranh.<br />Về tư tưởng, cuộc đấu tranh cho những quan điểm duy vật và tư tưởng yêu nước - cách mạng, vẫn được duy trì đẩy mạnh theo đà phát triển của những năm 1933 - 1935. Đặc biệt trong cuộc đấu tranh của bọn T’rốt - kít vào chủ nghĩa Trotxky, Nguyển Ái Quốc và Đảng Cộng Sản Đông Dương đã sớm vạch mặt những kẻ giả danh cách mạng, bọn này thường hô hào quần chúng “đẩy mạnh cách mạng” nhưng thực tế là để chống lại cách mạng.<br />Phong trào báo chí công khai rầm rộ ở cả Bắc lẫn Nam suốt mấy năm 1936 - 1939. Bắc Kỳ có Notre Voix, Le Travail, En Vant, Tin Tức, Thời Thế, Đời Nay, Bạn Dân; Trung Kỳ có Nhành Lúa, Kinh Tế Tân Văn, Dân, Sông Hương Tục Bản; Nam Kỳ có L’Avantgarde, Le People, Dân Chúng, Lao Động… Đó là những tờ báo cách mạng, như bản cương lĩnh của “Notre - Voix” đã tuyên bố: “Là tiếng nói của những người mong muốn hòa bình, muốn được tự do và hạnh phúc hơn, của những người quyết tâm đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp hơn, đấu tranh chống lại các lực lượng bảo thủ và áp bức xã hội, và chống lại những kẻ gây chiến, chủ nghĩa phát xít trong nước và trên quốc tế”. Chính từ mục tiên dân chủ hòa bình tự do ấy, bằng cuộc đấu tranh của những người làm báo (qua các hội nghị báo chí ở Trung Kỳ ngày 27/3/1937, ở Bắc Kỳ ngày 24/4/1937), ngày 30/8/1938 chính phủ Pháp buộc phải ban hành Luật Tự do báo chí (mặc dù chỉ trong địa phận Nam Kỳ mà thôi).<br />Văn hóa văn nghệ là lĩnh vực có nhiều nét phát triển mới, thể hiện rõ nhất những đổi thay trong đời sống tinh thần của đời sống xã hội. Sách chính trị lần đầu tiên được công khai xuất bản. Cuốn “Vấn Đề Dân Cày” của Qua Ninh và Vân Đình (1937), “Chủ nghĩa Mác” của Hải Triều (1938) và các sách giới thiệu về Liên Xô, Trung Quốc, về Mặt Trận Bình Dân Pháp… nhanh chóng đến với mọi người yêu nước và cách mạng. Thơ Tố Hữu từ năm 1938 đã chinh phục quần chúng yêu nước và đánh dấu sự xuất hiện nền thơ ca cách mạng trong cuộc đấu tranh dân chủ công khai. Trong lúc đó dòng văn học Hiện thực phê phán cũng bước vào thời kỳ sinh sôi nảy nở lấn lướt cả dòng văn học lãng mạng đang đi vào phân hóa. Các tác phẩm Tắt Đèn, Việc Làng (Ngô Tất Tố), Bỉ Vỏ (Nguyên Hồng), Bước Đường Cùng (Nguyễn Công Hoan), Số Đỏ (Vũ Trọng Phụng), Lầm Than (Lang Khai)… trở thành món ăn tinh thần mới của nhiều tầng lớp xã hội. Sân khấu và Lý luận phê bình văn học cũng kịp thời xuất hiện để không bỏ lỡ chuyến tàu dân chủ công khai. Các vở diễn Kim Tiền (Vi Huyền Đắc), Đời Cô Lựu (Trần Hữu Trang) tập trung phản ánh hiện thực, xã hội. Để chống văn hóa ngu dân, phong trào truyền bá chứ quốc ngữ được phát động rộng rãi, nhất là trong các tầng lớp nhân dân lao động. Mở đầu là việc thành lập Hội Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ của cụ Nguyễn Văn Tố. Sau đó là các nơi mở lớp chữ Quốc ngữ, chống thất học và giúp cho quần chúng hiểu biết nhận thức thời cuộc.<br />Đến cuối năm 1938, khi cuộc chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh của chủ nghĩa phát xít càng ráo riết, thì những thuận lợi cho các hoạt động đấu tranh dân chủ hòa bình ngày một ít dần đi. Ở Đông Dương bọn phản động thuộc địa từ cuối năm 1938 đầu năm 1939 bắt đầu ngăn cản và cấm đoàn những hoạt động dân chủ công khai của quần chúng. Tháng 8/1939 sắc lệnh kiểm duyệt báo chí được thực hiện. Tiếp theo là những hoạt động có liên quan đến Đảng Cộng Sản Đông Dương đều bị theo dõi gắt gao. Về phần mình, Đảng Cộng Sản Đông Dương trong “Thông báo tháng 3/1939” đã kêu gọi chống khủng bố. Từ đó Đảng kịp thời rút vào bí mật trước khi địch ra tay khủng bố truy lùng bắt bớ. Cho đến khi Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ (9/1939) phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt Nam đã bị chấm dứt hơn 3 năm phát triển.<br />Cao trào đấu tranh dân chủ công khai những năm1936 - 1939 là một cao trào của quần chúng hiếm có ở xứ thuộc địa. Với cao trào này, lực lượng đấu tranh của dân tộc được hình thành từ thời kỳ 1930 - 1931, gây dựng hồi phục lại những năm 1932 - 1935 nay được củng cố bổ sung thành một đạo quân hùng hậu hàng triệu người ở cả nông thôn và thành thị với nhiều tầng lớp giai cấp khác nhau. Tận dụng mọi khả năng điều kiện thế giới, và trình hình trong nước những năm trước chiến tranh để đưa cả dân tộc và một cuộc vận động cách mạng, với nhiều hình thức hoạt động phong phú, sôi nổi. Đó là thành công lớn, bài học quý báu từ thực tến đấu tranh những năm 1936 - 1939 là hành trang của Đảng Cộng Sản Đông Dương và tất cả những người yêu nước Việt Nam đem theo trong quá trình đấu tranh cho tự do độc lập.<br />III. CÔNG CUỘC CHUẨN BỊ VÀ TIẾN HÀNH TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN<br />1. Tình hình đất nước trong những năm Chiến tranh Thế giới II<br />Chiến tranh thế giới lần thứ haibùng nổ đã chấm dứt cao trào đấu tranh của dân chủ bảo vệ hòa bình. Từ đây thế giới tiến bộ và cách mạng lại bắt đầu thời kỳ mới, tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, mở rộng trận địa cách mạng.<br />Từ châu Âu, chiến tranh lan nhanh sang các châu lục khác. Phát xít Đức - Ý - Nhật sau khi điên cuồng tấn công các nước tư bản khác và hệ thống thuộc địa, chúng đã quay sang tấn công Liên Xô. Một liên minh thế giới lập tức được hình thành gồm Liên Xô - Anh - Pháp - Mỹ và các nước thuộc địa phụ thuộc, tất cả đã phối hợp chống chủ nghĩa phát xít, tạo điều kiện cho nhiều quốc gia dân tộc đứng lên giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do.<br />Nước Pháp nhảy vào vòng chiến làm thay đổi toàn bộ chính sách của họ ở cả chính quốc lẫn thuộc địa. Ngày 25/9/1939 chính phủ Daladir ra lệnh giải tán Đảng Cộng Sản, bắt bớ khủng bố các lực lượng dân chủ tiến bộ, Mặt Trận Bình Dân Pháp hoàn toàn tan vỡ. Ở Đông Dương toàn quyền Catroux ra nghị định cấm mọi hoạt động tuyên truyền cộng sản, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn, giải tán Mặt Trận Dân Chủ, hàng ngàn người yêu nước bị bắt bớ, giam cầm ở trong nước hay bị đày đi biệt xứ. Thống kê của chính phủ Pháp cuối năm 1939, đầu năm 1940, Trung Kỳ và Bắc Kỳ có 43 án tử hình, 153 án chung thân, 2.587 án khổ sai, Nam Kỳ có 800 cán bộ đảng viên bị bắt giam, Thừa Thiên Huế có 65/76 đảng viên bị sa lưới…<br />Cũng như cuộc chiến tranh lần trước, Đông Dương cung cấp sức người sức của cho chính quốc ngày một nhiều, lần này ngay từ những ngày đầu chiến tranh, Pháp đã ráo riết bắt lính, lập thêm sân bay và trại lính, củng cố các quân cảng, huấn luyện quân trù bị, chuyển một số nhà máy sang phục vụ chiến tranh. Toàn quyền Catroux tuyên bố tháng 11/1939 rằng “Đông Dương phải để cho nước Pháp sử dụng nguồn nhân lực của mình… dù có tham gia trực tiếp hay không vào cuộc chiến, Đông Dương cũng không được tự do có phương hướng riêng của nền kinh tế và tài chính của mình mà phải quy tụ nó vào nhũng mục đích có mẫu quốc chỉ định. Đông Dương phải… vì lợi ích của mẫu quốc, cung cấp những sản phẩm của đất đai và trong lòng đất mà nước Pháp đòi hỏi”. Từ sau khi có lệnh Tổng động viên (ngày 3/9/1939 đến tháng 11/1939) đã có 70.000 lính Việt Namsang Pháp, chỉ 2 tháng mà “thuế máu” của bọn thuộc địa này đã tăng gấp rưỡi so với cả cuộc chiến tranh thứ nhất. Còn nguồn vật lực thì huy động ngày một nhiều theo cường độ chiến tranh. Đến cuối năm 1939 đã có 1.500.000 tấn gạo, 66.000 tấn cao su được đưa về Pháp cùng với 57.166.000 đồng thuế các loại; chỉ 8 tháng đầu năm 1940 đã có 37.995 tấn nguyên liệu trị giá 51 triệu france từ Đông Dương về Pháp. Cái gọi là nền “kinh tế chỉ huy” của Pháp ở Đông Dương thực chất là chương trình vơ vét nhân tài vật lực ở thuộc địa ném vào lò lửa chiến tranh, vì thế nó có sức tàn phá rất ghê gớm nền kinh tế và đời sống xã hội ở Đông Dương. Mâu thuẫn của nhân dân Đông Dương với thực dân Pháp và tay sai càng gay gắt, không thể không dẫn đến bùng nổ những cuộc đấu tranh một mất một còn.<br />Giữa năm 1940 chiến tranh ở châu Âu trở nên nóng bỏng với việc phát xít Đức quay nòng súng về phía Tây Âu. Ngày 22/6/1940, Pháp mất nước, chính phủ Pétain ở Vichy trở thành bù nhìn của Đức, còn chính phủ De Gaulle kháng Đức vì lưu vong. Ở châu Á, phát xít Nhật đã chiếm trọn Trung Quốc và chẩn bị tiến chiếm Đông Dương, bành trướng xuống toàn bộ Đông Nam Á. Sự chuyển biến nhanh chóng của chiến tranh đã làm cho các thuộc địa đứng trước một tình hình mới đầy mâu thuẫn phức tạp cùng với những dấu hiệu của một thời cơ thuận lợi cho cuộc vận động giải phóng dân tộc. Ở Đông Dương Đô đốc Decoux thay Catruox làm toàn quyền, hy vọng lập lại thời kỳ chính quyền của các Đô đốc như hồi cuối thế kỷ XIX, nhưng từ ngày 18/6/1940 Nhật đã lợi dụng lúc Pháp mất nước để đòi ưu sách và ngày 22/9/1942 chúng đã đổ quân vào Đông Dương, ném bom Hải Phòng, đánh chiếm Lạng Sơn. Tháng 10/1940, Nhật xúi dục Thái Lan đánh chiếm Lào và Campuchia. Tháng 7/1941 Nhật buộc Pháp ký hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương. Ngày 8/12/1941 Nhật gây ra chiến tranh Thái Bình Dương, Hiệp định quân sự Nhật - Pháp được ký kết, Đông Dương trở thành một căn cứ bàn đạp của Nhật ở Đông Nam Á.<br />Như vậy từ cuối năm 1940 Pháp và Nhật đã cấu kết với nhau cùng thống trị Đông Dương. Pháp vẫn tiếp tục thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy”, vơ vét sức người sức của ở thuộc địa này, nhưng dần dần Pháp trở thành kẻ giữ nhà cho Nhật, cung phụng cho Nhật. Từ năm 1940 - 1945 Pháp cung cấp cho Nhật 6.500.000 tấn gạo, 260.000 tấn ngô, 1.145.000.000 đồng thuế. Phát xít Nhật còn trực tiếp vớ vét nhân tài vật lực ở Đông Dương và thực hiện nhiều chính sách kinh tế rất tàn bạo. Ba mặt hàng Đông Dương sớm xuất sang Nhật là gạo (41.000tấn/1940), than (479.007tấn/1940) và quặng sắt, mangan (41.000tấn/1940). Hàng vạn hécta lúa phải nhổ lên đổ trồng đay, bông, thầu dầu. Chính sách “thu thóc tạ” của Nhật đã hớt tay trên của người nông dân mỗi vụ hàng trăm ngàn tấn lúa ngay khi chưa gặt hái. Trong xã hội xuất hiện nhan nhản các tổ chức đảng phái thân Nhật hoặc thân Pháp như “Đại Việt Xã Hội Quốc Dân Đảng”, “Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội”, “Đông Dương Liên Đoàn Cách Mạng”, “Việt Nam Xã Hội Cách Mạng”, “Việt Nam Cách Mạng Thống Nhất Đảng”… dưới danh nghĩa “dân tộc”, “quốc gia”, nhưng chúng rất tập trung chống phá cách mạng. Ngoài ra nhiều biện Pháp khác lừa mị lôi kéo các tầng lớp nhân dân, ru ngủ thanh thiếu niên được thi hành để đánh lạc hướng đấu tranh dân tộc.<br />2. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam<br />Tình hình diễn ra đúng như Nguyễn Ái Quốc đã dự đoán từ năm 1930 khi cuộc chiến tranh đế quốc lần thứ 2 đang được chuẩn bị rằng “Khi cuộc chiến tranh đó nổ ra, thì nhất định đế quốc Pháp sẽ đẩy anh chị em chúng ta vào một cuộc chém giết đầy tội ác”. Chỉ mới một năm chiến tranh, bọn thực dân phát xít cấu kết nhau gây ra nhiều tai họa cho nhân dân Đông Dương. Chính vì vậy, trước tình cảnh “một cổ hai tròng” áp bức, mâu thuẫn dân tộc ngày càng bức bách, các tầng lớp nhân dân yêu nước cùng lực lượng cách mạng ở các địa phương đã tự động đứng lên đấu tranh.<br />Ngày 27/9/1940, khởi nghĩa Bắc Sơn đã nổ ra trên một vùng rộng lớn của Châu Bắc Sơn (Bắc Ninh). Đó là cuộc khởi nghĩa cục bộ đầu tiên báo hiệu một cao trào mới của phong trào dân tộc đã bắt đầu. Ngày 22/9/1940 Nhật cho quân tràn qua biên giới Việt Trung đánh chiếm lạng Sơn, quân Pháp hoảng sợ bỏ chạy về Thái Nguyên kéo theo sự tan rã, hoang mang của chính quyền địch ở đây. Trước thời cơ đó, quần chúng nhân dân Bắc Sơn có sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã nổi dậy khởi nghĩa vũ trang. Đêm 27/9/1940, quân khởi nghĩa tấn công đồn châu lỵ Mỏ Nhài và đánh chiếm châu lỵ Bắc Sơn. Sau đó Pháp và Nhật đã vội vàng cấu kết với nhau, phản công lại quân khởi nghĩa, nhưng Đảng bộ và nhân dân Bắc Sơn vẫn kiên quyết duy trì lực lượng khởi nghĩa, xây dựng vùng rừng núi Bắc Sơn thành căn cứ địa, lập đội du kích Bắc Sơn để tiếp tục đánh đuổi Nhật. Căn cứ địa Bắc Sơn và đội du kích Bắc Sơn trở thành một trong những địa bàn và lực lượng cách mạng đầu tiên của Cách Mạng Tháng Tám.<br />Được kích thích bởi tiếng súng Bắc Sơn, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã được gấp rút chuẩn bị trên quy mô lớn. Xứ ủy Nam Kỳ Đảng Cộng Sản Đông Dương - người tổ chức lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã chủ trương từ khá sớm, chớp thời cơ chiến tranh phát động khởi nghĩa vũ trang.<br />Tại Hội nghị Xuân Thới Đông tháng 9 năm 1940, những công việc chuẩn bị cho khởi nghĩa đã ráo riết hơn. Hội nghị đã quyết định lấy lá cờ hình chữ nhật màu đỏ có ngôi sao vàng ở giữa làm biểu tượng cho ý chí đấu tranh kiên quyết giành tự do và độc lập, hội nghị còn cử người ra trung ương xin ý kiến chỉ đạo để khởi nghĩa có thêm sự phối hợp của đất nước. Với quyết tâm nổi dậy khởi nghĩa, mặc dù kế hoạch tổ chức đã bại lộ và quân Pháp đã chuẩn bị đàn áp, nhưng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn nổ ra đêm 23/11/1940. Lệnh hoãn từ trung ương không đến kịp với Nam Kỳ, thời cơ khởi nghĩa chưa chín muồi, quần chúng nhân dân và các lực lượng cách mạng của địa phương càng nóng lòng hành động muốn đánh Pháp. Từ đêm ấy đến cuối tháng 12/1940, nhiều địa phương Nam Kỳ đã nổi dậy mà lực lượng đông đảo nhất là quần chúng nông dân có vũ trang thô sơ, một số nơi khởi nghĩa tấn công vào các huyện lỵ và đồn bót địch như Hóc Môn, Vũng Liêm, Tam Bình, Chợ Mới; một số nơi khác ở U Minh, Đồng Tháp Mười quân khởi nghĩa sau khi nổi dậy đã lập đội du kích và xây dựng căn cứ địa. Đến đầu năm 1941, tuy kẻ thù đã tập trung lực lượng chống đỡ và phản kích lại cuộc khởi nghĩa nhưng các lực lượng cách mạng còn lại vẫn kiên trì hoạt động, giữ gìn xây dựng cơ sở chờ đón thời cơ mới.<br />Đầu năm 1941 phong trào của binh sĩ yêu nước cũng có những dấu hiệu mới. Binh sĩ đã biểu tình ở Hải Phòng, Đà Nẵng, Mỹ Tho. Binh sĩ đã tuyệt thực ở Sài Gòn, Quảng Trị, Vĩnh Yên. Binh sĩ mang súng bỏ đồn trại chạy vô rừng ở Tây Ninh, binh sĩ tỏ thái độ chống chiến tranh ở Thủ Dầu Một. Tiếp đó ngày 13/1/1941, binh sĩ ở Đồn Chợ Rạng (Nghệ An) do Đội Cung chỉ huy đã nổi dậy chiếm đồn rồi đánh sang đồn Đô Lương và kéo quân về Vinh. Cuộc binh biến lập tức bị đàn áp khốc liệt nhưng binh sĩ Việt Nam trong quân đội Pháp - một lực lượng mới của phong trào dân tộc, càng thấy rõ hơn bộ mặt của kẻ thù dân tộc.<br />Như vậy, từ khởi nghĩa Bắc Sơn đến khởi nghĩa Nam Kỳ và binh biến Đô Lương, quần chúng yêu nước trước thời cơ chiến tranh, từ Bắc đến Nam dù trong hoàn cảnh và điều kiện nào, cũng có một nhận thức và hành động thiết thực là phải đứng lên chống bọn áp bức dân tộc. Những cuộc khởi nghĩa đầu tiên này tuy sớm bị đàn áp và thất bại, nhưng sức quật khởi của khối quân thù của toàn dân tộc thì không có gì có thể dập tắt được, nó sẽ được hướng vào chẩn bị cho cuộc tổng nổi dậy của toàn dân tộc dưới ngọn cờ chung của những người cộng sản.<br />Tháng 11/1939 Đảng Cộng Sản Đông Dương họp hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương lần thứ VI tại Bà Điểm ( Gia Định) để phân tích tình hình đề ra nhiệm vụ mới cho Cách mạng Việt Nam. Hội nghị đề ra chủ trương “nhiệm vụ cốt chính của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa ra vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp quan trọng”. “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả các vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”.<br />Tháng 11/1940 tròn một năm sau khi đề ra nhiệm vụ mới ấy Đảng Cộng Sản Đông Dương lại họp hội nghị ban ch6p1 hành trung ương lần thứ VII tại Đình Bảng (Bắc Ninh), tiếp tục phân tích nhận định tình hình trước diễn biến mới của chiến tranh, chủ trương thành lập Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất Phản Đế “đặng tranh đấu tiến lên võ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp - Nhật và các lưc lượng phản động ngoại xâm, diệt trừ phong kiến và các hành động phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”.<br />3. Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam<br />Tháng 2/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp cùng những người Cộng sản Đông Dương tổ chức phong trào, lãnh đạo đấu tranh. Tháng 5/1941, sau khi thí điểm xây dựng Mặt Trận Việt Minh ở Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương lần thứ VIII tại Pắc-Pó (Cao Bằng), Với những dự đoán sáng suốt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về diễn biến của chiến tranh đế quốc và triển vọng của phong trào dân tộc, Đảng Cộng Sản Đông Dương tại Hội nghị lịch sử này đã tiếp tục đề ra nhiều chủ trương và chính sách cụ thể có ý nghĩa hoàn chỉnh đường lối và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc trong giai đoạn mới.<br />Hội nghị nhận định “nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đấu tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”., “cuộc đế quốc chiến tranh càng dữ dội, càng tiến mau thì phong trào cách mạng càng do đó mà bành trướng mau lẹ”. Vấn đề giải phóng dân tộc tại hội nghị này không những tiếp tục được đề cao lên hàng đầu và là nhiệm vụ cấp bách nhất, như các hội nghị lần trước đã khẳng định, mà còn được đặt đúng vị trí khuôn khổ quốc gia của nó, dân tộc phải được tự do độc lập và có quyền tự quyết định. Khởi nghĩa vũ trang là con đường tất yếu để thực hiện nhiệm vụ đó, như Hội nghị khẳng định “cuộc Cách mạng Đông Dương kết liễu bằng cuộc khởi nghĩa võ trang” theo cách thức là “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho cuôc tổng khởi nghĩa to lớn”. Do đó chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâmcủa giai đoạn hiện thời, phải bắt tay vào việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc và xây dựng “lực lượng toàn quốc đủ cức gây ra và củng cố cho một cuộc khởi nghĩa”; Chỉ đến khi những điều kiện chủ quan ấy được chuẩn bị đầy đủ thì mới có thể kết hợp được với “điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa Đông Dương như quân Trung Quốc đại thắng quân Nhật, cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật nổi dậy, phe dân chủ đại thắng ở Thái - Bình - Dương, Liên Xô đại thắng cách mạng các thuộc địa Pháp, Nhật sôi nổi và nhất là quân Trung Quốc hay quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương”.<br />Như vậy, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, những người yêu nước và cách mạng ở Việt Nam đã nhận thức đó là thời cơ để đứng lên giải phóng dân tộc. Trong quá trình ấy Đảng Cộng Sản Đông Dương đã kịp thời lãnh đạo phong trào dân tộc, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, đề ra đường lối và phương pháp cách mạng thích hợp nhất với yêu cầu nhiệm vụ lịch sử. Với việc đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và hoàn chỉnh chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, sách lược đấu tranh trong thời kỳ mới, từ giữa năm 1941, cả dân tộc đã bước vào thời kỳ chuẩn bị trực tiếp cho cuộc Cách Mạng Tháng Tám.<br />Ngay sau Hội nghị lần thứ VIII của Đảng, tổ chức “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội” (gọi tắt là Việt Minh), bao gồm các “Hội cứu quốc” đã được thành lập và nhanh chóng phát triển. Mặt trận không chỉ phù hợp với nguyện vọng cứu quốc của đông đảo các tầng lớp nhân dân mà còn đáp ứng được yêu cầu đề cao tinh thần yêu nước và đấu tranh cách mạng của mỗi dân tộc Đông Dương. Chương trình của Việt Minh nói rõ chủ trương “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân, không phân biệt tôn giáo, xu hướng, đảng phái chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật, giành lấy độc lập xứ sở…, hết sức giúp đỡ Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh… để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nhà nước. Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc”.<br />4. Mặt Trận Việt Minh với quá trình chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang<br />Đúng như dự đoán, tháng 6/1941 phát xít Đức tấn công Liên Xô, cuộc chiến tranh thế giới bước sang một thời kỳ mới, trận địa chống chủ nghĩa phát xít mở rộng toàn cầu. Tại Đông Dương, bọn Nhật - Pháp cấu kết với nhau vơ vét, làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với phát xít Nhật - Pháp ngày càng sâu sắc. Mặt Trận Việt Minh chủ trương gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang với quyết tâm đem sức ta tự giải phóng cho ta.<br />Từ cuối năm 1941 đến đầu năm 1943, các Đội Cứu Quốc Quân và các Đội Tự Vệ Chiến Đấu, Đội Xung Phong Nam Tiến lần lượt ra đời và hoạt động nối liền 2 căn cứ địa Bắc Sơn - Phủ Nhai với Cao Bằng; phong trào du kích chiến tranh ở các khu căn cứ được phát động gây thêm thanh thế cho cách mạng, do đó Việt Minh nhanh chóng xây dựng cơ sở phát triển tổ quốc. Ở Bắc Bộ và Trung Bộ đến năm 1942 đã xuất hiện nhiều xã, tổng và châu “hoàn toàn”, nhất là trong tỉnh Cao Bằng. Tại đây Việt Minh đã được thành lập và tập hợp toàn bộ quần chúng nhân dân, các ban Việt Minh làm chức năng của chính quyền cách mạng…<br />Ở Nam Bộ từ sau khởi nghĩa Nam Kỳ, cách mạng gặp nhiều tổn thất nên phát triển khó khăn. Tuy thế cơ sở cách mạng còn lại vẫn duy trì hoạt động gây dựng phong trào nhất là trong giới lao động công nhân và nông dân, đến năm 1943 phong trào đấu tranh ở Nam Bộ đã dần dần hồi phục. Từ tháng 5/1942 - 6/1943 có 24 cuộc đấu tranh của công nhân.<br />Tháng 2/1943 tại Hội nghị Ban thường vụ trung ương ở Võng La (Đông Anh), Đảng Cộng Sản Đông Dương nhận thức: “Phong trào cách mạng Đông Dương có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao” do đó cần mở rộng Mặt Trận Việt Minh và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang cho toàn dân. Bảng “Đề cương văn hóa Việt Nam” được thông qua trong hội nghị Võng La (công bố tháng 2/1943) là hoạt động thiết thực đầu tiên để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới vừa đề ra. “Đề cương văn hóa Việt Nam” cùng với các sách báo của Đảng và Mặt Trận Việt Minh lúc đó như “cờ giải phóng”, “cứu quốc”, tạp chí Cộng Sản đã trở thành vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống văn hóa ngu dân và phản dân tộc của Pháp - Nhật, nó đã tập hợp được cho dân tộc một lực lượng đông đảo các trí thức văn nghệ sĩ đi vào con đường cứ quốc. Chẳng bao lâu Hội Văn Hóa Cứu Quốc ra đời phát triển nhanh ra các thành phố. Tiếp đó tháng 6/1944, được những người cộng sản giúp đỡ, một số tri thức yêu nước còn thành lập Đảng Dân Chủ Việt Nam.<br />Mặt Trận Việt Minh cũng được củng cố phát triển ở nhiều nơi khác trong và ngoài nước những năm 1943 - 1944. Các tỉnh miền núi và trung du Bắc Bộ, Việt Minh đã trở thành người tổ chức lãnh đạo các hoạt động đấu tranh cách mạng ở đại phương còn các tỉnh đồng bằng thì hầu hết các huyện đều có cơ sở Đảng và Việt Minh. Ở nhiều tỉnh ven biển Trung Bộ, cơ sở Đảng và Việt Minh được phát triển trong các giới lao động và các bộ phận tiểu tư sản trí thức đô thị. Ở Nam Bộ từ năm 1943 tổ chức Việt Minh được xây dựng ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh và các nơi khác. Những người Việt Nam yêu nước ở Xiêm, Trung Quốc cũng được tập hợp lại lập các ban Việt Minh ở hải ngoại. Trên cơ sở phong trào Việt Minh lan rộng, những cuộc đấu tranh yêu nước của các tầng lớp nhân dân dưới các hình thức bí mật và công khai được dần dần đẩy mạnh, nhất là với các hoạt động chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.<br />Tháng 5/1944 Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “sửa soạn khởi nghĩa”, tháng 8/1944 Đảng Cộng Sản Đông Dương kêu gọi “sắm vũ khí đuổi thù chung”. Từ đó ở các vùng căn cứ và vùng có Việt Minh phát triển mạnh những hoạt động khởi nghĩa vũ trang được xúc tiến như phổ biến kinh nghiệm khởi nghĩa, học chiến thuật du kích, tổ chức và huấn luyện các đội tự vệ, các tiểu đội du kích, động viên quần chúng tự sắm sửa vũ khí và tìm kiếm vũ khí cho du kích…<br />Đặc biệt là ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Yên, Mặt Trận Việt Minh được xây dựng đều khắp và có hệ thống. Các lớp huấn luyện du kích được mở liên tục, không khí nổi dậy khởi nghĩa sôi sục trong quần chúng. Tháng 10/1944, Pháp mở cuộc càn lớn vào vùng Vũ Nhai (Thái Nguyên), quần chúng được Đảng bộ địa phương tổ chức và rút vào rừng đẩ chuẩn bị cho cuộc bạo động chống Pháp. Liên tỉnh ủy Đảng Cộng Sản Đông Dương Cao Bằng - Bắc Cạn - Lạng Sơn chủ trương phát động chiến tranh du kích trong phạm vi 3 tỉnh. Dấu hiệu của một thời kỳ đấu tranh mới đã xuất hiện cục bộ từ cuối năm 1944, cách mạng đang cần một bước chuyển thích hợp để có thể phát triển nhảy vọt.<br />Tháng 9/1944 đồng chí Nguyễn Ái Quốc (lúc này lấy tên là Hồ Chí Minh) về nước sau 2 năm đi công tác sang Trung Quốc. Trong thời gian đi công tác Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam từ ngày 29/8/1942 đến đầu tháng 9/1943. Trải qua 30 nhà lao ở 13 huyện ở Trung Quốc, tuy có bị tiều tụy về thể xác nhưng ý chí và tâm hồn cách mạng của người không hề giảm sút. Người đã viết “Ngục Trung Nhật Ký” và ngay khi ra tù Người đã lao vào hoạt động không mệt mỏi để nắm bắt tình hình thời cuộc, theo dõi diễn biến cách mạng trong và ngoài nước kịp thời chỉ đạo phong trào dân tộc đang chuyển biến tích cực.<br />Cuối tháng 9/1943, Hồ Chí Minh đề nghị hoãn thi hành “Nghị quyết phát động chiến tranh du kích” các liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng. Tháng 10/1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước kêu gọi toàn quốc chuẩn bị Đại hội Đại biểu để “Trong thì lãnh đạo công việc cứu nước, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang” và người dự báo “cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ trong một năm hoặc năm rưỡi nữa”.<br />Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập đội “Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân”. Ngày 22/10/1944 lễ thành lập được tổ chức tại một khu rừng giữa 2 tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo, Châu Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng. Đội gồm 34 người (có 3 nữ) biên chế thành 3 tiểu đội với 34 khẩu súng đủ loại. Ngay sau đó Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân đã đánh thắng trận đầu với việc hạ đồn Phay Khắt (ngày 24/12/1944) và đồn Nà Ngần (ngày 25/12/1944). Một tuần sau Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân đã phát triển thành một đại đội.<br />Ở Nam Bộ các cơ sở Đảng sau khởi nghĩa Nam Kỳ bị tổn thất lớn; các bộ phận còn lại ra sức móc nối lập lại xứ ủy và liên lạc với trung ương. Nhiều đồng chí cốt cán của Đảng, trong đó có đồng chí Trần Văn Giàu bí thư xứ uỷ được tổ chức trốn khỏi nhà tù đế quốc, góp phần quan trọng vào việc gây dựng phục hồi lại hệ thống Đảng ở Nam Kỳ. Đến năm 1943 với sự ra đời của nhóm giải phóng và Xứ uỷ tiền phong, các Đảng bộ địa phương đã được thành lập lại. Mặc dù có 2 hệ thống xứ ủy chỉ đạo nhưng về cơ bản “xứ ủy” và Đảng bộ địa phương Nam Kỳ vẫn còn chung đường lối đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, vẫn thống nhất về mục tiêu lãnh đạo phong trào quần chúng tiến tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Cuối năm 1944 đầu năm 1945, phong trào cách mạng ở Nam Bộ đã lấy lại khí thế phát triển nhanh của mình và bắt đấu bắt nhịp vào trào lưu chung của cả dân tộc đang chuẩn bị cho bước nhảy vọt lớn khi thời cơ đến.<br />5. Cao trào kháng Nhật cứu nước - tiền đề của Tổng khởi nghĩa<br />Chiến thắng dồn dập của Liên Xô và các lực lượng Đồng minh ở châu Âu tiêu diệt bọn phát xít Đức - Ý tạo điều kiện cho nhiều nước châu Âu được giải phóng. Tháng 8/1944 nước Pháp được giải phóng, chính phủ De Gaulle lên cầm quyền. Ở Đông Dương bọn Nhật - Pháp vừa lo cấu kết với nhau chống phá cách mạng, vừa lo đối phó hất cẳng nhau khi Đồng minh chuẩn bị đánh sang Viễn Đông.<br />Sự hòa hoãn Nhật - Pháp những năm 1940 - 1944, như đồng chí Trường Chinh đã viết trên báo Cờ Giải Phóng (1944), “có khác chi một cái nhọt bọc chứa chất bên trong biết bao vi trùng và máu mủ, chỉ chờ dịp chín nõn là vỡ tung ra”. Hai kẻ thù không thể chung một miếng mồi và để trừ hậu họa, đêm ngày 9/3/1945 Nhật đã tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp, độc quyền chiếm lấy Đông Dương. Quân Pháp từ hoang mang đến bỏ chạy chứ không dám cùng với Việt Minh chống Nhật. Pháp cam chịu làm tù binh của phát xít Nhật, hơn là làm Đồng minh với người thiết tha được độc lập dân tộc, mặc dầu đất nước họ vừa thoát khỏi ách thống trị của phát xít.<br />Chính sách của Nhật ở Đông Dương từ sau ngày 9/3/1945 là kết hợp việc lừa dối, bịp bợm với thủ đoạn bạo lực tàn ác đề cướp bóc về kinh tế, chia sẻ về chính trị, tiến công về quân sự. Chúng đề ra chính sách “dĩ chiến dưỡng chiến” mà thực chất là thực hiện cuộc đánh cướp đại quy mô để thực hiện chính sách Đại Đông Á của chúng. Nhật nắm lấy các công ty, xí nghiệp của Pháp, cho tăng các mức thuế, buộc ngân hàng Pháp cung cấp tiền cho chúng, không đưa hàng hóa của Nhật sang Đông Dương, dùng Đông Dương nuôi chiến tranh ở Đông Dương và vơ vét đem về Nhật. Năm 1944 và năm 1945 nông nghiệp liên tục bị thiên tai và mất mùa, nhưng Đông Dương vẫn phải xuất nộp sang Nhật 900.000 tấn gạo, ngoài số cung cấp cho Nhật - Pháp tại Đông Dương tiêu dùng và tích trữ. Đầu năm 1945 các kho của Pháp tích trữ 500.000 tấn thóc mặc cho giá thóc lúc đó đang ngày một tăng cao, nạn đói đang hoành hành. Bảo Đại chuyển sang hợp tác với Nhật, chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật đỡ đầu tuyên bố “Việt Nam độc lập”. Đảng phái thân Nhật xuất hiện nhan nhản, riêng Bắc Kỳ đã có 30 tổ chức và bọn này lập ra cái gọi là “Đại Việt quốc gia liên minh” làm mặt trận thân Nhật chống lại Mặt Trận Việt Minh. Quân đội Nhật và tay sai liên tục hành quân đánh phá các căn cứ cách mạng, bắt bớ nhiều người dân vô tội. Nhật còn ban hành luật xử chém rất tàn khốc đối với những người yêu nước và cách mạng. Chính sách đàn áp của Nhật làm cho Cách mạng Đông Dương chịu nhiều tổn thất nhưng tội ác của chúng chỉ làm cho ngọn lửa căm thù trong quần chúng nhân dân thêm bốc cao, cuộc nổi dậy từ khối căm thù ấy nhất định không gì cản nổi.<br />Đảng Cộng Sản Đông Dương đã theo dõi sát mối quan hệ Nhật - Pháp và ngày 9/3/1945 khi có dấu hiệu đảo chính, Ban thường vụ trung ương đã họp mở rộng tại Đình Bản (Từ Sơn, Bắc Ninh). Cuộc họp vừa bắt đầu thì tiếng súng đảo chính nổ ran như lời minh hoạ cho những dự đoán chính xác của Đảng. Hội nghị nhận định những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa ở Đông Dương đang đi đến chín muồi một cách nhanh chóng và một cao trào cách mạng nổi dậy. Đó là:<br />1. “Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng)”.<br />2. “Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quan cướp nước)”.<br />3. “Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật)”.<br />Trên cơ sở đó, Hội nghị thường vụ chủ trương thay đổi khoẩu hiệu và phương pháp cách mạng cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới, phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Hội nghị dự kiến thời cơ cho cách mạng bùng nổ nhưng nhấn mạnh việc không ỷ lại vào quân đồng minh … Ngày 12/3/1945 kết thúc hội nghị lịch sử này, bản chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã ra đời. Bản chỉ thị sẽ tiếp tục hướng dẫn các Đảng bộ địa phương, các lực lượng cách mạng và yêu nước một phương pháp phân tích tình hình, phán đoán thời cơ và kịp thời hành động.<br />Ngay sau đó, phong trào “Kháng Nhật cứu nước” đã bùng nổ tại các tỉnh Bắc Bộ đến Trung Bộ. Cuộc đảo chính tuy chưa làm cho kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lâm vào tình trạng hoang mang, dao động cực điểm, nhưng ở địa phương kẻ thù cách mạng đã không thể còn thống trị như trước được nữa, ở đó quần chúng nhân dân cũng muốn nhân cơ hội đảo chính để nổi dậy. Ở Việt Bắc, Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân và Cứu Quốc Quân đã cùng với nhân dân địa phương khởi nghĩa, xóa bỏ bộ máy chính quyền địch ở cơ sở, lập Ủy ban dân tộc giải phóng cao cấp, lập đội du kích, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho tá điền.<br />Tại các nơi địch giam giữ cán bộ cách mạng như : Nghĩa Lộ, Sơn La, Buôn Mê Thuột, Quảng Ngãi, tin đảo chính nhanh chóng truyền đi và bén vào ngọn lửa căm thù của các chính trị phạm. Các chi bộ nhà tù lập tức cho anh em vượt ngục để kịp thời hành động. Chi bộ nhà tù BaTơ quyết định phát động khởi nghĩa ngay từ trong các trại tù và ngày 11/3/1945 các tù nhân BaTơ đã nổi dậy phá đề lao, chiếm đồn trại, lập đội du kích BaTơ cùng quần chúng nhân dân bên ngoài khởi nghĩa giành chính quyền.<br />Trong khi đó ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, với khẩu hiệu “Phá kho thóc cứu nạn đói”, hàng triệu đồng bào vùng lên phá tung các kho tích trữ thóc của Pháp và của Nhật. Hàng chục vạn tấn thóc được lấy ra chia cho nông dân để cứu đói, quần chúng được cứu đói càng hăng hái đấu tranh và tích cực chuẩn bị, sẵn sàng hành động khởi nghĩa.<br />Để giải quyết những vấn đề quân sự của cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới, ngay 15/4/1945 Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ được triệu tập tại Hiệp Hoà (Bắc Ninh). Hội nghị xác định nhiệm vụ quân sự lúc này là quan trọng nhất, cần thiết nhất, phải đẩy mạnh việc xây dựng và thống nhất lực lượng vũ trang cách mạng, phát triển chiến tranh du kích, mở rộng các căn cứ địa.<br />Đầu tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, đặt đại bản doanh trại Tân Trào để chỉ đạo cách mạng cả nước. Ngày 15/5/1945, Cứu Quốc Quân hợp nhất với Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân thành Giải Phóng Quân Việt Nam. Ngay 4/6/1945, khu giải phóng Việt Bắc ra đời gần sáu tỉnh … Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang. Giữa năm 1945 ở Bắc Bộ và Trung Bộ thanh thế của Việt Minh đã lên cao, không khí nổi dậy ngày một sôi nổi, cuộc tổng khởi nghĩa đến gần.<br />Cũng từ giữa năm 1945, ở Nam Bộ phong trào quần chúng bắt đầu bước đến cao trào cách mạng mới. Dựa vào những hoạt động công khai của lực lượng học sinh sinh viên ở các đô thị. Xứ ủy Nam Bộ (Tiền Phong) chủ trương phải nhanh chóng tập hợp lực lượng toàn dân, khẩn trương chuẩn bị nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền theo tinh thần chỉ thị của Đảng. Đầu tháng 6/1945 tổ chức Thanh niên Tiền phong ra đời ở Sài Gòn sau đó phát triển nhanh ra toàn Nam Bộ thành một phong trào quần chúng rộng rãi. Hoạt động của Thanh niên Tiền phong ra đời ở Sài Gòn sau đó phát triển nhanh ra toàn Nam Bộ thành một phong trào quần chúng rộng rãi. Hoạt động của Thanh niên Tiền phong hướng vào 3 công tác chính: huấn luyện chính trị, huấn luyện quân sự và tổ chức các hoạt động xã hội. Nhờ vậy đến tháng 8/1945 Thanh niên Tiền phong đã có hàng triệu đoàn viên ở khắp thành thị và nông thôn. Quần chúng công nông tham gia khá đông đảo vào Thanh niên Tiền phong, tạo cho Cách mạng Nam Bộ có “Sức mạnh Phù Đổng” để kịp thời hoà vào cơn bão táp cách mạng của cả nước sắp nổi lên.<br />6. Cách mạng tháng Tám 1945<br />Từ tháng 4/1945 trở đi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc với việc quân Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. Sau khi 450.000 quân tinh nhuệ bị tiêu diệt ngay tại sào huyệt Berlin, ngày 9/5/1945, phát xít buộc phải đầu hàng quân đồng minh không điều kiện. Tháng 7/1945, với hội nghị Poxdam, số phận của phát xít Nhật ở Viễn Đông cũng được định đoạt. Ngày 6 và 8/8/1945, Mỹ cho ném 2 quả bom nguyên tử huỷ diệt 2 thành phố lớn của Nhật là Hirosima và Nagasaki. Ngày 9/8/1945, Liên Xô tuyên chiến và tiêu diệt đạo quân Quan Đông 1.000.000 tên của Nhật buộc phát xít Nhật phải tuyên bố đầu hàng quân đồng minh không điều kiện ngày 12/8/1945.<br />Nghe tin Nhật đầu hàng, quần chúng nhân dân và các lực lược cách mạng Đông Dương vô cùng phấn khởi, ngọn lửa quật khởi trong lòng dân tộc bỗng bùng lên khắp nơi. Những cuộc mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng do Việt Minh tổ chức có hàng vạn người tham gia. Các tầng lớp trung gian cũng ngã về phía cách mạng. Binh sĩ và cảnh sát cũng tỏ thái độ ủng hộ Việt Minh. Quân đội Nhật ở Đông Dương và chính quyền tay sai của chúng hoang mang rệu rã. Mặc dù chúng cố tình tìm cách cứu nguy bằng những hoạt động “Trao trả độc lập”, “Mời Việt Minh tham gia chính phủ”, nhưng cuối cùng vẫn hoàn toàn bất lực trước sức mạnh quật khởi của quần chúng đã nổi lên rồi.<br />Tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện để cả dân tộc vùng dậy không chờ đợi quân Đồng minh, chỉ cần sự thống nhất ý chí và kiên quyết hành động của toàn dân đem sức ta mà giải phóng cho ta. Cơ hội ngàn năm có một đã đến, phải nhanh chóng giành lấy chính quyền về tay nhân dân, trước khi quân đội các nước Đồng minh kéo vào Đông Dương.<br />Ngày 13/8/1945 Đảng Cộng Sản Đông Dương họp Hội nghị toàn quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do Trường Chinh phụ trách, đêm 13/8/1945 Ủy ban này ra “Quân lệnh số 1” hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 16 và 17/8/1945 Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh chuẩn bị từ trước cũng được triệu tập ở Tân Trào. Sau khi tán thành chủ trương tổng khời nghĩa của Đảng, Quốc dân Đại hội thông qua Lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh, thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”, Quốc Dân Đại Hội cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng do cụ Hồ Chí Minh là Chủ tịch và giao cho Ủy ban này làm nhiệm vụ một chính phủ lâm thời sau khi giành được chính quyền. Quốc Dân Đại Hội còn quyết định quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, quốc thiều là bài hát Tiến Quân Ca. Toàn dân tộc đã có cùng một ý chí quyết tâm “Dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.<br />Ngày 14/8/1945, các đồn Nhật còn lại ở Khu Giải phóng Việt Bắc bị bức hạ, các tỉnh Việt Bắc giải phóng hoàn toàn. Ngày 16/8/1945 giải phóng Thái Nguyên. Ngày 19/8/1945 Việt Minh đã biến cuộc mít - tinh của bọn tay sai thân Nhật thành cuộc biểu dương lực lượng của các tầng lớp nhân dân, sau đó đoàn người biểu tình tỏa đi chiếm các công sở: Phủ Khâm sai, Sở Mật thám, Sở Bưu điện, trại Bảo an binh… Trong ngày 19/8/1945 tổng khởi nghĩa đã thành công ở Hà Nội. Các tỉnh còn lại ở Bắc Bộ cũng nhanh chóng khởi nghĩa, lật đổ hệ thống chính quyền địch, giành chính quyền về tay nhân dân.<br />Ngày 23/8/1945 hàng chục vạn nhân dân Huế biểu tình thị uy tràn đi chiếm các công sở. Cuộc tổng khởi nghĩa thành công ở Huế đã lật đổ cả dinh lũy cuối cùng của chính phủ tay sai thân Nhật, lật nhào cả kinh đô của chế độ phong kiến triều Nguyễn, tạo điều kiện cho nhân dân các tỉnh miền Trung đứng lên giành lại quyền làm chủ vận mệnh của mình. Ngày 30/8/1945, tại cuộc mít - tinh của hàng vạn người ở Ngọ Môn, Bảo Đại đã đọc Chiếu thoái vị, nộp ấn kiếm cho phái đoàn đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.<br />Trong khi đó ở Sài Gòn ngày 25/8/1945 hơn 1.000.000 người dân thành phố và từ các nơi đổ về đã rầm rộ biểu tình, biểu dương lực lượng. Lực lượng khởi nghĩa đã tiến chiếm các cơ quan chính quyền và quân đội địch như Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, Nhà ga Sài Gòn, nhà Bưu điện, Nhà máy đèn… Cùng ngày 25/8/1945 nhiều tỉnh thành Nam Bộ cũng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 28/8/1945 tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Tiên. Ngày 2/9/1945 Côn Đảo giải phóng.<br />Như vậy từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, từ nông thôn lan đến các thành thị và tất cả các địa bàn còn lại, hình thái vận động của cuộc khởi nghĩa thật phong phú. Trong tổng số 65 tỉnh, thành, đặc khu khởi nghĩa, có 36 địa phương khởi nghĩa phát triển từ xã huyện lên tỉnh thành, từ nông thôn đến thành thị, có 15 địa phương khởi nghĩa phát triển ngược lại từ tỉnh lỵ xuống huyện xã, có 11 địa phương khởi nghĩa đồng thời cả thành thị lẫn nông thôn. Khởi nghĩa thành công ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có tính chất quyết định thắng lợi tổng khởi nghĩa trong cả nước. Chỉ trong vòng nửa tháng nổi dậy, nhân dân ta đã giành độc lập tự do từ đất liền đến hải đảo.<br />Cuối tháng 8/1945 Chính phủ lâm thời từ Việt Bắc về Hà Nội. Hồ Chí Minh khẩn trương chuẩn bị buổi lễ ra mắt Chính phủ Việt Nam mới và thảo ra bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Ngày 2/9/1945 hàng chục vạn người mít - tinh tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội) mừng Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt chính phủ, Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên Ngôn Độc Lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bản tuyên ngôn đã khẳng định những chân lý được nêu lên trong các bản Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp và Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ là “những lẽ không ai chối cãi được”. Sau khi lên án tội ác xâm lược, thống trị, bóc lột của thực dân và phát xít, đó là nguyên nhân trực tiếp buộc nhân dân phải nổi dậy khởi nghĩa lật đổ ách thống thị của thực dân, phát xít và tay sai. Tuyên ngôn đã tuyên bố với thế giới và nhân dân cả nước: Cách Mạng Tháng Tám đã thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời. Tuyên ngôn kết thúc bằng việc nêu lên ý chí đanh thép “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.<br />Tổng khởi nghĩa tháng Tám với đỉnh cao là sự ra đời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2/9/1945 là một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, một biến cố vĩ đại, bước ngoặc đánh dấu sự phát triển mới của quá trình đấu tranh của dân tộc vì độc lập tự do. Đánh đổ nền thống trị của ngoại bang gần một thế kỷ, lật nhào ngai vàng phong kiến hơn 1.000 năm, chiến công ấy của cuộc Cách Mạng Tháng Tám còn là mốc son lịch sử của dân tộc hàng ngàn năm và của Việt Nam thế kỷ XX. Từ trong khói lửa của cuộc chiến tranh thế giới và trong bùn nhơ của chế độ thuộc địa, một nước Việt Nam với Quốc kỳ mới, Quốc ca mới, Chính phủ mới, Chế độ mới xuất hiện “sáng lòa” và bước vào kỷ nguyên độc lập - tự do và chủ nghĩa xã hội.<br />*<br />* *<br />Gần một thế kỷ trước, dưới sự thống trị của thực dân, phát xít và phong kiến tay sai, xã hội phong kiến Việt Nam thay đổi toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa; mà dân tộc không có tên trên bản đồ thế giới, tổ quốc của những người con Lạc cháu Hồng bị biến thành nơi giày xéo, vơ vét bóc lột tàn ác của ngoại bang. Nỗi nhục mất nước cùng với nỗi nhục hèn kém bị khinh rẻ nung nấu trong lòng người dân đất Việ, sức quật khởi và đức kiên trì đấu tranh thì không hề bị mai một. Phong trào dân tộc từ đầu thế kỷ XX đã phát triển trong trào lưu “Bừng tỉnh” của phương Đông. Những ngọn cờ yêu nước cách mạng giương lên đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, trong đó ngọn cờ của Nguyễn Ái Quốc còn đáp ứng cả yêu cầu cách mạng của thời đại. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930 đã đưa lịch sử cận đại của dân tộc nửa đầu thế kỷ XX đi hẳn sang một đại lộ mới, sau đó 15 năm dựng lên chế độ Dân chủ Cộng hòa.<br />Truyền thống chống ngoại xâm bất khuất kiên cường của dân tộc và ý chí sức mạnh của dân tộc, của thời đại trong thế kỷ XX đã kết hợp lại trong tiềm tàng của cuộc cách mạng này. Những điều kiện khách quan do chiến tranh thế giới lần thứ II tạo ra thật là quan trọng cho sự chuẩn bị và bùng nổ cuộc tổng khởi nghĩa. Song điều quyết định nhất vẫn là những nhân tố chủ quan của phong trào. Cách Mạng Tháng Tám là thành của của 15 năm đấu tranh lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương, kết quả của gần một thế kỷ đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam từ Nam chí Bắc.<br />Chủ tịch Hồ Chí Minh, người lãnh đạo chủ chốt của Cách Mạng Tháng Tám đã đánh giá: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền trong toàn quốc”. Cách Mạng Tháng Tám đã kết thúc gần một thế kỷ lịch sử cận đại, mở ra thời kỳ lịch sử hiện đại của Việt Nam.</span>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-56850082477031355912007-07-30T22:24:00.002-07:002007-07-30T22:26:15.883-07:00VIET NAM GIAI DOAN 1919 - 1930<span style="font-family:times new roman;"><strong>VIỆT NAM TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ NHẤT ĐẾN NĂM 1930<br /><br />I. CHƯƠNG TRÌNH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA LẦN THỨ II CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ NHỮNG CHUYỂN BIẾN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM<br />1. Thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ II<br /></strong>Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất thực dân Pháp đổ xô sang các thuộc địa để khai thác vơ vét, bóc lột nhằm phục vụ cho khôi phục kinh tế chính quốc và tiếp tục phát triển tư bản. Ở Đông Dương, Toàn quyền Pháp là Albert Sarraut trước khi hết nhiệm kỳ lần thứ hai, đã hứa hẹn trên báo chí về những cải cách mới rộng rãi ở thuộc địa, theo đó cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp được triển khai trên quy mô ngày càng lớn.<br />Đông Dương trong chiến tranh đã tỏ ra là một thuộc địa quan trọng và béo bở nên sau chiến tranh, trong chương trình khai thác thuộc địa mới, tư bản Pháp đẩy mạnh đầu tư vào Đông Dương. Từ năm 1924 đến 1929 riêng tư bản tư nhân đã đầu tư trên 3 tỉ france (từ năm 1888 - 1918 tư bản tư nhân đầu tư vào Đông Dương 492 triệu france).<br />Một số ngành thu hút đầu tư lớn những năm 1924 - 1929 là: nông nghiệp (1.272,6 triệu france), mỏ (653,7 triệu france), công nghệ chế biến (606,2 triệu france), thương mại (363,6 triệu france), giao thông vận tải (104,2 triệu france)…<br />Nông nghiệp là ngành xếp thứ tư trong cuộc khai thác lần trước, lần này nông nghiệp đứng hàng đầu với tốc độ đầu tư tăng vọt từ 52 triệu france (năm 1924) lên 400 triệu france (năm 1927). Cây lúa, cây cao su là hai loại cây trồng chính trong nông nghiệp Việt Nam sau chiến tranh. Diện tích trồng cao su tăng nhanh từ 31.200 ha (1924) lên 99.678 ha (1930), chủ yếu là ở Nam Kỳ (94.804 ha), sản lượng thu hoạch được cũng tăng nhanh: 200 tấn nhựa năm 1913, 6.796 tấn nhựa năm 1924, 10.308 tấn nhựa năm 1929, từ 1924 - 1929 đã xuất cảng 70.417 tấn nhựa chủ yếu sang Pháp (74%). Tuy thế cao su chỉ đem lại 1/80 giá trị sản lượng nông nghiệp thuộc địa, lúa mới là nguồn lợi nhuận chính bởi vì ít vốn, thu lợi nhanh và chắc chắn.<br />Đồn điền lúa ở Việt Nam đến năm 1929 - 1930 là 285.000 ha nhưng diện tích trồng lúa ngoài các đồn điền còn lớn hơn gấp bội và phương thức phát canh thu tô vẫn là chủ yếu để phát triển nghề lúa. Lượng lúa gạo xuất cảng ở Việt Nam sau chiến tranh tiếp tục tăng lên, năm 1919 là 967.000 tấn, năm 1924 là 1.230.000 tấn, năm 1928 là 1.798.000 tấn…<br />Ngoài ra cơ cấu trồng trọt cũng đã được thay đổi từ trước, vì thế sau chiến tranh càng mở rộng, nhất là các cây trồng mang lại nguồn sản phẩm nhanh để xuất khẩu như cà phê, chè, mía, bông, dừa, hồ tiêu…<br />Về công nghiệp, tư bản Pháp đầu tư vốn đứng hàng thứ hai, nhưng kinh doanh trong công nghiệp vẫn làm bùng nổ những cơn sốt mỏ cùng sự đẩy mạnh những ngành công nghệ nhẹ, công nghệ chế biến… Lợi nhuận từ mỏ đã có sức hút lớn nhất, nếu năm 1920 chỉ có 673 giấy phép thăm dò mỏ thì năm 1929 có tới 17.685 giấy. Từ đó ngành khai khoáng tiếp tục vị trí hàng đầu trong công nghiệp thuộc địa, nó đem lại giá trị hàng năm ngày một lớn: 4.600.000 đồng Đông Dương (1919) lên 11.400.000 đồng (1929).<br />Cùng với khai khoáng phát triển ồ ạt là sự mở rộng quy mô các cơ sở công nghiệp khác và sự ra đời thêm hàng loạt công ty công nghiệp mới, nhất là từ năm 1924 trở đi. Công ty than Bắc Kỳ tăng đầu tư từ 4.000.000 france (1888) lên 38.400.000 france (1928), công ty cao su Đông Dương tăng vốn từ 1.500.000 france (1910) lên 15.000.000 france (1929), công ty bông vải sợi Bắc Kỳ vừa tăng thêm vốn đầu tư, vừa mở rộng quy mô từ Hà Nội xuống Nam Định, Hải Phòng, sang Phnôm - Pênh… Các công ty than Hạ Long, công ty than và kim khí Đông Dương, công ty thiếc Chợ Đồn và nhiều cơ sở khai thác mỏ sắt, kẽm, crôm, kền… lần lượt ra đời. Các ngành xay xát, ấn loát, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm và các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng đua nhau mở rộng hoặc mọc lên loang nhanh trên các đô thị.<br />Giao thông vận tải cũng kịp thời phát triển phục vụ cho công cuộc khai thác. Đến năm 1931 Việt Nam đã có 24.000km đường quốc lộ, trong đó 15.000km được rải đá nhựa, nối liền các địa phương trong cả nước. Tuyến đường xuyên Việt tiếp tục được hình thành gồm cả đường bộ và đường sắt. Xe ôtô và xe lửa dần dần trở thành phương tiện vận tải phổ biến, chỉ riêng ôtô ở toàn Đông Dương (chủ yếu là Việt Nam) năm 1921 có 250 xí nghiệp với 700 chiếc, đến năm 1932 có 3.400 xí nghiệp với 4.300 chiếc.<br />Thương mại ở Việt Nam sau chiến tranh trở lại tình trạng như trước chiến tranh, thực dân Pháp độc quyền hoạt động xuất nhập khẩu. Quy mô công cuộc khai thác thuộc địa ngày càng lớn, nên không những xuất nhập khẩu tiếp tục tăng nhanh, mà việc buôn bán trao đổi nội địa cũng không ngừng mở rộng. Gạo, than, cao su là 3 mặt hàng xuất khẩu chính của Việ Nam (chiếm 74,5% tổng kim ngạch xuất khẩu) chủ yếu sang Pháp. Hàng nhập khẩu cũng chủ yếu từ Pháp với các loại xa xỉ phẩm, hàng tiêu dùng, một ít máy công cụ… Thị trường trong nước đã có sự thống nhất giữa các xứ với các lực lượng thương nhân ngày càng đông đảo.<br />Cùng với nền kinh tế chuyển biến ngày một nhanh, nên chính trị ở thuộc địa Việt Nam cũng có những thay đổi theo chiều hướng phục vụ kịp thời cho công cuộc thực dân của người Pháp. Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ mở rộng thêm với số thành viên người Việt tăng từ 6 lên 10 người. Các phòng tư vấn ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ được đổi thành các Viện Dân Biểu (năm 1926), một số cơ quan trung gian được lập thêm như Phòng Thương mại và Canh nông, Hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương. Ở nông thôn thì Hội đồng Tộc biểu được dựng lên thế chỗ cho Hội đồng Kỳ hào. Tại Nam Kỳ còn có sự bổ sung quy chế cho người bản xứ vào làng Tây…<br />Có thể thấy rõ sau chiến tranh thực dân Pháp không thể cai trị thuộc địa như trước được nữa; còn người dân bản xứ cũng đã hiểu rõ hơn giá trị của dân chủ tự do, rằng muốn có cần phải đấu tranh mới giành lấy được.<br />Về văn hóa giáo dục, chính sách ngu dân thì không thay đổi nhưng nền giáo dục học thuật cũ thì không còn phù hợp, cần thiết lập nền giáo dục mới kiểu Pháp thay thế vào. Một hệ thống trường sở đào tạo và nghiên cứu đủ để hoàn thiện giáo dục một con người được hình thành. Tuy vậy, đối với đại đa số quần chúng nhân dân thì giáo dục ấy rất xa vời. Cả Việt Nam số người đi học từ vỡ lòng đến đại học chỉ chiến 1,8% dân số. Nam Kỳ năm 1924 chỉ có 12 % số trẻ em đến tuổi được đi học và cả nước số trẻ đến lớp đúng độ tuổi chỉ 6%. Như thế, sự phát triển giáo dục mới chỉ là thứ bánh vẽ và mang tính chất tượng trưng.<br />Trong lĩnh vực báo chí công khai, Pháp cho phát triển tự do những sách báo có lợi cho chủ nghĩa thực dân. Báo tiếng Pháp và tiếng Việt ở cả Nam - Trung - Bắc đều xuất hiện rầm rộ, nhất là từ năm 1923. Tính theo ấn phẩm có nộp lưu chiểu thì năm 1922 có 96 tờ báo, tạp chí, tập san (trong đó Bắc Kỳ 36 tờ tiếng Pháp, 8 tờ tiếng Việt, Nam Kỳ có 29 tờ tiếng Pháp và 10 tờ tiếng Việt, Trung Kỳ có 2 tờ tiếng Pháp và 1 tờ tiếng Việt). Đến năm 1925 có 121 tờ (trong đó Bắc Kỳ có 69 tờ, Nam Kỳ có 49 tờ), năm 1929 có 153 tờ (trong đó Bắc Kỳ 72 tờ, Nam Kỳ 71 tờ, Trung Kỳ có 10 tờ).<br />Bên cạnh các tờ báo, tạp chí tiếp tục tuyên truyền cho công cuộc thực dân như Nam Phong, Trung Bắc Tân Văn, Gia Định Báo… các tờ báo, tạp chí mới như Tiếng Chuông Rè, An Nam, Hữu Thanh, Tiếng Dân… lại tuyên truyền cho tư tưởng tiến bộ và cách mạng. Các Thư xã như Nam Đồng Thư Xã, Giác Quần Thư Xã… là nơi tập hợp nhiều tri thức tiến bộ, xuất bản nhiều tác phẩm có tếng vang lớn. Báo chí cách mạng từ giữa năm 1925 trở đi bắt đầu xuất hiện, chủ yếu phát hành bí mật. Tờ “Thanh Niên”, tác phẩm “Đường Cách Mệnh” và nhiều tờ báo, tạp chí các mạng khác những năm 1925 - 1930 đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.<br />2. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam<br />Trước tác động công khai của công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, xã hội Việt Nam tiếp tục bị phân hóa sâu sắc, trong đó có các giai cấp mới đã kết thúc quá trình ra đời để bước vào đấu trường cách mạng.<br />+ Giai cấp công nhân sau hơn 30 năm hình thành và phát triển đến năm 1929 đã có lực lượng 220.000 công nhân chuyên nghiệp. Tuy số lượng chỉ chiếm 1,3% dân số nhưng đây cũng là tình trạng chung của các thuộc địa. Mặt khác, giai cấp công nhân quốc tế, lại mang những đặc điểm riêng của một dân tộc đang đấu tranh chống đế quốc phong kiến.<br />Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, phong trào công nhân quốc tế chịu ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, đã phát triển mạnh mẽ và tác động đến các thuộc địa giai cấp công nhân Việt Nam đã hòa vào không khí đó để đấu tranh và trưởng thành. Đặc biệt, những năm 20 của thế kỷ này sự truyền bá chủ chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã giúp cho giai cấp công nhân rút ngắn thời kỳ phát triển tự phát của mình để chuyển sang thời kỳ tự giác. Đến đầu năm 1930 giai cấp công nhân đã thành lập được Bộ Tham mưu giai cấp của mình là Đảng Cộng Sản Việt Nam.<br />+ Giai cấp tư sản Việt Nam sau chiến tranh không còn điều kiện thuận lợi như trong thời kỳ chiến tranh, nhưng cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai vẫn lôi cuốn họ tiếp tục phát triển trưởng thành. Lực lượng ngày một đông ở cả 3 kỳ, tư sản Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành Công - Nông - Thương, nhưng vốn liếng của họ chỉ bằng 5% so với vốn tư bản nước ngoài. Trong quá trình làm ăn phát triển, tư sản Việt Nam lại không thể đoạn tuyệt mà còn phải liên hệ thường xuyên với cả đế quốc lẫn phong kiến và tư bản ngoại quốc khác. Tư sản Việt Nam sớm có ý thức đấu tranh giai cấp nhưng không vượt qua được hạn chế yếu đuối của mình để kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc.<br />+ Tiểu tư sản thành thị tăng trưởng không ngừng từ đầu thế kỷ XX đến sau đại chiến. Năm 1929 các thành thị có khoảng 500.000 dân và theo đà phát triển của các đô thị, các bộ phận tiểu tư sản ở đây sẽ tiếp tục chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu dân cư. Mặt khác sau chiến tranh, các giai cấp tư sản và vô sản đều trường thành nhanh, sự du nhập tư tưởng mới cùng với sự chuyển biến nền kinh tế - xã hội trong nước diễn ra dồn dập, cuộc đấu tranh xã hội trong hoàn cảnh mới này cũng ngày một sổi nổi… Trong điều kiện ấy, tiểu tư sản đã vươn lên về chính trị, trở thành lực lượng đấu tranh yêu nước khá hùng hậu ở các đô thị và có những bộ phận đã dũng cảm giương lên ngọn cờ dân tộc tư sản.<br />+ Địa chủ phong kiến và nông dân, thợ thủ công ở nông thôn là hai giai cấp có số lượng lớn đông đảo nhất trong xã hội và sự phân hóa của các giai cấp này sau chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra theo chiều hướng đã có ở đầu thế kỷ XX. Địa chủ phong kiến thống trị thì ngày càng lún sâu vào con đường làm tay sai cho ngoại bang khai thác bóc lột nhân dân; còn nông dân bị trị thì không ngừng bị bần cùng hóa và không lối thoát, đã nổi dậy đấu tranh và sẵn sàng đi theo các giai cấp tiên tiến làm cuộc cách mạng xã hội.<br />Sự phân hóa thuần thục của xã hội Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa làm cho các giai tầng trong xã hội bộc lộ hết khả năng và bản chất của mình. Mâu thuẫn xã hội giữa toàn thể dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa đế quốc, giữa các giai cấp bị trị mà đại biểu đông nhất là nông dân và giai cấp thống trị mà đại biểu đông nhất là địa chủ phong kiến, ngày càng gay gắt, không thể điều hòa. Phong trào đấu tranh cách mạng bùng nổ mạnh mẽ sau chiến tranh, trước hết bắt nguồn từ những mâu thuẫn căn bản đó.<br />Công cuộc đấu tranh cách mạng giai đoạn này sẽ rất gay go, quyết liệt, phức tạp khi các giai cấp cùng xung trận sau quá trình phát triển trưởng thành. Cách mạng Việt Nam đi đến đâu là tùy thuộc trước hết ở việc giai cấp nào giành được bá quyền lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là nội dung chủ yếu của thời kỳ có tính chất bản lề, mười năm sau chiến tranh (1919 - 1929).<br />II. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI<br />1. Phong trào yêu nước<br />Sau chiến tranh thế giới lần I, dưới ảnh hưởng hoàn cảnh lịch sử mới (cả trong nước và thế giới), phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam có bước phát triển mới, với sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều hình thức đấu tranh phong phú, nhất là phong trào ở đô thị.<br />- Giai cấp tư sản dân tộc nhân đà làm ăn thuận lợi từ trong chiến tranh muốn vươn lên giành lấy vị trí khá hơn trong nền kinh tế Việt Nam sau chiến tranh.<br />Năm 1919, tư sản gây phong trào “chấn hưng hàng nội hóa, bài trừ hàng ngoại hóa”. Thực chất đây là cuộc xung đột quyền lợi của tư sản Việt Nam với các thế lực tư bản nước ngoài. Năm 1923, tư sản dân tộc lại tổ chức đấu tranh chống độc quyền xuất nhập khẩu cảng Sài Gòn và độc quyền xuất khẩu lúa gạo Nam kỳ của tư bản Pháp.<br />Về chính trị, một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam kỳ (đại biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long…) đứng ra tổ chức Đảng Lập hiến để tập hợp lực lượng, rồi đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ để tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, dùng áp lực quần chúng để đòi Pháp nhiều quyền lợi.<br />Nhưng khi được thực dân Pháp nhượng bộ cho ít quyền lợi như cho tham gia Hội đồng Quản hạt Nam kỳ thì họ sẵn sàng thỏa hiệp với Pháp. Đến đây thì họ bị phong trào quần chúng vượt qua.<br />Từ năm 1925, khi phong trào quần chúng lên cao, những người theo Đảng Lập hiến chuyển từ chủ nghĩa quốc gia dân tộc cải lương sang lập trường chính trị phản động, gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa thực dân. Đến đây phong trào tư sản xẹp xuống.<br />- Tiểu tư sản trí thức đã thể hiện lòng yêu nước của mình bằng nhiều cách. Ngoài việc tham gia vào các phong trào yêu nước, dân chủ công khai lúc bấy giờ, họ đã tập hợp nhau lại trong những tổ chức yêu nước mới, tiến hành đấu tranh có tổ chức.<br />Nhiều tổ chức chính trị yêu nước của trí thức, nhà văn, nhà giáo, nhà báo, thanh niên, sinh viên, học sinh… đã ra đời, như Tâm Tâm Xã (1923), Việt Nam Nghĩa đoàn (1925), Hội Phục Việt (1925), Đảng Thanh Niên (1926)…<br />Các tổ chức đã cho ra đời những tờ báo tiến bộ, như Chuông Rè, An Nam, Nước Nam trẻ, Người nhà quê… ở Sài Gòn hoặc Hữn Thanh ở Hà Nội… Họ còn lập ra những nhà xuất bản tiến bộ, nhưng Cường học Thư xã (Sài Gòn), Nam Đồng thư xã (Hà Nội)… Họ dùng sách báo làm phương tiện truyền bá tư tưởng yêu nước, tiến bộ, nêu quan điểm, lập trường chính trị của mình.<br />Các tổ chức cũng đẩy mạnh các hoạt động yêu nước, như tổ chức những cuộc biểu tình, mít tinh…, những cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp và cả đấu tranh bất hợp pháp. Hoạt động có tiếng vang mạnh mẽ nhất lúc bấy giờ là vụ Phạm Hồng Thái mưu sát Toàn quyền Méclanh, vụ đòi thả Phan Bội Châu và vụ để tang Phan Châu Trinh.<br />Tháng 6-1924, Toàn quyền Đông Dương Méclanh sang Nhật và Trung Quốc để câu kết với chính quyền phản động hai nước này phá hoại cách mạng Việt Nam. Tâm Tâm Xã giao cho Phạm Hồng Thái trừ khử Méclanh trong dịp này. Nhân lúc Méclanh nghỉ tại Sa Diện (Quảng Châu - Trung Quốc), Phạm Hồng Thái cải trang thành phóng viên nhiếp ảnh vào khách sạn ném tạc đạn vào bàn tiệc chiêu đãi Méclanh. Kết quả 4 tên thực dân đi cùng chết tại chỗ, 2 tên bị thương nhưng rất tiếc Méclanh thoát chết. Bị vây đuổi ráo riết, Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông Châu Giang tự vẫn.<br />Cuộc mưu sát không thành, nhưng hành động dũng cảm của Phạm Hồng Thái đã gây tiếng vang lớn ở trong và ngoài nước.<br />Sau chiến tranh thế giới lần I, Phan Bội Châu tiếp tục hoạt động ở Trung Quốc. Giữa năm 1925, ông bị Pháp bắt ở Thượng Hải và bí mật đưa về Việt Nam giam ở Hỏa Lò (Hà Nội). Mặc dù Pháp bưng bít nhưng một phong trào quần chúng đòi thả Phan Bội Châu bùng lên sôi nổi trong cả nước, lan tận sang Pháp. Cuối cùng, thực dân Pháp phải tha bổng Phan Bội Châu, nhưng chúng giam lỏng ông ở Huế cho đến khi qua đời.<br />Năm 1925, sau một thời gian bị đưa sang Paris, thực dân Pháp đưa Phan Châu Trinh về lại Việt Nam với mục đích lợi dụng tư tưởng cải lương "Pháp - Việt đề huề" của ông để đánh lạc hướng phong trào cách mạng đang lên. Nhưng chỉ sau một năm, ngày 24-3-1926, Phan Châu Trinh qua đời sau một trận ốm nặng. Cái chết đột ngột của Phan Châu Trinh đã khơi dậy mối cảm tình, thương tiếc sâu sắc của nhân dân trong cả nước. Tại Sài Gòn, đám tang đưa Phan Châu Trinh về nơi an nghỉ cuối cùng đã lôi cuốn đến 14 vạn người đủ mọi tầng lớp xã hội, bất chấp sự ngăn cấm của thực dân Pháp.<br />Trong những năm 1925 - 1926 còn có phong trào của các lực lượng dân tộc dân chủ đòi thực dân Pháp thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh, đón rước Bùi Quang Chiêu…<br />2. Phong trào công nhân<br />Sau chiến tranh Thế giới I, phong trào công nhân cũng có bước phát triển mới cả về số lượng và chất lượng. Các hình thức đấu tranh như bỏ việc, phá giao kèo, đánh bọn cai ký, biểu tình tập thể đưa yêu sách, đặc biệt nhất là bãi công - một hình thức đấu tranh đặc trưng của công nhân chống lại chủ tư bản - được áp dụng phổ biến trong giai đoạn này.<br />Trước hết có thể kể đến là các cuộc đấu tranh của công nhân và thủy thủ Pháp tại Việt Nam (1919), tiếp đó là của công nhân va thủy thủ Trung Quốc tại các cảng lớn như Hồng Kông, Thượng Hải (1921)… đã có ảnh hưởng lớn, góp phần cổ vũ, động viên công nhân Việt Nam hăng hái đấu tranh.<br />Năm 1920, công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn bí mật lập ra Công Hội Đỏ do Tôn Đức Thắng đứng đầu.<br />Năm 1922, công nhân viên chức các cơ sở công thương của tư nhân ở Bắc kỳ bãi công đòi nghỉ ngày Chủ nhật có lương. Tháng 11-1922, 600 thợ làm tại các lò nhuộm ở Chợ Lớn đấu tranh phản đối chủ cắt bớt lương. Năm 1924 nổ ra nhiều cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay gạo ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương…<br />Đáng chú ý nhất cuộc bãi công của hơn 1.000 công nhân xưởng máy Ba Son (Sài Gòn) vào tháng 8-1925.<br />Tháng 8/1925, thực dân Pháp đưa đến xưởng Ba Son chiếc tàu chiến Jules Michelet để sửa chữa và sau đó sẽ chở binh lính đi đàn áp cách mạng Trung Quốc. Trước tình hình đó, Tôn Đức Thắng cùng ban chấp hành Công Hội lãnh đạo công nhân Ba Son đấu tranh bãi công và sau đó tìm cách lãn công nhằm kéo dài thời gian sửa tàu Michelet để làm chậm bước đi của quân Pháp, góp phần giúp đỡ cho phong trào cách mạng Trung Quốc.<br />Cuộc bãi công thắng lợi của công nhân Ba Son đã phản ánh trình độ tổ chức, ý thức giác ngộ cách mạng và tinh thần quốc tế vô sản của đội ngũ công nhân Sài Gòn nói riêng và cho cách mạng Việt Nam nói chung. Cuộc bãi công Ba Son còn đánh dấu bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam, mở đầu thời kỳ giai cấp công nhân Việt Nam đi vào đấu tranh tự giác.<br />III. QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀO VIỆT NAM<br />1. Hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc<br />Nằm trong vòng thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, Việt Nam sau chiến tranh cũng sớm thành một bộ phận của cách mạng thế giới. Chịu ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, cơ bão táp cách mạng thế giới những năm 1918 - 1923 tràn đến nhiều quốc gia châu lục, cả các nước tư bản lẫn các nước thuộc địa, phụ thuộc.<br />Mặc dù thực dân Pháp ra sức phong tỏa, công kích, bao vậy, ngăn chặn bằng nhiều cách để không cho Cách mạng Việt Nam tiếp xúc và đi theo xu hướng cách mạng mới của thời đại, nhưng ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười và tư tưởng Vô sản vẫn đến với những người yêu nước Việt Nam đang bôn ba tìm đường cứu nước. Từ nước ngoài, ngọn cờ cách mạng dân tộc được phất lên không phải ở Nhật hay Trung Quốc mà ngay ở nước Pháp; không phải từ tay các sỹ phu cấp tiến hay giai cấp tư sản mà là từ bộ phận những người lao động yêu nước, trong đó tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc.<br />Nguyễn Ái Quốc (1890 - 1969) sinh ra trong một gia đình nhà Nho có nguồn gốc nông dân ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ của Nguyễn Ái Quốc từng đậu Phó bảng (năm 1901) và ra làm quan trong Bộ Lễ triều đình nhà Nguyễn rồi làm Tri huyện, trước khi ông trở lại làm dân thường (1910). Quá trình đó Nguyễn Ái Quốc đã được học chữ Hán rồi vào trường Quốc học Huế, vừa dạy học vừa tham gia hoạt động yêu nước. Ngày 5/6/1911 người thanh niên 21 tuổi Nguyễn Ái Quốc xuống tàu La Touche Treville đi sang Pháp mở đầu cho quá trình 10 năm bôn ba tìm đường cứu nước theo con đường riêng của mình.<br />Bằng quá trình lao động, học hỏi, tìm kiếm, khảo sát; bằng thực tế đấu tranh và hoạt động trong phong trào quần chúng ở Paris, năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm gặp chủ nghĩa Mác - Lênin. Tại Đại hội lần thứ 20 của Đảng Xã Hội Pháp ở thành phố Tua (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã cùng các đồng chí chân chính trong Đảng này bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba - Quốc Tế Cộng Sản. Người tham gia sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp và trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.<br />Kết quả này kết thúc mười năm tìm đường cứu nước và chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó bắt đầu quá trình truyền bá chủ nghĩa yêu nước bậc cao ấy - chủ nghĩa yêu nước cách mạng có nội dung mới của chủ nghĩa Mác - Lênin - vào Việt Nam.<br />2. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam<br />Không giống như sự du nhập tư tưởng dân chủ tư sản trước đó và cùng lúc đó, sự du nhập tư tưởng dân chủ vô sản vào Việt Nam lúc kẻ thù của cách mạng đã rất có ý thức đề cao tư tưởng chống cộng trên phạm vi toàn thế giới, còn ở trong nước cái gọi là “tự do dân chủ” đang gây nên những ảo vọng trong khá đông dân chúng, nhất là tầng lớp trí thức. Trong hoàn cảnh ấy, những người yêu nước cũng có những suy nghĩ và hành động thực tế hơn, học đến với tư tưởng mới không phải bằng hình mẫu quá lớn như nước Nhật hùng cường hay Cách mạng Tân Hợi (Trung Quốc), mà bằng thực tế đấu tranh và kiểm nghiệm, trong một quá trình dài khoảng mười năm, dưới tác động của những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.<br />Hoạt động ở Pháp những năm 1921 - 1923, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần quan trọng vào việc tập hợp lực lượng những người yêu nước Việt Nam và các thuộc địa nói chung, khơi dậy trong họ lòng yêu nước, chí căm thù, giúp họ phân biệt bạn và thù. Đó cũng là lúc ở trong nước phong trào văn hóa báo chí bùng nổ, các tầng lớp giai cấp đấu tranh mạnh mẽ trên cả lĩnh vực kinh tế chính trị và đạt đến đỉnh cao nhất với sự ra đời và hoạt động của Đảng Lập Hiến.<br />Một mặt là, sách báo, tài liệu của Nguyễn Ái Quốc bí mật chuyển về trong nước, một mặt là ảnh hưởng của phong trào công nhân quốc tế đến với công nhân, thủy thủ, lính thợ và lính chiến Việt Nam; sự yếu kém của phong trào tư sản dân tộc, cùng sự tự lột mặt nạ của chính sách dân chủ lừa bịp của thực dân Pháp. Tất cả những yếu tố ấy dọn đường cho sự du nhập con đường Cách mạng vô sản vào Việt Nam, bất chấp những bức rào sắt chống cộng của thực dân - đế quốc và phản động bủa vây quanh các thuộc địa.<br />Hoạt động ở Liên Xô những năm 1923 - 1924, Nguyễn Ái Quốc đã có đóng góp quan trọng nhất vào việc định hình đường lối cách mạng ở Việt Nam. Sự ngưỡng mộ Lênin và đất nước Cách mạng tháng Mười đã thôi thúc Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu nhiều vấn đề căn bản của chủ nghĩa Lênin về vấn đề giải phóng dân tộc. Thực tế công cuộc kiến thiết ở Liên bang Xô Viết những năm 1922 - 1924 đang bắt đầu giành những thắng lợi trong chính sách kinh tế mới, để chuẩn bị bước vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Lượng thông tin về các thuộc địa sau chiến tranh thật phong phú qua báo chí của nhiều tổ chức đoàn thể quốc tế và Xô Viết xuất bản ở Liên Xô.<br />Trên những cơ sở ấy, Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên đã trình bày trong các diễn đàn của Quốc Tế Cộng Sản những quan điểm của mình về cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương và các thuộc địa nói chung. Nguyễn Ái Quốc trở thành lãnh tụ mới của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ xuất sắc của phong trào giải phóng dân tộc.<br />Với cương vị Ủy viên phương Đông, trực tiếp phụ trách cục phương Nam của Quốc Tế Cộng Sản, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu có kế hoạch “trở về giúp đồng bào chúng ta” như dự định từ năm 1911 lúc ra đi. Nguyễn Ái Quốc còn tiếp tục tìm hiểu kinh nghiệm của Liên Xô về xây dựng Đảng Cộng Sản và chính quyền Xô Viết, sau đó Nguyễn Ái Quốc rời Matxcơva đi về phương Đông, hướng những hoạt động của mình về gần Tổ quốc.<br />Tháng 12/1924 Nguyễn Ái Quốc đã đến Trung Quốc trên con đường “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh học, tổ chức họ, đoàn kết học, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Song đó là công việc không chỉ của một người, mà là của cả một thế hệ và phải có tổ chức.<br />Cuối năm 1924 trong cuộc gặp gỡ những người yêu nước Việt Nam ở Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chọn một số thanh niên nhiệt tình nhất trong tổ chức Tâm Tâm Xã (như Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Vương Thúc Oánh…) để huấn luyện làm nòng cốt. Đến tháng 6/1925 Nguyễn Ái Quốc lập ra một tổ chức mới là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, gọi tắt là Đảng Thanh Niên.<br />Hoạt động chủ yếu của Đảng Thanh Niên là mở lớp đào tạo cán bộ, tuyên truyền cách mạng và phát triển tổ chức về trong nước.<br />Từ năm 1925 đến năm 1927 Đảng Thanh Niên đã đào tạo được khoảng 200 cán bộ đưa về nước hoạt động hoặc gửi đi học ở Luên Xô, Trung Quốc. Đó là những hạt giống đỏ đầu tiên của Cách mạng Việt Nam.<br />Việc tuyên truyền cách mạng là nhiệm vụ trung tâm của Đảng Thanh Niên. Cơ quan tuyên truyền là tờ báo Thanh Niên, từ tháng 6/1925 đến tháng 4/1927 báo ra được 88 số, sau đó báo ra tiếp tục được 112 số nữa mới chấm dứt, khi đó đã có hàng chục tờ báo cách mạng khác ra đời kế tục sự nghiệp của báo Thanh Niên. Báo Thanh Niên đã góp phần to lớn vào việc truyền bá một tư tưởng mới.<br />Năm 1927 Hội Liên Hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông cho xuất bản tác phẩm “Đường Cách Mệnh” của Nguyễn Ái Quốc để trang bị cho những người yêu nước những kiến thức cơ bản về Cách mạng vô sản ở Việt Nam, về phương pháp tuyên truyền cách mạng.<br />Từ năm 1926 những chi hội của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập ở trong nước và trong Việt kiều ở hải ngoại. Đến năm 1928 - 1929, Đảng Thanh Niên đã có cơ sở ở khắp 3 kỳ với số hội viên lên tới 1.750 người cùng hàng vạn quần chúng cảm tình.<br />Để làm tăng thêm các thành phần công nhân trong các hội viên và để rèn luyện các hội viên, cuối năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phát động phong trào “Vô sản hóa”. Mở đầu là Bắc Kỳ sau đó lan ra các nơi khác, phong trào vô sản hóa đã kết hợp được quá trình trí thức hóa người vô sản với quá trình vô sản hóa người trí thức cách mạng.<br />Từ đó phong trào công nhân ở Việt Nam được phát triển nhanh trên con đường tự giác, không những phong trào công nhân đã hoàn toàn trở thành phong trào độc lập và có sức quy tụ phong trào dân tộc, mà từ phong trào ấy, vấn đề cần phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng Sản đã dần dần trở nên bức thiết.<br />Trước yêu cầu mới của phong trào trong nước, do kết quả của quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên từ năm 1929 đã đi vào phân biệt và kết thúc nhiệm vụ lịch sử của mình. Sau đại hội của các kỳ bộ Đảng Thanh Niên ở cả 3 kỳ Bắc - Trung - Nam (đầu năm 1929), xu thế các mạng vô sản trong cả nước tiếp tục phát triển mạnh; chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu chiến ưu thế trong đời sống tư tưởng của dân tộc, mặc dù tư tưởng dân chủ tư sản lúc ấy vẫn không ngừng được tuyên truyền cổ vũ.<br />Tháng 5/1929 Đại hội lần thứ nhất của Đảng Thanh Niên được triệu tập tại Hương Cảng, thuộc tô giới của Anh ở Trung Quốc, nhằm củng cố và tăng cường Đảng Thanh Niên, đưa đảng đến chỗ đáp ứng được yêu cầu của Cách mạng Việt Nam đang đặt ra. Song đây cũng là đại hội cuối cùng của tổ chức quá độ này, bởi vì trước, trong và sau đại hội, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã không thể có hoạt động tồn tại nào khác ngoài hoạt động lột xác thành những tổ chức cộng sản trên phạm vi toàn thể bản hội.<br />Chỉ mười năm sau chiến tranh và trong điều kiện chủ nghĩa chống cộng đã bành trướng đến các thuộc địa, hệ tư tưởng Mác - Lênin vẫn đến được với nhân dân Việt Nam bằng cách thức mới của Nguyễn Ái Quốc. Tư tưởng yêu nước và cách mạng mới ấy đã tìm thấy ở Việt Nam một lực lượng xã hội đông đảo là công nhân, nhân dân và phần lớn tiểu tư sản, những người lao động đang đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Ngược lại quần chúng lao khổ và yêu nước ở thuộc địa này cũng tìm thấy ở chủ nghĩa Lênin con đường cứu nước đúng đắn nhất, con đường Cách mạng vô sản.<br />IV. CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA TƯ SẢN VÀ VÔ SẢN - ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI<br />1. Tân Việt Cách Mạng Đảng và sự thắng thế của con đường Cách mạng vô sản<br />Các giai cấp mới ở Việt Nam trưởng thành nhanh chóng sau chiến tranh đã tiếp thu những tư tưởng mới và hình thành những con đường cách mạng mới cho dân tộc đang đấu tranh đòi tự do độc lập. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm cho đại đa số các tầng lớp giai cấp dần dần hiểu rằng “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường Cách mạng vô sản”. Song lúc ấy con đường Cách mạng tư sản cũng vẫn còn mới mẻ và khá hấp dẫn đối với một số bộ phận yêu nước khác, nhất là trong tầng lớp tiểu tư sản.<br />Từ năm 1925, cùng lúc với sự thay đổi toàn quyền mới ở Đông Dương và Varennes, nhiều bộ phận tiểu tư sản yêu nước đã cố gắng dấy lên phong trào ái quốc dân chủ công khai, trong khuôn khổ những cải cách tự do lừa bịp của thực dân ở Đông Dương. Mở đầu là phong trào văn hóa báo chí, sau là các phong trào rầm rộ ở các thành thị trong toàn quốc đòi ân xá Phan Bội Châu, truy điệu Phan Chu Trinh, đặc biệt ở Sài Gòn còn có cuộc biểu dương lực lượng nhân dịp đón Bùi Quang Chiêu ở Pháp về và việc Nguyễn An Ninh bị bắt.<br />Các phong trào này lôi cuốn nhiều thành phần xã hội tham gia, kể cả quần chúng công - nông, trong đó lực lượng xung kích là bộ phận trí thức yêu nước. Còn về phía những người yêu nước, họ đã trưởng thành nhanh chóng trong cuộc đấu tranh công khai đòi dân chủ và hình thành nên những tổ chức chính trị của mình, trong đó đáng chú ý là hai nhóm hạt nhân phôi thai của hai đảng tiểu tư sản: Tân Việt Cách Mạng Đảng và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đó là hai đảng tiêu biểu cho quá trình đấu tranh giữa tư sản và vô sản ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.<br />Tân Việt Cách Mạng Đảng phôi thai từ nhóm Việt Nam Nghĩa Đoàn của sinh viên Cao đẳng Sư phạm Hà Nội lập ra vào năm 1925. Sau khi sát nhập với các nhóm sỹ phu Trung Kỳ vào mùa hè năm 1925, Việt Nam Nghĩa Đoàn đổi tên thành Phục Việt do Tôn Quang Phiệt phụ trách. Quá trình tồn tại và phát triển của Phục Việt từ năm 1925 - 1928 cũng là quá trình tổ chức này chịu ảnh hưởng ngày một sâu sắc của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đang truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin.<br />Mặc dù nó có ý định xây dựng thành một đảng tiểu tư sản để giương lên ngọn cờ cách mạng quốc gia tư sản ở Việt Nam, song về cơ bản Phục Việt đến Hưng Nam, Việt Nam Cách Mạng Đảng, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đến Tân Việt Cách Mạng Đảng, lịch sử đảng này là quá trình từng bước thắng thế của con đường yêu nước mới theo chủ nghĩa Mác - Lênin.<br />Bằng việc nhờ Đảng Thanh Niên đào tạo cán bộ, vạch ra chương trình hợp nhất với Đảng Thanh Niên, mô phỏng hoàn toàn theo các tổ chức và hoạt động của Đảng Thanh Niên, thực chất Đảng Tân Việt cũng đã trở thành một tổ chức quá độ như Đảng Thanh Niên. Đảng Tân Việt từ không tự giác đến tự giác góp phần vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và trở thành một trong những tổ chức tiền thân của Đồng Cộng Sản.<br />Trong quá trình ấy, Đảng Tân Việt đã loại bỏ ra khỏi đội ngũ của mình những bộ phận cánh hữu, dù đó là bộ phận cao cấp trong cơ quan Tổng bộ. Các đảng viên Tân Việt đã gội rửa dần tính chất tiêu cực trong suy nghĩ và hành động của một đảng viên tiểu tư sản của mình. Như thế Đảng Tân Việt cũng đồng thời tách ra khỏi xu hướng tư sản và tiến gần với xu hướng vô sản. Cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng Tân Việt là cuộc đấu tranh giữa hai xu hướng ấy, cuối cùng xu hướng cách mạng quốc gia tư sản đã hoàn toàn thất bại bằng sự tan vở của tổ chức này vào đầu năm 1930, thay thế vào đó là sự ra đời của một tổ chức cộng sản.<br />Sự chuyển hóa của Đảng Tân Việt thành tổ chức cộng sản khẳng định một thực tế là, chủ nghĩa Mác - Lênin đã bắt đầu chiếm ưu thế trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX. Điều này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử, ai thực sự thiết tha với dân tộc thì cần phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Hiện tượng một đảng tiểu tư sản chuyển đại bộ phận thành một đảng cộng sản là điều rất đặc biệt, độc đáo ở xứ thuộc địa, song cũng là tất yếu. Trong quá trình đó, uy tín và công lao của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, định hình con đường Cách mạng vô sản là vô cùng quan trọng.<br />2. Việt Nam Quốc Dân Đảng và sự thất bại của con đường cách mạng tư sản<br />Việt Nam Quốc Dân Đảng là tổ chức cách mạng tiêu biểu cho xu hướng quốc gia tư sản. Giống như các đảng phái yêu nước ra đời trong giai đoạn này, Việt Nam Quốc Dân Đảng phôi thai trong phong trào ái quốc dân chủ công khai, hạt nhân là Nam Đồng Thư Xã - một nhà xuất bản tiến bộ xuất bản nhiều sách báo ái quốc và là nơi tập hơp nhiều trí thức, công chức, nhân sỹ yêu nước như Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Phạm Tuấn Tài, Trúc Khê, Hồ Văn Mịch… Sau khi quyết định phải quyết tâm đi vào con đường cách mạng, ngày 25/12/1927 những yếu nhân của Nam Đồng Thư Xã, bí mật thành lập một tổ chức là Việt Nam Quốc Dân Đảng.<br />Là một đảng tiểu tư sản, Việt Nam Quốc Dân Đảng mau chóng phát triển trong các bộ phận giáo chức, học sinh sinh viên, những người làm nghề tự do, một bộ phận thân hòa thân sỹ ở nông thôn, một số sĩ quan binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp và cả lực lượng khởi nghĩa của Xứ Nhu. Đến đầu năm 1929 ở Bắc Kỳ Việt Nam Quốc Dân Đảng chỉ có kỳ bộ Bắc Kỳ kiêm cơ quan Tổng bộ, cơ quan Tỉnh bộ không tổ chức được, ở Trung Kỳ, Nam Kỳ chỉ có một số chi bộ được thành lập. Đảng cũng có chủ trương thành lập một tổ chức một số hội quần chúng để tranh thủ lực lượng, nhưng đối tượng chủ yếu là binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp.<br />Việt Nam Quốc Dân Đảng thể hiện rõ tính tiểu tư sản của mình qua việc chọn lựa đường lối chính trị. Điều lệ đảng luôn luôn thay đổi từ cách mạng vô sản sang cách mạng tư sản, cuối cùng tư tưởng của hai cuộc cách mạng tư sản Đông - Tây đã được kết hợp lại thành ngọn cờ cách mạng tư sản Việt Nam. Lần đầu tiên ngọn cờ cách mạng ấy được giương lên ở thuộc địa này bởi những người tiểu tư sản yêu nước. Về phía mình, những người yêu nước trong đảng tiểu tư sản này đã có những nỗ lực lớn nhất để đảm đương sứ mệnh lịch sử của giai cấp tư sản, họ còn trực tiếp tổ chức lãnh đạo thực hiện cuộc cách mạng cho đến lúc nó bộc lộ hết thực lực và khả năng của nó.<br />Từ đầu năm 1929 Việt Nam Quốc Dân Đảng buộc phải bước vào thời kỳ chuẩn bị trực tiếp cho một cuộc tổng bạo động, mặc dù chưa qua được thời kỳ phôi thai và thời kỳ dự bị, sau hơn một năm để ra chương trình hành động ba bước (phôi thai, dự bị, tổng khởi nghĩa). Cuộc truy nã dồn dập của Pháp sau vụ ám sát tên trùm mộ phu Bazin, cùng những hoạt động tống tiền của Đảng càng làm thực dân Pháp điên cuồng đánh phá Đảng.<br />Các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng chọn lối thoát cho đảng là khẩn trương tiến hành chuẩn bị cuộc bạo động. Tại hội nghị Lạc Đạo ngày 17/9/1929, Đảng đã thông qua bản “Tổng công kích kế hoạch” và sau đó tại hội nghị Võng La cuối tháng 9/1929, Đảng còn xúc tiến nhanh đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Quyết tâm của đảng như lãnh tụ Nguyễn Thái Học có nói: “Không thành công cũng thành nhân”. Như vậy từ bị động đến phiêu lưu, cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng ngay từ đầu đã thiếu nhiều nhân tố căn bản bảo đảm thắng lợi.<br />Do nội bộ đảng không được thống nhất và do tổ chức lỏng lẻo, Việt Nam Quốc Dân Đảng dễ bị Pháp đưa người của chúng vào phá hoại Đảng. Những mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa các phe phái trong đảng cũng góp phần làm cho Đảng ngày một suy yếu đi. Tất cả những điều đó làm cho Việt Nam Quốc Dân Đảng đứng trước nguy cơ tan vỡ.<br />Tuy thế đại đa số đảng viên và cảm tình của Đảng rất nóng lòng hành động. Mặc dù kế hoạch sớ bị bại lộ, thực dân Pháp đã đề phòng, nhật kỳ khởi nghĩa thay đổi liên tục, nhưng cuối cùng cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra ở một số nơi. Tại Yên Bái, nơi cuộc khởi nghĩa nổ ra mạnh nhất, đêm mồng 9 rạng ngày 10/2/1930, binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp nổi dậy chiếm đồn và làm chủ một số khu vực trong thị xã Yên Bái. Liền đó những người lãnh đạo khởi nghĩa hô hào quần chúng nổi dậy.<br />Tại Phú Thọ nghĩa quân đánh chiếm đồn Hưng Hóa và phủ Lâm Thao. Tại Hải Dương quân khởi nghĩa đánh chiếm huyện lỵ Vĩnh Bảo. Tại Hà Nội nhiều vụ ném bom vào sở Mật thám, sở Sen đầm, bót Cảnh sát… Song từ những nơi còn chiếm đóng, địch đã phản công. Chúng tức khắc huy động lực lượng quân sự lớn và nhanh chóng đàn áp, bắt bớ, dập tắt ngọn lửa khởi nghĩa vừa nhóm lên. Hàng loạt lãnh tụ và quân khởi nghĩa bị bắt, giết, giam cầm. Nhiều đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng bị đưa lên đoạn đầu đài, nhưng họ vẫn giữ vững khí tiết của người yêu nước.<br />Khởi nghĩa Yên Bái là nỗ lực cao nhất của Việt Nam Quốc Dân Đảng và cũng là bước phấn đấu tích cực nhất của giai cấp tiểu tư sản Việt Nam trên con đường dân tộc cách mạng theo đường lối quốc gia tư sản.<br />Thất bại của khởi nghĩa Yên Bái kéo theo sự tan rã và thất bại hoàn toàn của chính đảng tổ chức ra nó, báo hiệu sự thất bại hoàn toàn của ngọn cờ cách mạng tư sản kiểu cũ ở Việt Nam. Ngọn cờ dân tộc phản đế phản phong từ đây chuyển hẳn về tay giai cấp tư sản và quần chúng công nông, lúc mà Bộ tham mưu giai cấp của họ - Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chín muồi cho sự ra đời.<br />3. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam<br />Chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin do Nguyễn Ái Quốc và Việt Nam Thanh niên Cách Mạng Đồng Chí Hội truyền bá, bằng thực tế của phong trào vô sản hóa, những người tiên tiến nhất của Đảng Thanh Niên đã thấy rõ nhu cầu bức thiết phải cải tổ và lập ra một chính đảng vô sản ở Việt Nam. Song những nhận thức ấy diễn ra không đều trong đội ngũ của họ, nên việc kết thúc vai trò lịch sử của Đảng Thanh Niên phải kéo dài, đồng thời với quá trình hình thành những tổ chức cộng sản trên phạm vi toàn quốc.<br />Tháng 3/1929 chi bộ cộng sản đầu tiên ra đời ở Hà Nội. Sau đó ngày 17/6/1929 Đông Dương Cộng Sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ. Tháng 10/1929 An Nam Cộng Sản Đảng ra đời ở Nam Kỳ. Đầu tháng 1/1930 những người còn lại của Tân Việt Cách Mạng Đảng. Lực lượng đông nhất là ở Trung Kỳ cũng ra tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Ba tổ chức cộng sản xuất hiện trong vòng hơn nửa năm ở cả 3 kỳ có nhiều cố gắng hoạt động và gây ảnh hưởng trong phong trào công - nông trên toàn quốc. Trong quá trình đó mỗi Đảng đều tự nhận mình là chính Đảng của giai cấp công nhân, phê phán các đảng phái khác, ra sức tranh giành quần chúng… Hoạt động công kích lẫn nhau giữa các tổ chức cộng sản đã làm ảnh hưởng đến tính thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho phong trào dân tộc.<br />Trước tình hình ấy, ngày 27/10/1929 Quốc Tế Cộng Sản đã gửi thư cho những người cộng sản Đông Dương, yêu cầu phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại thành một Đảng Cộng Sản duy nhất. Để thực hiện chủ trương ấy, Quốc Tế Cộng Sản ủy nhiệm Nguyễn Ái Quốc đứng ra giải quyết sự bất đồng giữa các tổ chức cộng sản Đông Dương để thống nhất chúng lại.<br />Ngày 3/2/1930 vào dịp tết Canh Ngọ, hội nghị các tổ chức Cộng Sản Đông Dương đã được triệu tập ở Hương Cảng. Bằng tư cách và uy tín của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã phân tích ưu khuyết điểm của phong trào cộng sản Đông Dương, giải quyết những bất đồng của những người cộng sản trong cùng một quốc gia dân tộc.<br />Do đã có những yếu tố căn bản được thống nhất nên các tổ chức cộng sản đã nhanh chóng nhất trí với các ý kiến của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Kết quả là các tổ chức cộng sản đã thống nhất hợp nhất thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất còn thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng ra lời kêu gọi nhân dịp Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời.<br />Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng. Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối chính trị đúng đắn để phát triển đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.<br />Giai cấp công nhân Việt Nam sau vài thập kỷ ra đời và phát triển, chủ yếu là 10 năm sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đã đủ sức lãnh đạo Cách mạng Việt Nam. Phong trào dân tộc chấm dứt tình trạng khủng hoảng lãnh đạo và bước vào thời kỳ đấu tranh mới đầy sôi động, tiến lên giành những thắng lợi mới.<br />*<br />* *<br />Mặc dù ngay từ đầu thế kỷ XX xã hội Việt Nam đã có nhiều chuyển biến lớn lao, nhưng phải sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Việt Nam mới thực sự có đủ những điều kiện mới để phát triển. Trong hoàn cảnh thế giới sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917, khi thực dân Pháp triển khai cuộc khai thác thuộc địa trên quy mô lớn nhất, những nhân tố thuận lợi cho phong trào dân tộc đã xuất hiện và nhanh chóng phát triển trưởng thành ngoài ý muốn của những kẻ đang áp bức dân tộc. Chính trong quá trình đó lại diễn ra một quá trình cùng du nhập vào Việt Nam hai hệ tư tưởng mới nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lịch sử của dân tộc đang đặt ra. Cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng cùng song song tồn tại được tập trung vào việc giải quyết một vấn đề bức thiết là quyền lãnh đạo Cách mạng Việt Nam - một cuộc cách mạng phải bắt đầu việc giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân.<br />Sự ngã ngũ của cuộc đấu tranh giữa hai con đường cách mạng đã kết thúc bằng sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Đó cũng là kết quả tất yếu, hợp quy luật của quá trình phát triển của lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. </span>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-39372086441958442582007-07-30T22:24:00.001-07:002007-07-30T22:24:53.706-07:00VIET NAM GIAI DOAN 1914 - 1918<span style="font-family:times new roman;"><strong>VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ NHẤT (1914 - 1918)<br /><br />I. CHÍNH SÁCH CAI TRỊ THỜI CHIẾN CỦA THỰC DÂN PHÁP<br /></strong>Tháng 8/1914, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ đã nhanh chóng lôi kéo các nước thuộc địa vào vòng khói lửa. Việt Nam và cả Đông Dương lúc đó cũng phải thi hành những chính sách như ở chính quốc, nhất là các chính sách “Kinh tế thời chiến” và chính sách “Tổng động viên”. Theo đó nhiệm vụ chủ yếu của Đông Dương là phải cung cấp tối đa nhân tài vật lực cho chiến tranh của “nước mẹ” nhưng vẫn phải giữ yên trật tự ở thuộc địa.<br />Ở thuộc địa Đông Dương, cái gọi là “mộ lính tình nguyện” và “kinh tế thời chiến” chỉ là việc ngưng lại chương trình khai thác nhưng vẫn tiếp tục vơ vét sức người sức của của nhân dân Đông Dương ném vào lò lửa chiến tranh. Với chính sách mới này, trong mấy năm đại chiến đã có 92.903 lính thợ và lính chiến, 319.500.000 đồng, 335.000 tấn lương thực thực phẩm cùng hàng vạn tấn nguyên liệu khoáng sản từ Đông Dương đưa sang Pháp và các chiến trường của Pháp ở châu Âu, châu Phi.<br />Tuy nhiên, do bận vào chiến tranh và để giữ lấy thuộc địa, thực dân Pháp buộc phải thay đổi quy mô và cách thức khai thác thống trị. Chúng áp dụng đường lối nới rộng độc quyền trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đó là sự điều chỉnh công cuộc thực dân của ngừơi Pháp ở thuộc địa trong điều kiện có chiến tranh với mục đích giữ chặt hơn các thuộc địa trong quỹ đạo chủ nghĩa thực dân. Dù sao tình hình này cũng tạo ra những điều kiện mới cho phong trào dân tộc ở thuộc địa.<br />Khi tư bản Pháp bị hút về châu Âu, các giai cấp mới ở thuộc địa, đã biết chớp thời cơ chiến tranh để vươn lên thoát khỏi sự chèn ép kìm hãm của ngoại ban. Tư bản bản xứ có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế thuộc địa dưới dạng hùn vốn, góp cổ phần hoặc tiếp thu cơ sở bỏ lại của tư bản ngoại quốc, hoặc xây dựng cơ sở mới. Việc kinh doanh của tư sản dân tộc đã sớm phát đạt kể từ khi chiến tranh thế giới nổ ra, với những qui mô lớn của Nguyễn Hữu Thu, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà… Đặc biệt là trên lãnh vực thương mại các đại thương gia như Hà Kim Bảng, Sơn Xuân Hoan, Hồ Tá Bang, Trần Gia Thụy cùng hàng loạt các thương gia khác ở Bắc - Trung - Nam đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường nội địa…<br />Nông nghiệp là một trận địa lớn của chính sách vơ vét của tư bản Pháp, khi đầu tư tư bản đã vào sâu hơn nữa trong nông nghiệp với giống mới, kỹ thuật mới và diện tích đồn điền trở nên đại trà, thì tư bản dân tộc cũng biết lao vào đó mà làm ăn, kiếm lời, phát triển thế lực. Đồn điền lúa ở Bắc Kỳ và đồn điền cao su ở Nam Kỳ có khá đông người bản xứ tung vốn vào cạnh tranh mà không sợ bị chèn ép phá sản.<br />Như thế, một phần là sức ép của cuộc chiến tranh buộc phải nới lỏng thuộc địa, một phần là sự trưởng thành dần dần của các nhân tố mới ở bản xứ, Việt Nam trong những năm đại chiến 1914 - 1918 đã có bước chuyển biến tích cực hơn, phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên của nó.<br />Trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội cũng có sự phát triển. Mặc dù chính quyền thuộc địa luôn đề cao thuyết “Pháp - Việt đề huề”, “Pháp - Việt nhất gia”, nhưng các tầng lớp giai cấp mới ở thuộc địa vẫn sinh trưởng nhanh chóng ngoài ý muốn của thực dân. Để thích hợp với tình hình đó, Pháp cũng phải “nới rộng độc quyền” trong một số hoạt động xã hội. Việc nâng đỡ giới thượng lưu, mở rộng dân chủ, cải lương hương chính, cải lương hương tục, chấn chỉnh quan trường, bãi bỏ dần chế độ khoa cử phong kiến và nền giáo dục Hán học… đó là những biện pháp mới để phát triển công cuộc thực dân.<br />Các thành phần kinh tế dân tộc được tăng lên nhanh chóng, sự phân hóa xã hội tiếp tục diễn ra, các giai cấp mới vừa đông thêm về số lượng, vừa mạnh thêm về kinh tế.<br />Đáng chú ý là sự phát triển nhanh chóng trong những năm chiến tranh của giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản, bởi họ có cơ hội “ngàn năm có một” để làm ăn phát đạt. Khả năng của họ bước đầu thay thế tư bản ngoại quốc trong một số lĩnh vực đã chứng minh sự lanh lợi của họ trong chiến tranh; vì thế họ còn có thể vươn lên nhiều hơn cả về kinh tế lẫn chính trị nếu “thời cơ” thuận lợi này kéo dài.<br />Các giai cấp đông đảo như nông dân và công nhân là đối tượng chủ yếu của chính sách vơ vét cho chiến tranh của Pháp, xu hướng phân hóa của các giai cấp này vẫn tiếp tục diễn ra như trước. Điều đó cũng dẫn đến kết quả tất yếu là quần chúng cần lao vẫn sẵn sàng tham gia vào những cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù của họ cũng là của dân tộc.<br />Như vậy trong những năm chiến tranh, thực dân Pháp phải thay đổi chính sách cai trị thuộc địa, nhưng mâu thuẫn xã hội ở thuộc địa vẫn không thay đổi. Thực dân Pháp và phong kiến tay sai vẫn cấu kết chặt chẽ với nhau để khai thác, thống trị, bóc lột các tầng lớp nhân dân Đông Dương.<br />Một điều quan trọng mà thực dân Pháp dù biết trước vẫn không có biện pháp ngăn chặn có hiệu quả là: tinh thần yêu nước của người Việt Nam cũng theo sự chuyển biến chung của dân tộc mà phát triển không ngừng. Đại đa số người yêu nước Việt Nam lúc này đều nhận thấy chiến tranh đế quốc là một thời cơ lớn cho các dân tộc thuộc địa nổi dậy đấu tranh lật đổ ách thống trị của ngoại bang và tay sai. Mỗi thành phần lực lượng, tuỳ khả năng hoàn cảnh và xu hướng chính trị, họ đã dấy lên phong trào của mình.<br />II. NHỮNG HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP<br />1. Sự hồi phục của tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội<br />Trước chiến tranh thế giới I, Việt Nam Quang Phục Hội đã bị tan vỡ nhưng khi chiến tranh nổ ra, những người còn lại của tổ chức này đã tập hợp lại ở Quế Lâm (Trung Quốc) dưới sự lãnh đạo của Hoàng Trọng Mậu, Đặng Tử Kính, Nguyễn Thượng Hiền… Tiếp tục hoạt động trong các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc, một số thành viên của Việt Nam Quang Phục Hội đã bắt liên lạc với người Đức cũng đang hoạt động ở đây. Mục tiêu trước mắt của Việt Nam Quang Phục Hội là tranh thủ viện trợ của người Đức và các nước để tiến tới chuẩn bị một số cuộc bạo động dọc vùng biên giới ở Việt Nam.<br />Đầu năm 1915 thông qua một số hội viên Việt Nam Quang Phục Hội là các cơ sở nội tuyến trong binh lính, họ đã xây dựng kế hoạch tấn công các đồn binh Pháp dọc biên giới Việt - Trung.<br />Vì phải khẩn trương hành động để lấy khí thế để tranh thủ người Đức viện trợ, ngày 13/3/1915 các trận đánh của Việt Nam Quang Phục Hội đã đồng loạt nổ súng ở Tà Lùng, Móng Cái, Hà Khẩu và các cứ điểm nhỏ khác dọc đường Cao Bằng - Lạng Sơn. Nhưng do tổ chức vội vàng nên sự phối hợp không chặt chẽ, chỉ có trận ở Tà Lùng diễn ra đúng hẹn thì lại bị Pháp khống chế, làm cho binh sĩ yêu nước trong đồn không nổi dậy được. Hơn 100 quân ăn mặc đồng phục có phù hiệu “Việt Nam Quang Phục Quân”, do Nguyễn Hải Thần chỉ huy tập kích đồn Tà Lùng đã ném tạc đạn và mìn làm sập các nhà trại cùng một số binh lính Pháp bị thương. Ngay đó Quang Phục Quân rút chạy trước sự phản kích mạnh mẽ của địch trong đồn.<br />Các nơi khác thì hoặc không nổ súng được phải rút lui sớm hoặc vừa nổ súng đã gặp địch phản kích phải bỏ chạy. Nhìn chung các cuộc tấn công của Việt Nam Quang Phục Hội bị thất bại ngay khi vừa hành động.<br />Ngoài ra ở một số địa phương, một số cơ sở của Việt Nam Quang Phục Hội được khôi phục như Lào Cai, Hà Giàng, Phú Thọ, Nam Định, Ninh Bình… Trước thời cơ chiến tranh họ cũng tích cực hoạt động chuẩn bị bạo động, nhưng suốt từ tháng 10/1914 đến tháng 3/1917 không có cuộc nổi dậy khởi nghĩa nào nổ ra được.<br />Thất bại của Việt Nam Quang Phục Hội đánh dấu sự bất lực hoàn toàn của phương thức hoạt động cách mạng của tổ chức này. Quá trình đó tiếp tục bị thực dân Pháp cấu kết với quân phiệt Trung Quốc ra sức đàn áp khủng bố. Đến cuối năm 1916, Việt Nam Quang Phục Hội hoàn toàn bị tan rã không còn khả năng hồi phục, mặc dù ảnh hưởng của nó vẫn còn theo vào các phong trào khác lúc đó đang tiếp tục bùng nổ.<br />2. Khởi nghĩa Duy Tân (1916)<br />Ngay khi chiến tranh nổ ra các sĩ phu là hội viên trong nước của Việt Nam Quang Phục Hội đã chuẩn bị phát động một cuộc khởi nghĩa ở Trung Kỳ. Thái Phiên và Trần Cao Vân đã liên lạc với nhiều bộ phận yêu nước, lấy bộ phận đồng nhất là binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp làm lực lượng chính cho cuộc khởi nghĩa. Qua vận động quần chúng, các thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa được biết vua Duy Tân ở Huế cũng có tâm huyết với việc chống Pháp. Liền đó Thái Phiên và Trần Cao Vân đã mời nhà vua trẻ tham gia lực lượng khởi nghĩa với nhiệm vụ theo dõi kế hoạch của Pháp về việc đưa binh lính Việt Nam đi chiến trường châu Âu và châu Phi.<br />Công việc chuẩn bị được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1915 đến đầu năm 1916. Việc lạc quyên tiền và lương thực, rèn gươm đao, theo dõi hành động giặc Pháp, phối hợp hành động và các ám hiệu khởi sự… tất cả được phân công chặt chẽ và chỉ đợi nhật kỳ khởi nghĩa. Trong lúc đó khắp nơi ở Huế và các tỉnh đồn đại ngày càng nhiều về một cuộc dấy binh; còn thực dân Pháp cũng ngày càng nắm rõ được kế hoạch và lực lượng khởi nghĩa. Chúng muốn bóp chết cuộc khởi nghĩa ngay từ đầu, nhưng không muốn gây nên xáo động trong chính phủ Nam triều. Chúng bí mật theo dõi vua Duy Tân và chuẩn bị hành động đối phó để ngăn chặn cuộc khởi nghĩa nổ ra.<br />Khi được cấp báo Pháp sẽ đưa binh lính xuống tàu sang chiến trường Tây Âu vào ngày 10/5/1916, Thái Phiên và Trần Cao Vân quyết định khởi sự. Đêm mồng 3 rạng sáng mồng 4/5/1916 việc đưa rước vua Duy Tân trốn khỏi Hoàng Thành vẫn được tổ chức như kế hoạch, nhưng cùng lúc tín hiệu khởi nghĩa bằng súng thần công không được phát ra, còn anh em binh sĩ đã bị cấm trại từ trước đó.<br />Thế là tiếng súng khởi nghĩa không nổ ra được, quân Pháp đã chủ động điều quân Âu - Phi đàn áp cuộc khởi nghĩa. Vua Duy Tân, Thái Phiên, Trần Cao Vân và nhiều người lãnh đạo khởi nghĩa bị bắt cùng hàng loạt binh sĩ yêu nước.<br />Khởi nghĩa Duy Tân mới chỉ là một âm mưu khởi nghĩa và đã bị đè bẹp ngay từ trong trứng nước. Nó mang danh nghĩa vua Duy Tân nhưng toàn bộ cuộc khởi nghĩa do nhiều lực lượng tham gia, đó thực sự là một cuộc nổi dậy của quần chúng do các sĩ phu hội viên Việt Nam Quang Phục Hội lãnh đạo.<br />3. Khởi nghĩa Thái Nguyên (1917)<br />Cuộc khởi nghĩa lớn nhất của nhân dân ta trong suốt mấy năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất là khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917. Đó là một cuộc khởi nghĩa tiêu biểu với sự phối hợp lần đầu tiên và cá hiệu quả của lực lượng tù chính trị phạm với binh sĩ yêu nước Việt Nam trong quân đội Pháp.<br />Bị cảm hóa và được giác ngộ bởi các chính trị phạm mà đứng đầu là Lương Ngọc Quyến - Ủy viên quân sự của Việt Nam Quang Phục Hội bị bắt năm 1914, các binh sĩ Việt Nam trong quân đội Pháp được giao canh giữ tù nhân do Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn) chỉ huy, đã tích cực chuẩn bị tiến tới một cuộc bạo động. Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn đã bí mật liên lạc và phối hợp nhau tổ chức lực lượng, dần dần hình thành hai bộ phận chuẩn bị trực tiếp cho một âm mưu hành động chung là nổi dậy chống Pháp.<br />Theo kế hoạch, lực lượng chính của cuộc khởi nghĩa là binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp, lực lượng hỗ trợ tích cực là các tù nhân, mục tiêu là đánh chiếm tỉnh lỵ Thái Nguyên, giải phóng hết tù nhân, biến cuộc nổi dậy binh biến thành cuộc khởi nghĩa rộng lớn. Để có uy thế, những người tổ chức khởi nghĩa đã phân công: Đội Cấn là Đại đô đốc Thái Nguyên Quang Phục Quân, Lương Ngọc Quyến là Quân sư. Công việc chuẩn bị được tiến hành tương đối bí mật, nhật kỳ khởi nghĩa cuối cùng được ấn định là dịp lĩnh lương của binh lính, ngày 31/8/1917.<br />Đêm 30 rạng 31/8/1917, dưới sự lãnh đạo của Đội Cấn, binh sỹ khởi nghĩa đã phá đề lao giải phóng tù nhân. Lực lượng khởi nghĩa được tăng lên nhanh chóng và khẩn trương đánh chiến các vị trí. Sáng 31/8/1917 quân khởi nghĩa làm chủ tỉnh lỵ. Bản “Tuyên ngôn thứ nhất Đại hùng đế quốc năm thứ nhất, tháng 7 ngày 14” do Lương Ngọc Quyến soạn thảo đã nói “Thời cơ đã đến… và hôm nay ta bắt đầu khôi phục lấy tỉnh Thái Nguyên. Lá cờ 5 ngôi sao đã kéo lên phấp phới trên kỳ đài, ta tuyên bố Thái Nguyên độc lập”.<br />Nhiệm vụ tiếp theo là phải kết hợp vừa mở rộng thắng lợi vừa củng cố kết quả ban đầu, nhưng quân khởi nghĩa chỉ tập trung vào củng cố thắng lợi, bỏ lỡ cơ hội tấn công mở rộng khởi nghĩa. Mặc dù nghĩa quân được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia hỗ trợ, chỉ hai ngày có lực lượng 600 quân với 200 cây súng sẵn sàng bảo vệ kịp thời tập trung lực lượng các nơi về Thái Nguyên đàn áp cuộc khởi nghĩa.<br />Từ ngày 2 - 5/9/1917 nghĩa quân phải tổ chức những trận chiến đấu quyết liệt, nhưng cuối cùng vẫn không giữ được tỉnh lỵ. Lương Ngọc Quyến đã hi sinh trong những trận chiến đấu cố thủ này. Đội Cấn và nghĩa quân còn lại vừa đánh vừa rút lui. Pháp tiếp tục truy đuổi quân khởi nghĩa. Lực lượng Đội Cấn tiếp tục chiến đấu trên chặng đường dài từ Thái Nguyên sang Vĩnh Yên, Phúc Yên và lên Yên Thế suốt mấy tháng trời. Đội Cấn bị thương nặng trong quá trình ấy, ông tự sát để khỏi lọt vào tay giặc, nhiều người khác đã thay ông lãnh đạo nghĩa quân và hi sinh dũng cảm. Lực lượng mai một dần, đến tháng 1/1918 khởi nghĩa Thái Nguyên nổ những tiếng súng cuối cùng.<br />Khởi nghĩa Thái Nguyên lúc đầu là một cuộc binh biến, sau là cuộc nổ dậy của quần chúng theo đường lối của Việt Nam Quang Phục Hội. Đó là một đòn mạnh giáng vào thủ đoạn của Pháp dùng người Việt trị người Việt; nó khẳng định ý chí chiến đấu quật cường của các tầng lớp nhân dân yêu nước, bất cứ hoàn cảnh nào cũng không thể bị đè bẹp, ngược lại, nó luôn luôn biết vận dụng mọi cơ hội để bật dậy.<br />*<br />* *<br />Như vậy cho đến khi Đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc, xã hội Việt Nam đã trải qua hai thập kỷ chuyển biến toàn diện và sâu sắc dưới tác động của thực dân Pháp đã được tiến hành ngay khi chúng vừa kết thúc cuộc vũ trang xâm lược và bình định nước ta.<br />Chính sách cai trị và khai thác ấy của Pháp, một mặt nó đã gây nên bao tội ác chất chồng đối với nhân dân ta, mặt khác để vơ vét bóc lột, nó cũng phải tạo ra những điều kiện khách quan cho xã hội thuộc địa phát triển. Từ đó, những nhân tố mới trong nền kinh tế - xã hội của dân tộc đã xuất hiện làm cơ sở cho sự tiếp nhận những nhân tố bên trong và bên ngoài như vậy là nguyên nhân của tất cả mọi diễn biến mới vô cùng sôi động trên đất nước ta khi bước vào thế kỷ XX.<br />Phong trào dân tộc với nhiệm vụ duy tân đất nước, đấu tranh yêu nước giành lại tự do độc lập đã đi theo xu hướng khác nhau của con đường dân chủ tư sản. Sự xuất hiện những phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, với nhiều nội dung hình thức phong phú khác nhau đó cũng là biểu hiện mới của chủ nghĩa yêu nước ấy là đội ngũ các sĩ phu cấp tiến. Họ là sản phẩm của xã hội buổi giao thời, nhưng có ý chí và tinh thần của một tầng lớp mới đang ra đời; họ đã đảm đương nhiệm vụ của một giai cấp mới tiên tiến, mặc dù còn rất nhiều những hạn chế của một giai cấp cũ lỗi thời không thể vượt qua được.<br />Hòa trong phong trào bừng tỉnh của phương Đông đầu thế kỷ XX, cao trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam đã ghi thêm vào lịch sử dân tộc những trang bi hùng. Chưa thể giành được thắng lợi cuối cùng trong những thập kỷ đầu tiên ấy, nhưng đã có hàng loạt vấn đề của bài toán khó ấy được đặt ra và bước đầu giải quyết với nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý báu được tích lũy. Đó chính là hành trang của dân tộc bước vào thập kỷ bản lề mười năm sau chiến tranh.</span>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-7569154688306967102007-07-30T22:22:00.000-07:002007-07-30T22:23:54.475-07:00PHONG TRAO YEU NUOC VA DAU TRANH DAU XX<span style="font-family:times new roman;"><strong>PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ ĐẤU TRANH NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX<br />(1900 - 1914)<br /><br />I. SỰ DU NHẬP TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀO VIỆT NAM</strong><br />Trong lúc xã hội Việt Nam đang chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện như thế thì bên ngoài, một trào lưu tư tưởng mới cũng dội vào Việt Nam, vừa công khai hợp pháp vừa không công khai hợp pháp.<br />Trước hết là luồng sách báo tiếng Pháp do chính quyền thuộc địa phát hành. Luồng công khai này đã đưa vào Việt Nam những tác phẩm bất hủ của các nhà phát ngôn của giai cấp tư sản Pháp lúc đang chiến thắng xã hội phong kiến như Voltaire, Roussault, Montesqiuer…<br />Cùng trong lúc đó lại có các sách “Tân Thư Tân Báo” của Trung Quốc nói về tư tưởng dân chủ tư sản, về công cuộc duy tân ở thuộc địa này. Tân Thư Tân Báo đưa vào Việt Nam tiếng nói của tầng lớp sĩ phu cấp tiến và giai cấp mới ở Trung Quốc, nhanh chóng trở thành món ăn tinh thần rất hợp khẩu vị với các sĩ phu cấp tiến Việt Nam, giúp cho họ mở rộng nhãn quan chính trị để tìm tòi con đường cứu nước.<br />Đầu thế kỷ XX các nước phương Đông rất phấn khởi, tin tưởng và hy vọng vào sự hùng cường của nước Nhật Bản, nhất là qua cuộc chiến tranh Nga - Nhật, trong đó lần đầu tiên một đế quốc da vàng đã đánh thắng một đế quốc da trắng. Hoà nhập theo xu hướng thân Nhật tràn lan ở phương Đông lúc này, một số người Việt Nam, chủ yếu là những người sĩ phu cấp tiến, đã chứng kiến tận mắt nước Nhật sau cuộc Minh Trị duy tân.<br />Bằng những con đường ấy, trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản du nhập vào Việt Nam. Dù là nguyên bản hay đã được “phương Đông hóa”, tư tưởng dân chủ tư sản đã được truyền vào thuộc địa này qua lăng kính muôn hình muôn vẻ của những người yêu nước. Đó chính là nhân tố khách quan quan trọng, tác động trực tiếp vào sự phân hóa xã hội về mặt tư tưởng.<br />Một bộ phận các tầng lớp giai cấp ôm tư tưởng bảo thủ, không chịu nhìn nhận sự chuyển biến của xã hội, họ an phận thủ thường. Nếu không phải là tay sai cho thực dân Pháp, thì số này cũng không còn muốn đấu tranh gì nữa. Một bộ phận còn lại thì tiếp thu tư tưởng mới với nhiều cách thức khác nhau và vì thế suy nghĩ hành động không giống nhau, thậm chí đối nghịch nhau.<br />Mặt khác với tư cách là tác nhân quan trọng, trào lưu tư tưởng mới còn nhanh chóng kết hợp với các nhân tố chủ quan rất to lớn, thổi bùng lên ngọn lửa mới của phong trào dân tộc. Đáng chú ý trong các nhân tố chủ quan của phong trào là đội ngũ sĩ phu cấp tiến, họ vừa là sản phẩm của xã hội phong kiến còn lại, vừa là sản phẩm của xã hội mới đang hình thành.<br />Là kết tinh của đất nước buổi giao thời, các sĩ phu cấp tiến đầu thế kỷ XX đã trở thành những sứ giả của dân tộc đón tiếp tư trào mới, họ chính thức là lực lượng tiên phong vừa trực tiếp lãnh đạo phong trào ấy một cách tự giác và sáng tạo. Họ là linh hồn của phong trào dân tộc đầu thế kỷ XX và họ đã kết thúc vai trò lịch sử của mình một cách vẻ vang bằng những đóng góp lớn lao cho dân tộc vào lúc xã hội chưa có giai cấp mới nào đủ sức phất lên ngọn cờ cứu nước.<br />II. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐẦU THẾ KỶ XX<br />1. Duy Tân hội và Phong trào Đông Du<br />Duy Tân Hội và phong trào Đông Du gắn liền với tên tuổi của Phan Bội Châu.<br />Phan Bội Châu (1867 - 1940) hiệu là Sào Nam, sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho ở huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An, nơi có phong trào khởi nghĩa vũ trang Cần Vương phát triển mạnh mẽ cuối thế kỷ XIX. Cha ông là Phan Văn Phổ, một nhà Nho rất có uy tín trong làng văng chương và là người đức độ, hay thương người, ghét bọn giặc Tây. Từ nhỏ Phan Bội Châu đã giỏi văn chương và sớm có chí cứu nước.<br />Năm 1900, Phan Bội Châu đậu kỳ thi Hương ở Huế, Sau đó ông không tiếp tục học ở trường Hậu Bổ để làm quan trong triều Nguyễn. Phan chỉ chuyên tâm công việc cứu nước theo nhận thức chính trị mới tiếp thu được từ các Tân Thư Tân Báo và sách báo đương thời. Giao tiếp với các nhà yêu nước, Phan càng hiểu rõ rằng muốn đánh Pháp và giải phóng dân tộc phải có sự hưởng ứng của dân chúng đông đảo, theo con đường khởi nghĩa vũ trang bạo động.<br />Năm 1901, Phan tập hợp lực lượng thành lập đội nghĩa binh và định đánh úp thành Nghệ An. Năm 1902, Phan ra Bắc, lên Yên Thế tìm gặp Hoàng Hoa Thám phối hợp hành động. Năm 1903, Phan trở lại Huế, vào Quảng Nam gặp Nguyễn Hàm và tìm gặp Cường Để mời làm minh chủ; kết giao với Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp… Năm 1904 Phan vào Nam Kỳ tranh thủ sự ủng hộ của các thân sĩ.<br />Tháng 5/1904 tại nhà của Nguyễn Hàm ở Quảng Nam, Phan và các đồng chí của ông lập ra Duy Tân Hội với mục đích “cốt sao khôi phục được nước Nam, lập ra một chính phủ độc lập”. Duy Tân Hội chủ trương dùng bạo lực để đánh đuổi thực dân Pháp, nhờ nước ngoài giúp đỡ đào tạo xây dựng lực lượng nòng cốt cho toàn dân nổi dậy. Việc ngoại viện lúc đó chỉ có thể là Nhật Bản, vì đó là nước tiên tiến máu đỏ da vàng. Phan Bội Châu phân tích (trong Niên Biểu của ông) rằng: “Bây giờ ta sang Nhật đem lợi hại thuyết phục họ, tất nhiên họ vui lòng viện trợ ta, nếu không viện trợ bằng binh lính thì việc mua khí giới, nhờ lương thực cũng có phần dễ.”<br />Ngày 20/1/1905, Phan Bội Châu sang Nhật thực hiện nhiệm vụ của Duy Tân Hội, tại đây Phan Bội Châu đã tiếp xúc với các lãnh tụ Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Tuy rất tâm đắc với các sĩ phu cấp tiến này, nhưng ông vẫn chủ trương con đường cách mạng bạo lực. Tiếp xúc với các đại diện của Đảng Tiến Bộ, Phan Bội Châu chấp thuận lời đề nghị của Bá tước Đại Ôi, tử tước Khuyển Dương Nghị về việc cử người sang Nhật đào tạo cán bộ nòng cốt.<br />Tháng 7/1905, Phan Bội Châu dẫn Cường Để và các thanh niên khác sang Nhật học, mở đầu cho phong trào Đông Du kéo dài từ tháng 7/1905 đến tháng 9/1908.<br />Tại trường quân sự Chấn Vũ của Nhật (sau đó là Đông Á Đồng Văn thư viện) đã có khoảng 200 người Việt Nam được gửi sang đào tạo thành những cán bộ có kiến thức về văn hóa và quân sự, có năng lực hoạt động phong trào và được bồi dưỡng lòng yêu nước, chí đánh đuổi thực dân Pháp. Nhưng được vài năm thì Pháp ở Đông Dương tìm ra manh mối và chúng phối hợp với Nhật đánh phá phong trào.<br />Cuối năm 1908, chính phủ Nhật đóng cửa trường Đông Á Đồng Văn thư viện, trục xuất các học viên Đông Du. Đến tháng 2/1909 đến lượt lãnh tụ Phan Bội Châu cũng bị trục xuất khỏi Nhật. Phong trào Đông Du thất bại như nó đã giới thiệu cho phong trào dân tộc một hình thức hoạt động mới. Nó cũng giúp các nhà yêu nước thấy rõ bản chất của chủ nghĩa đến quốc, như Phan Bội Châu đã thấm thía ghi lại trong Niên Biểu: “Đã là đế quốc thì da vàng hay da trắng đều là phường cướp nước như nhau mà thôi.”<br /><br />2. Đông Kinh Nghĩa Thục<br />Ở Bắc Kỳ phong trào Duy Tân đã dấy lên từ rất sớm, trong đó phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907 là tiêu biểu nhất.<br />Sau khi xin phép nhà cầm quyền ở Hà Nội, tháng 3/1907 trường tư thục ở phố Hàng Đào đã khai giảng mang tên là trường “Đông Kinh Nghĩa Thục”, do Lương Văn Can là Hiệu trưởng, Nguyễn Quyền làm Giám học. Là trường dân lập đầu tiên của Việt Nam ở thế kỷ này, Đông Kinh Nghĩa Thục được tổ chức hoàn toàn theo lối mới. Trường có 04 ban: giáo dục - tài chính - cổ động - trước tác. Nhiều loại lớp học cho nhiều loại đối tượng được mở ra, nhân dân đóng góp tài chính trong trường. Các sách học như Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Luân Lý Giáo Khoa Thư, Văn Minh Tân Học Sách, Quốc Dân Độc Bản, Nam Quốc Giai Sự, Nam Quốc Vĩ Nhân, Việt Nam Quốc Sử Lược, Nam Quốc Địa Dư… được soạn lại theo tinh thần đề cao văn hóa và truyền thống dân tộc Việt Nam.<br />Học viên theo học rất đông, nhiều vùng nông thôn quanh Hà Nội quan tâm ủng hộ, nhiều nơi đến học tập mở chi nhánh… Đặc biệt, những buổi sinh hoạt ngoại khóa có rất nhiều người tham dự, mà văn thơ Đông Kinh nghĩa thục đã ghi lại: “Buổi diễn thuyết người đông như hội, kỳ bình văn khách tới như mưa”, đã biến nhà trường thành trung tâm truyền bá văn hóa mới, cổ vũ Duy Tân, đề cao truyền thồng yêu nước của dân tộc.<br />Nhưng Đông Kinh Nghĩa Thục không chỉ giới hạn ở hoạt động văn hóa mà còn cố gắng vươn tới những hoạt động kinh tế và chính trị. Các sĩ phu Đông Kinh Nghĩa Thục vừa hô hào thực nghiệp, chấn hưng kinh tế, vừa tham gia hoạt động công thương, mở xưởng, lập hãng buôn cổ động hàng hóa nội ở Hà Nội và các nơi khác. Đông Kinh Nghĩa Thục rất tích cực giúp đỡ, ủng hộ, tham gia phong trào Đông Du, thơ văn của Phan Bội Châu cũng được tuyên truyền trong Đông Kinh Nghĩa Thục. Thậm chí Đông Kinh Nghĩa Thục còn liên hệ với nhiều lực lượng có âm mưu bạo động ở Hà Nội… Chứng tỏ trên bước đường trưởng thành của mình, Đông Kinh Nghĩa Thục đang đi dần từ cải lương hợp pháp sang bạo động bất hợp pháp.<br />Thực dân Pháp lúc đầu ngộ nhận tính cải lương hợp pháp của Đông Kinh Nghĩa Thục; sau đó chúng nhận thấy đây chính là “cái lò phiến loạn” ở Bắc Kỳ. Tháng 12/1907 Pháp ra lệnh đóng cửa Đông Kinh Nghĩa Thục, chúng cho lùng sục, bắt bớ các lãnh tụ của Đông Kinh Nghĩa Thục. Đến giữa năm 1908, Đông Kinh Nghĩa Thục đã bị dập tắt hoàn toàn.<br /><br />3. Phong trào Duy Tân và chống thuế ở Trung kỳ<br />Phong trào Duy Tân gắn liền với tên tuổi Phan Chu Trinh.<br />Phan Chu Trinh (1872 - 1926) hiệu là Tây Hồ, sinh trưởng trong môt gia đình võ quan ở huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Lúc còn nhỏ Phan Chu Trinh cũng ham võ nghệ bởi cha ông là Phan Văn Bình vốn là một quan Sơn Phòng của triều đình Hàm Nghi - Tôn Thất Thuyết, sau theo nghĩa quân Cần Vương, giữ chức Chuyển Vận Sứ cho nghĩa quân của Trần Ngọc Dư, Nguyễn Duy Hiệu. Phan rất khâm phục chí khí yêu nước của cha và những người theo vua Hàm Nghi chống Pháp, nhưng ông cũng luôn luôn chăm chú đèn sách. Năm 1901 ông đậu Phó bảng. Sau đó vào trường Hậu Bổ làm quan với chức Thừa Thiên Bộ Lễ.<br />Hơn một năm sau, Phan cáo quan về nhà chuyên tâm công việc cứu nước. Phan đọc nhiều sách báo Pháp và Tân báo Tân thư ; ông vào Nam ra Bắc, giao lưu với các giới… Quá trình đó ông thấy rõ rằng, phải khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, phải đập tan vỡ cái xã hội quân chủ thì mới đưa được xã hội Việt Nam tiến lên con đường dân chủ. Phan Chu Trinh cùng với các đồng chí của ông như Hùynh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp… Đã nỗ lực tuyên truyền cho tư tưởng ấy và gây dựng phong trào Duy Tân dân chủ ở các địa phương. Lúc ấy Duy Tân Hội của Phan Bội Châu đã dấy lên phong trào Đông Du. Phan Chu Trinh rất tán đồng và hi vọng vào tinh thần trỗi dậy mở mang của nhân dân.<br />Năm 1906, sau khi từ Trung Quốc và Nhật Bản trở về, Phan Chu Trinh gửi cho toàn quyền Đông Dương Paul Beau bức thư tâm huyết nhan đề “Đầu Pháp Chính Phủ Thư” (ngày 15/8/1906). Trong đó Phan mạnh dạn tố cáo chế độ quan trường, vạch rõ thảm trạng của nước Nam và chỉ trích chính phủ bảo hộ Pháp đã “dung dưỡng bọn phong kiến sâu mọt”. Phan cũng đưa ra hàng loạt kiến nghị yêu cầu Pháp phải “thực tâm khai hoá” thuộc địa. Đó là những việc như mở mang trường học, phát triển công thương, đặt dựng thư cục, cải cách hương tục, chống lề thói phong kiến, “kén chọn hiền tài, hưng lợi trừ hại, mở đường sinh nhai cho dân nghèo, rộng đường ăn nói cho thân sĩ….”. Phan Chu Trinh hi vọng công cuộc thực dân ấy sẽ mở ra một triển vọng tốt đẹp cho đất nước.<br />Bức thư của Phan Chu Trinh một mặt là sự quan tâm lớn của ông đến vận mệnh dân tộc. Mặt khác, bức thư toát lên một ảo tưởng của dân tộc và sự ngộ nhận về con đường dân chủ tư sản ở thuộc địa Việt Nam. Phan đề xướng biện pháp cải lương Duy Tân và phủ nhận con đường bạo động vũ trang cứu nước, không chấp nhận ngoại viện. Ông cho rằng “Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu”. Ông chủ trương dựa vào thực dân Pháp để đánh đổ phong kiến và phát triển dân chủ, khi “dân đã giác ngộ được quyền lợi của mình, bấy giờ mới có thể dần dần mưu tính đến việc khác”. Điều đó được Trần Dân Tiên sau này đã phê phán rằng “Chẳng khác nào xin giặc rủ lòng thương.”<br />Tuy thế, bức thư Phan Chu Trinh gửi Toàn quyền Đông Dương vẫn có tiếng vang lớn, uy tín của ông càng nâng cao. Phan cùng các đồng chí của ông lao vào hoạt động trong làn sóng phong trào Duy Tân đang trào dâng.<br />Trong khi ở Bắc Kỳ sôi nổi với phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục thì ở Trung Kỳ phong trào cải lương Duy Tân cũng từng bước phát triển đến cao trào và vượt khỏi giới hạn ôn hòa để công khai tuyên chiến với đế quốc, phong kiến. Trước năm 1908 cuộc vận động cải lương dân chủ ở Trung Kỳ nhằm 02 đối tượng. Công kích vào những tập tục hủ bại của xã hội phong kiến và truyền bá về xã hội mới - xã hội dân chủ. Các sĩ phu cùng các tầng lớp nhân dân, nhất là ở nông thôn đã nhằm vào cái cũ lạc hậu của xã hội phong kiến để đả phá, công kích; đồng thời hồ hởi lao vào xây dựng cái mới tiến bộ.<br />Trên lĩnh vực kinh tế họ đã đạp lên quan niệm cũ của xã hội phong kiến “trọng nông ức thương”, “trọng vương khinh bá”. Họ kêu gọi lập hội kinh doanh buôn bán, mở cơ sở sản xuất, đẩy mạnh hoạt động công - nông - thương. Những cơ sở kinh tế của các sĩ phu xuất hiện như “Quảng Nam Hiệp Thương Công Ty” (của Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí), “Triều Dương Thương Quán” (của Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn)… Các hoạt động kinh tế này ở Trung Kỳ, cùng những hoạt động chấn hưng thực nghiệp trên cả nước những năm đầu thế kỷ XX đã góp phần hình thành phát triển bộ phận kinh tế mới của dân tộc.<br />Trên lĩnh vực văn hóa, các sĩ phu Duy Tân đã nô nức mở trường học theo lối mới và biến các trường sở ấy thành trung tâm cải cách xã hội. Phan Chu Trinh đã tham gia vận động thành lập được 48 trường; Đặng Nguyên Cẩn chủ trì công ty nước mắm Liên Thành và mở trường Dục Thanh ở Phan Thiết… Thực dân Pháp thừa nhận ở các địa phương thuộc Trung Kỳ có tới 333 trường hợp có giáo viên tham gia phong trào. Giáo viên phần lớn là các sĩ phu, họ vừa dạy (cái đã biết) vừa học (cái mới) vừa sinh hoạt xã hội với học sinh, vì thế nhà trường được gắn liền với xãhội.<br />Học tập Đông Kinh Nghĩa Thục và đi xa hơn thế, các trường học theo lối mới ở Trung Kỳ đã đi nhanh về nông thôn và trở thành phong trào quần chúng với sức sáng tạo mãnh liệt của nó. Có nơi tổ chức trường riêng cho nam và cả trường riêng cho nữ; nhiều trường tổ chức học tập chính khóa và sinh hoạt ngoại khoá với nội dung rất phong phú lại có nơi trường học đảm nhiệm công tác đảm bảo trật tự trị an trong thôn xã… Nhiều phong trào từ trong nhà trường mở rộng ra ngoài trường và trở thành phong trào chung của xã hội, như phong trào cắt tóc ngăn, mặc áo ngắn, chống mê tín dị đoan, cổ động hàng nội hóa… Những vấn đề nóng bỏng của nông thôn lúc đó cũng được đề cập đến như tô thuế, sưu dịch, phu phen, chúng cần được bãi bỏ cùng với tất cả những hủ bại của xã hội phong kiến.<br />Đầu năm 1908, từ những buổi diễn thuyết trong trường học, quần chúng nông dân đã nhận thấy vấn đề thuế má sưu dịch đang ngày càng trở nên bức bách trong đời sống. Cuối tháng 2/1908, ở Quảng Nam xuất hiện cuộc biểu tình của nhân dân huyện Đại Lộc đòi bổ lại sưu dịch. Quần chúng đấu tranh ôn hòa nhưng địch đã đàn áp và làm tăng thêm mâu thuẫn, đưa phong trào quần chúng lên cao.<br />Từ Đại Lộc lan ra cả Quảng Nam, từ Quảng Nam lan vào Quảng Ngãi, Bình Định, lan ra Trị Thiên và miền Thanh - Nghệ - Tĩnh, các địa phương Trung Kỳ rầm rộ biểu tình chống thuế, chống phu phen, sưu dịch. Lực lượng quần chúng đông đảo đã đàn áp bọn hào lý ở các xã thôn, những tên ác ôn bị trừng trị đích đáng, kẻ sách nhiễu nhân dân bị lôi ra bẻ bài ngà, xé áo lam và bị cảnh cáo. Ở Bình Sơn (Quảng Ngãi) nhân dân bắt trói 25 lý trưởng, phó lý của Tổng Bình Hòa dẫn lên Toà Công sứ làm con tin để đòi giảm thuế. Ở Duy Xuyên, tên Chánh Quát gây nhiều nợ máu với nhân dân đã bị lùng bắt và bị buộc đá dìm xuống sông… Nhiều nơi hệ thống chính quyền tay sai bỏ cả huyện đường, công sở, nhà hội đồng để chạy thoát thân, những cuộc xung đột của quần chúng nhân dân với binh lính địch cũng nổ ra.<br />Thực dân Pháp và tay sai ngay từ đầu đã dùng lực lượng quân sự đàn áp quần chúng và chúng quyết tâm dìm phong trào trong biển máu. Hàng loạt sĩ phu bị bắt và tù đày: Phan Chu Trinh và nhiều lãnh tụ khác bị đày Côn Đảo; Trần Quý Cáp cùng nhiều người cảm tử khác bị xử tử hình; hàng ngàn người khác bị khủng bố và giam cầm. Phong trào cải lương Duy Tân ở Trung Kỳ chuyển thành cuộc chống thuế, đến tháng 5/1908 bị đàn áp dã man.<br />Cuộc khởi nghĩa rộng lớn của nhân dân Trung Kỳ thất bại, nhưng nó đã đóng góp hình thức mới hết sức độc đáo thể hiện sự chuyển biến căn bản của phương thức hoạt động trong phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX. Sự chuyển biến của phong trào cải lương Duy Tân từ ôn hòa sang bạo động cũng chứng tỏ xu hướng bạo động là xu hướng chủ đạo. Dù đi theo phương thức nào, nếu đã làm khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, nếu đã đưa những tư tưởng mới đi vào quần chúng, các phong trào cuối cùng cũng sẽ quay về một mối với xu hướng bạo động. Đó là sự phát triển tất yếu, phù hợp với truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc.<br />Các phong trào yêu nước dù cải lương hay bạo động đều xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đều có chung sự tác động của tư tưởng dân chủ tư sản, đều nhằm chung mục đích cứu nước. Vì thế những hình thức khác nhau chỉ chứng minh cho tính chất phong phú nhiều vẻ của một nội dung, một bản chất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Hai xu hướng ấy song song tồn tại với nhau, kết hợp với nhau, tạo nên đỉnh cao cho phong trào dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX, với những lãnh tựu xuất sắc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.<br />4. Việt Nam Quang Phục hội<br />Giữa lúc Phan Bội Châu và các nhà yêu nước Việt Nam đang trông chờ một cơ hội khác để tiếp tục hoạt động thì Cách Mạng Tân Hợi của Trung Quốc bùng nổ. Mở đầu là khởi nghĩa Vũ Xương ngày 10/10/1911, Cách mạng tư sản đầu tiên ở Trung Quốc đưa đến việc lật đổ chiều Mãn Thanh, lập ra chính phủ Trung Hoa Dân quốc. Điều đó đã trở thành một hình mẫu mới cho các nhà cách mạng Việt Nam hướng tới.<br />Ngày 19/6/1912, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Phan Bội Châu, hơn một trăm người đại diện cho nhiều lực lượng yêu nước Việt Nam cả trong và ngoài nước đã cùng hội họp ở Quảng Châu (Trung Quốc), lập ra một tổ chức mới thay cho Duy Tân Hội, lấy tên là Việt Nam Quang Phục Hội. Tôn chỉ của Việt Nam Quang Phục Hội nhấn mạnh việc phải đánh đuổi thực dân Pháp giành lại nước Việt Nam, thành lập Cộng hoà Dân quốc Việt Nam. Tổ chức của Việt Nam Quang Phục Hội giống như một chính phủ lâm thời. Là người sáng lập ra Việt Nam Quang Phục Hội, Phan Bội Châu tiếp tục giữ những trọng trách của tổ chức này (Ông phụ trách bộ cao nhất là Bộ Tổng vụ). Các bộ khác như Bộ Bình nghị, Bộ Chấp hành cũng phân công cho nhiều người có uy tín và đức độ phụ trách.<br />Với sự mô phỏng theo Cách mạng Tân Hợi, Việt Nam Quang Phục Hội đã tiến một bước xa hơn trên con đường dân chủ tư sản. Tuy vậy Phan vẫn chủ trương dựa vào sự giúp đỡ của nước ngoài để tiếp tục con đường bạo động đánh Pháp. Theo chủ trương đó, ngay khi ra đời Việt Nam Quang Phục Hội đã tích cực vận động sự giúp đỡ của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc để tranh thủ xây dựng lực lượng chuẩn bị một cuộc vũ trang khởi nghĩa. Khi Tôn Trung Sơn nhường chức Tổng thống cho Viên Thế Khải, chính phủ Trung Hoa Dân quốc ngả sang con đường quân phiệt. Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu gặp nhiều khó khăn về ngoại viện, làm chậm việc xây dựng lực lượng trong, ngoài nước.<br />Để gây tiếng vang thúc đẩy quá trình này, đầu năm 1913 Phan Bội Châu quyết định sử dụng một số hoạt động có tính chất “Kinh thiên động địa”, bằng cách cho hội viên Việt Nam Quang Phục Hội thi hành các bản án viết sẵn đối với toàn quyền Đông Dương và những tên ác ôn tay sai khét tiếng như Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Duy Hàn… kết quả là một số hội viên trong nước ném tạc đạn giết tên ác ôn Nguyễn Duy Hàn ở Thái Bình (ngày 19/4/1913), đánh bom vào khách sạn Tràng Tiền giết chết 02 sĩ quan Pháp ở Hà Nội (ngày 26/4/1913).<br />Những cuộc ám sát cá nhân ấy gây cho địch nhiều hoang mang, nhưng liền đó chúng đã tập trung đánh phá Việt Nam Quang Phục Hội. Hàng trăm người yêu nước bị bắt bớ giam cầm, 07 hội viên tích cực của Việt Nam Quang Phục Hội ở Bắc Kỳ bị xử tử hình, các cơ sở trong, ngoài nước bị vỡ lỡ. Đầu tháng 1/1914, đến lượt Phan Bội Châu và Cường Để bị bắt. Việt Nam Quang Phục Hội đến đây tan rã. Như vậy từ Duy Tân Hội đến Việt Nam Quang Phục Hội, con đường đấu tranh theo xu hướng bạo động mà Phan Bội Châu chủ trương đã trải qua 02 bước phát triển quan trọng, đạt tới mức độ cao nhất có thể đạt được của tư tưởng dân chủ tư sản lúc bấy giờ. Trong thời gian khoảng 10 năm kể từ khi Duy Tân Hội được thành lập, phong trào yêu nước Việt Nam đã bùng lên với bao nội dung và hình thức mới thật sôi nổi. Mặc dù những tổ chức và những hoạt động yêu nước theo tư tưởng đó sớm muộn đều thất bại, nhưng tính phong phú sáng tạo của nó và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phát triển trên nền tảng đó là bất diệt. Phan Bội Châu mãi mãi là một trong những lãnh tụ xuất sắc của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.<br />III. XU HƯỚNG ĐẤU TRANH TỰ PHÁT<br />1. Phong trào nông dân Yên Thế<br />Đầu thế kỷ XX cùng với sự chuyển biến toàn diện nền kinh tế - xã hội, những đô thị mới của đất nước đã hình thành. Đó là những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, là bộ mặt của xã hội thuộc địa, là sào huyệt của nền đô hộ thực dân.<br />Trong khi đó dân tộc đã dấy lên những phong trào yêu nước với nhiều nội dung, hình thức mới rất phong phú, tất cả đều lôi cuốn, tác động đến các tầng lớp nhân dân ở thị thành cũng như ở chốn thôn quê. Những phong trào đấu tranh theo xu hướng tự phát vì vậy cũng có nhiều nét mới để tiếp tục duy trì phát triển, trong đó phong trào nông dân Yên Thế là một điển hình.<br />Phong trào nông dân Yên Thế bùng nổ từ những năm 1884 - 1885 và vẫn còn tồn tại đến hết thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX. Tiếp tục xây dựng thế thủ hiểm nơi rừng núi Yên Thế, Hoàng Hoa Thám đã cho xây dựng căn cứ Phồn Xương ngày càng vững chắc và nghĩa quân vừa lao động sản xuất vừa luyện tập quân sự theo kế sách “ngụ binh ư nông” của cha ông xưa. Tại Phồn Xương và các căn cứ khác, nghĩa quân Yên Thế đã tích trữ lương thực, rèn vũ khí, đắp công sự sẵn sàng chống đỡ mọi cuộc tấn công của giặc Pháp.<br />Mặt khác trong điều kiện mới đầu thế kỷ XX, nghĩa quân Yên Thế cũng đã có nhiều cố gắng vươn dài cánh tay về Hà Nội, nơi có một bộ phân nông dân mặc áo lính đang nhen nhóm phong trào của binh sĩ yêu nước.<br />Giữa năm 1907, Hoàng Hoa Thám cho một số thủ hạ nghĩa quân như Chánh Tỉnh, Đội Hổ, Lý Nho về Hà Nội lập hội “ Nghĩa Hưng” để móc nối với binh sĩ Việt Nam trong quân đội Pháp. Nghĩa quân Hoàng Hoa Thám còn dự định sẽ đưa quân về phối hợp với anh em binh sĩ trong kế hoạch tổng bạo động đánh thành Hà Nội.<br />Giữa năm 1908, âm mưu bạo động của binh lính ở Hà Nội bị thất bại. Thực dân Pháp ra tay đàn áp khủng bố tất cả các phong trào yêu nước và từ đầu năm 1909 chúng đã tấn công lên Yên Thế, đẩy nghĩa quân Hoàng Hoa Thám vào giai đoạn quật khởi cuối cùng.<br />Đầu năm 1913, khi Hoàng Hoa Thám bị sát hại bởi bọn bội phản, nghĩa quân của ông cũng nổ những tiếng súng kết thúc cuộc chiến đấu bền bỉ kiên cường gần 30 năm kể từ cuối thế kỷ XIX.<br />2. Đấu tranh của binh sĩ Việt Nam trong quân đội Pháp<br />Cuộc nổi dậy đầu tiên của binh sĩ yêu nước Việt Nam trong quân đội pháp là vụ Hà Thành đầu độc.<br />Được sự phối hợp của nghĩa quân Yên Thế trong hội Nghĩa Hưng, lực lượng binh sĩ yêu nước ở Hà Nội mà cầm đầu là Đội Bình, Đội Cốc, Đội Nhân, Cai Ngà, Cai Hiên đã tích cực chuẩn bị cho một cuộc binh biến. Sau cuộc họp bí mật ở nhà thầy Lang Seo, các thủ lĩnh nghĩa binh và các hội viên hội Nghĩa Hưng đã thống nhất kế hoạch tổng bạo động đánh thành Hà Nội, mở đầu bằng việc đầu độc làm tê liệt lực lượng sĩ quan binh lính Pháp trong đơn vị pháo binh và trung đoàn Thuộc địa số 9. Do tổ chức không chặt chẽ và còn nhiều ấu trĩ, lạc hậu nên thực dân Pháp đã nhanh chóng năm được âm mưu của binh sĩ, chúng quản lý chặt chẽ các binh lính đơn vị người bản xứ, nhất là việc canh phòng và giao nộp vũ khí hàng ngày.<br />Vào lúc Pháp đã nắm được toàn bộ kế hoạch khởi sự do binh sĩ khai báo lúc cầu nguyện, chiều tối ngày 27/6/1908 vụ đầu độc do Cai Hiên phụ trách đã diễn ra. Thuốc độc làm bằng cà độc dược đã đầu độc 250 binh lính sĩ quan Pháp, làm cho chúng vô cùng hoảng sợ và khẩn trương cấp cứu. Ngay đó Pháp đã đàn áp ác liệt lực lượng binh sĩ yêu nước. Đội Bình, Độc Cốc, Đội Nhân, Cai Ngà, Cai Hiên bị bắt và xử chém bêu đầu, hàng trăm binh sĩ khác bị chém giết, tù đày… Nhân đó Pháp ra sức tấn công tất cả các lực lượng và phong trào dân tộc bất kể đó là phong trào bạo động hay cải lương.<br /> Trong hoàn cảnh phong trào cách mạng cả nước đang phát triển mạnh mẽ và chuyển mình theo các trào lưu mới, cuộc quật khởi của những người binh sĩ yêu nước mặc dù còn phiêu lưu nhưng đã đánh dấu bước chuyển hướng mới của phong trào tự phát, trong đó lực lượng tham gia phong trào này đã mở rộng, hình thức đấu tranh cũng không còn đơn điệu như trước nữa.<br />3. Phong trào Hội kín ở Nam Kỳ<br />Trong điều kiện mới của đất nước đầu thế kỷ XX, để tiếp tục đấu tranh, nhân dân Nam Kỳ không thể tiến hành các cuộc khởi nghĩa vũ trang như trước như khi quần chúng yêu nước đã tập hợp lại thì tinh thần quật khởi và ý chí chống Pháp đã được nuôi dưỡng làm bùng lên thành phong trào.<br />Những năm 1910 - 1911, khắp các thành thị nông thôn Nam Kỳ đâu đâu cũng xuất hiện các Hội kín với nhiều tên gọi khác nhau như: Thi Bình Hội, Phục Hưng Hội, Ái Quốc Hội…, phổ biến nhất là Thiên Địa Hội. Đó là các tổ chức tương tế tương đồng của các tầng lớp quần chúng, có nhuốm một ít màu sắc tôn giáo lúc cần thiết. Các Hội kín hoạt động theo xu hướng và nguyện vọng riêng của mình nhưng cùng chung một mục tiêu đề cao tinh thần yêu nước. Quần chúng tôn Phan Phát Sanh làn thủ lĩnh để cùng phối hợp hành động. Phan Phát Sanh đã nhận là dòng dõi “nhà trời” và xưng là “Phan Xích Long hoàng đế”, lập căn cứ ở Thất Sơn (Châu Đốc) nhằm chuẩn bị cho những hoạt động chống Pháp.<br />Những năm 1912 - 1913 phong trào Hội kín Nam Kỳ đã hoạt động khá mạnh ở cả thành thị và nông thôn với những cuộc rải truyền đơn, ném tạc đạn, trừng trị cảnh cáo bọn ác ôn cường hào, những cuộc biểu tình từ nông thôn kéo vào các thành thị biểu dương lực lượng.<br />Ngày 28/3/1913 lực lượng các Hội kín đã tổ chức tấn công vào Sài Gòn - Chợ Lớn. Thực dân Pháp theo dõi và lùng bắt những người cầm đầu các Hội kín, khi có cuộc tấn công của các Hội kín thì chúng đã đàn áp thẳng tay phong trào này. Nhiều người đã bị bắt tù đày, thủ lĩnh Phan Xích Long trốn ra vùng Phan Thiết cũng bị bắt. Tuy vậy các Hội kín Nam Kỳ vẫn tồn tại, phát triển mạnh mẽ những năm sau đó.<br />4. Phong trào đấu tranh của đồng bào miền núi<br />Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân tới các vùng rừng núi, cao nguyên ở cả Nam - Trung - Bắc, chúng đã vấp phải cuộc chiến đấu ngoan cường của nhân dân các dân tộc để bảo vệ quê hương, bản làng của mình. Đầu thế kỷ XX phong trào của các dân tộc ít người càng sôi nổi đấu tranh trống xâm lược.<br />- Người Mường ở Hòa Bình có đội vũ trang do Nguyễn Văn Kiêm lãnh đạo. Tháng 8/1909 nghĩa quân của Nguyễn Văn Kiệm đã tấn công vào tỉnh lị Hòa Bình.<br />- Người Mèo và người Thái ở Hòa Bình cũng tổ chức những đội vũ trang riêng. Thủ lĩnh của người Mèo là Giang Tả Chay, thủ lĩnh người Thái là Lương Bảo Định. Hai lực lượng này đã phối hợp nhau trong nhiều hoạt động chống Pháp.<br />- Người Mèo ở Hà Giang có đội nghĩa quân do Sùng Mi Chảng cầm đầu, hoạt động theo lối đánh du kích. Nghĩa quân đã nhiều lần đánh địch ở Mèo Vạc gây tổn thất cho Pháp và tay sai.<br />- Người Hoa ở Quảng Ninh có đội nghĩa binh do Lã Thập Nhất (Đội Sáng) lãnh đạo. Lực lượng của Đội Sáng hoạt động mạnh ở vùng biên giới Việt - Trung suốt những năm trước và trong chiến tranh.<br />- Người Thượng ở Đông Nam bộ xây dựng lực lượng du kích ngưới S’Tiêng, M’Nông… Do Nơ Trang Lơn lãnh đạo. Hoạt động của lực lượng Nơ Trang Lơn từ trước chiến tranh thế giới kéo dài đến hàng chục năm sau đó.<br />Như thế, đồng bào các dân tộc Việt Nam miền xuôi cũng như miền ngược luôn luôn có tinh thần yêu nước được thể hiện bằng thực tế hành động của mình. Cuôc đấu tranh của đồng bào các dân tộc đã diễn ra trên quy mô rộng lớn và rất bền bỉ quyết liệt, tuy cuối cùng đều bị Pháp và tay sai đàn áp đến thất bại nhưng tinh thần yêu nước và sức quật khởi ấy luôn âm ỉ trong lòng mọi người dân để hễ có dịp lại bùng lên.</span>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.com2tag:blogger.com,1999:blog-8937238595533843031.post-40478613401112292812007-07-30T22:11:00.004-07:002007-07-30T22:18:11.059-07:00PHAP XAM LUOC VIET NAM (1858-1896)<span style="font-family:times new roman;"><strong>PHÁP XÂM LƯỢC VÀ THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ CAI TRỊ THỰC DÂN<br />Ở VIỆT NAM (1858 - 1896)<br /><br />I. THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VIỆT NAM<br />1. Âm mưu xâm lược Việt Nam của Pháp<br /></strong>Bước vào thế kỷ thứ XIX, với sự phát triển mạnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đem đến những thay đổi to lớn cho các nước Phương Tây, mà trước tiên là trên lĩnh vực kinh tế. Cuộc cách mạng này đã nhanh chóng cổ vũ và khuyến khích cho sự tăng tốc của những nền kinh tế tư bản. Và cũng từ đây, làn sóng xâm lược đến các nước Phương Đông vốn đã trỗi dậy từ cuối thế kỷ thứ XV càng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nhu cầu tìm nguồn nguyên liệu cũng như thị trường tiêu thụ của các nước tư bản phương Tây là nguyên nhân khiến cho hàng loạt các nước ở vùng Đông và Nam châu Á đều bị các nước tư bản Phương Tây xâm lược. Ở Trung Quốc, chiến tranh Nha phiến (1839-1842) với nước Anh đã mở màn cho hàng hoạt các nước đế quốc khác như Pháp, Hà Lan… theo chân vào xâm lược Trung Quốc.<br />Trên thực tế, ở những thập niên đầu thế kỷ XIX, ý đồ can thiệp, xâm lược của các nước tư bản thực dân phương Tây đã trở thành nguy cơ chung của hàng loạt nước phương Đông và các nước khu vực Đông Nam Á nói riêng.<br />Bấy giờ thực dân Anh đã chú ý sử dụng Xiêm vào kế hoạch xâm lược. Năm 1822, Anh ký hiệp ước thông thương với Xiêm. Hai năm sau (1824), Anh tấn công Miến Điện và xúi giục vua Xiêm đánh vào biên giới Miến - Xiêm, tạo thuận lợi cho Anh tấn công Miến Điện. Năm 1827, Anh lại ký một hiệp ước buộc Xiêm phải cho người Anh đến buôn bán tự do ở một số bang. Ngót 80 năm sau, Anh chiếm luôn những bang này của Xiêm và sáp nhập vào Mã Lai.<br />Đối với Mã Lai, từ đầu thế kỷ XIX, Công ty Đông-Ấn của Anh đã chiếm dần những cứ điểm quan trọng trên bán đảo này nhằm giành ưu thế thương mại và quân sự ở Viễn Đông. Năm 1819, công ty này giành được ưu thế chiếm đóng Singapore có vị trí chiến lược trọng yếu trên đường hàng hải từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Năm 1824, Anh mua toàn bộ Singapore với giá 6 vạn đồng Tây Ban Nha và liên tiếp vừa mua vừa chiếm nhiều vùng khác (Pénang, Kuala-Lumpur…). Đồng thời, Anh thương lượng với Hà Lan đổi nhượng Malacca, một trung tâm kinh tế chính trị quan trọng của Mã Lai. Năm 1826, thực dân Anh gộp Singapore, Pénang, Wellesley thành một khối, gọi là “Đất thực dân eo biển”, dưới quyền quản trị của Công ty Đông-Ấn, đặt thủ phủ tại Kuala-Lumpur.<br />Cho đến đầu thế kỷ XIX Miến Điện là một nước quân chủ mạnh trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng từ cuối thế kỷ XVIII, sau khi nắm được Ấn Độ, Công ty Đông-Ấn của Anh bành trướng sang vùng Bengale tiếp giáp Miến Điện. Đặt xong một số thương điếm ở gần thủ đô Rangoun (Miến Điện), năm 1792 thực dân Anh yêu cầu triều đình Miến Điện chấp nhận Công ty Đông-Ấn hưởng đặc quyền buôn bán và đặt cơ quan thường trú. Bị vua Miến Điện khước từ, thực dân Anh quyết định thực hiện yêu sách trên bằng vũ lực vào đầu thế kỷ XIX.<br />Hai nước láng giềng sát cạnh Việt Nam là Campuchia và Lào cũng chịu chung thử thách như các nước khác trong khu vực. Bước sang thế kỷ XIX, kẻ thù đáng gờm nhất của Campuchia là triều đình Xiêm. Thực hiện ý đồ bành trướng và nô dịch Miên, vua Xiêm gây ra nhiều cuộc đảo chính ở Campuchia, đem quân sang chiếm đóng Ou-Dong, Phnom-Pênh và cử quan chức sang kiểm soát nội trị, ngoại giao, tiếp tục khống chế Campuchia cho đến khi thực dân Pháp bắt đầu kế hoạch xâm lược nước này vào giữa thế kỷ XIX đồng thời với việc lần lượt đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ của Việt Nam.<br />Trong vài thập niên đầu thế XIX, Lào cũng đang bị áp lực nặng nề của triều đình Xiêm. Quân Xiêm đóng ở Hạ Lào (Champassak) và cũng áp dụng những chính sách như đối với Miên. Ở Trung Lào, quân Xiêm tàn phá và sáp nhập phần lớn đất đai của vương quốc Vientiane, chiếm đóng phần còn lại, đồng thời uy hiếp Luang-Prabang ở Thượng Lào. Toàn bộ nước Lào coi như chịu sự khống chế của Xiêm trước khi bị cắt phần đất phía đông cho thực dân Pháp.<br />Nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX vừa phải đáp ứng những yêu cầu hồi sinh đất nước vừa phải đối phó với những bất trắc có thể xuất phát từ những nước láng giềng, nhưng nguy hiểm hơn vẫn là ý đồ can thiệp, xâm lược của các nước tư bản thực dân phương Tây, chủ yếu là thực dân Pháp.<br />Trong hoàn cảnh như vậy, Việt Nam, một đất nước giàu tài nguyên cũng sớm được các nước tư bản phương Tây chú ý đến.<br />Ngay từ năm 1645, sau 21 năm làm công việc truyền giáo ở Việt Nam, khi về Pháp Alexan de Rhodes đã đưa ra lời nhận xét cío ý cổ vũ cho một cuộc xâm chiếm thuộc địa: “Đây là một vị trí cần phải chiếm lấy; chiếm được vị trí này thì thương nhân châu Âu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên dồi dào”…<br />Để thăm dò tình hình, từng bước chuẩn bị cho việc xâm chiếm nước ta, Pháp dựa vào 2 lực lượng cơ bản: hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ thừa sai và những hoạt động buôn bán của các phái đoàn trong Công ty Đông Ấn ở Việt Nam. Đặc biệt là từ sau năm 1664, khi Hội truyền giáo nước ngoài Paris thành lập, các giáo sĩ thừa sai càng có thêm cơ sở và điều kiện để gia tăng hoạt động truyền giáo tại Việt Nam và cung cấp thêm cho nước Pháp nhiều thông tin hơn.<br />Napoléon Ponaparte đã đặt nhiều tin tưởng vào vai trò của các giáo sĩ và cho rằng: “Hội truyền giáo nước ngoài sẽ rất có ích cho tôi ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Tôi sẽ cử các giáo sĩ đi điều tra tình hình ở các xứ. Tấm áo choàng sẽ che chở cho họ và sẽ dùng để che giấu những mưu đồ chính trị và thương nghiệp”<br />Ngay từ buổi đầu nhòm ngó Việt Nam, các giáo sĩ và thương nhân Pháp đã hợp tác chặt chẽ với nhau. Giáo sĩ mở đường đi trước, thương nhân theo sau, rồi cùng nhau đẩy mạnh hoạt động.<br />Kế hoạch xâm lược nước ta còn được thúc đẩy hơn nữa bởi cuộc chiến tranh giành thuộc địa nổ ra giữa Anh và Pháp (1756 - 1763) đã đem lại những thất bại nặng nề cho tư bản Pháp - hầu hết những thuộc địa của người Pháp ở châu Á và châu Mỹ đã phải nhường lại cho thực dân Anh.<br />Trong một bản báo cáo gửi về Pháp, giáo sĩ Huc báo cáo: “Dường như chỉ còn sót lại Nam Kỳ là xứ mà người Anh chưa để ý đến. Nhưng có thể nào tin rằng họ sẽ không gấp rút dòm ngó đến chăng? Nếu họ quyết định điều đó trước chúng ta thì chúng ta sẽ vĩnh viễn bị loại khỏi vùng này, chúng ta sẽ mất một căn cứ quan trọng ở vùng châu Á…”. Trước nguy cơ mất hết thuộc địa tại châu Á này, thực dân Pháp gấp rút tìm mọi cơ hội để sớm can thiệp vào Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó, cuộc chiến tranh giành quyền lực của Nguyễn Ánh với Tây Sơn đã tạo cho thực dân Pháp một dịp tốt để thực hiện âm mưu nói trên.<br />Sau khi 5 vạn quân Xiêm can thiệp đã bị quân Tây Sơn đánh tan trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút thì Nguyễn Ánh lại quay sang cầu viện thực dân Phương Tây. Trước cơ hội hiếm hoi này, tất cả thực dân Anh, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đều phái nhân viên đến bắt liên lạc với Nguyễn Ánh. Đã có lúc Nguyễn Ánh định sang Indonesia cầu viện Hà Lan, hoặc sang Goa cầu viện Bồ Đào Nha. Nhưng cuối cùng xu hướng cầu viện tư bản Pháp của Nguyễn Ánh ngày càng rõ rệt. Điều này cũng xuất phát từ một nguyên nhân sâu xa, đó là từ lâu các giáo sỹ Pháp đã hoạt động nhiều trên đất nước ta và họ đã có những ảnh hưởng nhất định trong các tầng lớp xã hội. Hơn thế nữa, Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau De Béhaine) đã chủ động đến với Nguyễn Ánh đúng lúc, và ngay lập tức ông ta được Nguyễn Ánh tin tưởng, giao cho ấn và hoàng tử Cảnh (làm con tin) để Bá Đa Lộc đưa sang Pháp cầu viện vua Louis XVI vào năm 1784.<br />Trong việc giao kết này cả hai bên đều muốn dựa vào nhau để có lợi. Bá Đa Lộc thì muốn giúp đỡ để Nguyễn Ánh thành công, sau đó sẽ trở thành người có vai trò quan trọng, dùng nó để phục vụ cho công việc mở rộng truyền đạo và có thể phục vụ tốt cho quyền lợi của “nước mẹ” Pháp ở vùng Viễn Đông. Còn Nguyễn Ánh vì thế lực yếu muốn thông qua Bá Đa Lộc với hy vọng nhận được nguồn vật lực và vũ khí từ sự giúp đỡ của nước Pháp để đánh bại Tây Sơn.<br />Ngày 28/11/1787, tại cung điện Versailles (Pháp) một hiệp ước gọi là “Hiệp ước Liên minh tấn công và phòng thủ” được ký kết giữa đại diện của Nguyễn Ánh là Bá Đa Lộc và đại diện của vua Pháp Louis XVI là bá tước De Mont Morin.<br />Nội dung chính của hiệp ước Versailles là Pháp cam đoan sẽ gửi quân đội và vũ khí sang trợ giúp Nguyễn Ánh; đổi lại Pháp được quyền sở hữu hoàn toàn cảng Hội An và đảo Côn Lôn cùng với việc mở cửa buôn bán dành riêng cho Pháp.<br />Hiệp ước Versailles là một cơ sở pháp lý mà sau này Pháp có thể dựa vào đó tạo cơ hội đánh Việt Nam.<br />Được sự vận động tích cực của giám mục Bá Đa Lộc, từ mùa thu năm 1788, một số người Pháp và người Âu lần lượt đến Gia Định giúp Nguyễn Ánh huấn luyện binh lính, chỉ huy đội thủy quân… Thông quan Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh còn được mua về hàng vạn khẩu súng tay và hàng ngàn cỗ đại bác. Cùng với vũ khí và những người Pháp và người Âu đến giúp, quân Nguyễn Ánh được huấn luyện bài bản, sử dụng vũ khí hiện đại, có thêm nhiều tài chiến… nên quân đội Nguyễn Ánh trở nên mạnh hơn trước rất nhiều.<br />Nhưng Cách mạng tư sản Pháp bùng nổ (1789), chính quyền phong kiến ký hiệp ước với Nguyễn Ánh bị lật đổ. Tiếp đó là chiến tranh kéo dài hơn 20 năm trên lục địa châu Âu (1792 - 1815) đã cản trở việc thi hành hiệp ước Versailles. Kế hoạch can thiệp sâu hơn vào Việt Nam của thực dân Pháp do vậy bị chậm lại một thời gian.<br />Năm 1891, một người Pháp nhắc lại tình hình này và cho rằng: “Giá như bấy giờ chính phủ Pháp sẵn sàng giúp Bá Đa Lộc thì có lẽ ông ta đã thiết lập xong cho nước Pháp nền bảo hộ An Nam ngay từ cuối thế kỷ XVIII”.<br />Nhưng cũng trong thời gian này, vua Quang Trung đột ngột qua đời (tháng 9-1792), triều Tây Sơn nhanh chóng rơi vào suy yếu do lục đục và tranh chấp nội bộ. Nguyễn Ánh nhân cơ hội đó đã giành được chính quyền từ Tây Sơn, năm 1802 lên ngôi hoàng đế (niên hiệu Gia Long).<br />Sau khi lên cầm quyền, Gia Long đã “trả ơn” cho những người Pháp có công giúp mình trong cuộc chiến vừa qua bằng cách giữ lại một số người làm quan trong triều (Jean Baptiste Chaigneau, Philippe Vannier, de Forsans…) và đãi ngộ rất hậu (được miễn việc quỳ lạy khi vào chầu).<br />Ở giai đoạn đầu thời Gia Long, những hoạt động của người Pháp ở Việt Nam không bị ngăn cấm, thậm chí được tạo điều kiện hoạt động dễ dàng cả về thương mại và truyền giáo.<br />Năm 1812, giáo sĩ Labartette nhận xét: “… chúng tôi toàn quyền tự do truyền đạo, không ai dám ngăn cản và tự do đi lại khắp nơi. Chừng nào nhà vua [Gia Long] còn trị vì, chúng tôi vẫn có cơ sở để hy vọng được tự do hành đạo”.<br />Nhưng do được hoàng đế Việt Nam quá ưu ái, các giáo sĩ và quan lại người Pháp hoạt động ngày càng mang tính chất thái quá, thể hiện ý đồ can thiệp vào chính trị và đe dọa đến vương quyền nhà Nguyễn nên họ bị ngăn cản dẫn đến quan hệ giữa họ và triều đình nhà Nguyễn ngày càng mâu thuẫn và xung đột.<br />Tiêu biểu nhất là khi một số giáo sĩ ngấm ngầm hoặc chính thức phản đối về việc Gia Long chọn Minh Mạng nối ngôi mà không chọn con của hoàng tử Cảnh.<br />Sau khi cuộc chiến ở châu Âu kết thúc, chính quyền phong kiến Pháp lại cho xúc tiến ý đồ dở dang trước kia. Lợi dụng hiệp ước Versailles làm cơ sở pháp lý, từ Napoléon Bonaparte đến Louis XVIII, Pháp liên tục thúc ép các vua Gia Long và Minh Mạng thi hành những điều khoản trong hiệp ước Versailles, nhằm nhanh chóng giành vị trí ưu thế ở Việt Nam.<br />Từ thực tế đó, Gia Long càng nhận thấy rõ hơn dã tâm sâu xa của người Pháp nên bắt đầu thể hiện thái độ ly khai. Thậm chí, Gia Long còn căn dặn với Minh Mạng “đừng để người Pháp bước vào triều đình của con”.<br />Điều này có thể thấy qua việc từ năm 1817, nhiều chiếc tàu Pháp cập các bến cảng của Việt Nam (mang theo cả lái buôn và võ quan) đến xin được yết kiến vua Gia Long nhằm xin “nối lại mối quan hệ bị gián đoạn từ thời cách mạng tư sản Pháp” nhưng đều không được vua nhà Nguyễn tiếp đón.<br />Trước những hoạt động bằng con đường ngoại giao không đem lại những kết quả như ý muốn, Pháp quyết tâm dùng những biện pháp mạnh hơn. Năm 1840 - 1841, nhiều chiến hạm của Pháp kéo sang đóng tại vùng biển Trung Hoa, uy hiếp cả hai triều đình nhà Thanh và nhà Nguyễn.<br />Năm 1843, thủ tướng Guizot nói rõ: “Chúng ta cần có hai bảo đảm ở Viễn Đông: một căn cứ hải quân thường trực trong vùng biển Trung Hoa và một thuộc địa vững chắc nằm kề Trung Hoa(…) Nước Pháp không thể nào vắng mặt trong một khu vực rộng lớn như vậy của thế giới, trong lúc các nước châu Âu khác đều đã có căn cứ ở đó”.<br />Từ năm 1843 trở đi, hải thuyền của Pháp đến Việt Nam ngày một nhiều hơn. Trong các năm 1843 - 1847, chiến hạm Pháp ba lần vào thị uy ở cửa biển Đà Nẵng.<br />Cách mạng Pháp năm 1848 nổ ra lại một lần nữa làm chậm trễ kế hoạch, nhưng với cuộc cách mạng chính trị này, cách mạng công nghệ ở Pháp tiến triển nhanh chóng, càng thôi thúc giới tư bản xúc tiến việc mở rộng thị trường và xâm chiếm thuộc địa.<br />Cuối năm 1852, Napoléon III quyết định đẩy mạnh kế hoạch xâm lược nước ta. Tháng 8-1852, một đại diện ngoại giao của Pháp ở Trung Quốc sang Việt Nam đòi quyền sử dụng cảng Đà Nẵng để buôn bán.<br />Tháng 12 năm 1856, triều đình Pháp cử Montigny sang Việt Nam với danh nghĩa thương thuyết về việc truyền đạo và buôn bán, nhưng thực ra đó chỉ là những cớ để che đậy dã tâm chuẩn bị một cuộc can thiệp vũ trang vào nước ta ngay sau khi đánh xong Trung Quốc. Trong khi Montigny còn phải ghé qua Xiêm, một chiếc tàu chiến của Pháp (tàu Catinat) đã được phái đến Đà Nẵng đưa quốc thư trước cho Tự Đức. Nhưng Tự Đức không tiếp sứ và không nhận quốc thư. Chiếc tàu này đã nổ súng bắn vào các pháo đài phòng thủ của quân nhà Nguyễn và đổ bộ lên bờ khóa các đại bác lại rồi bỏ đi.<br />Đầu năm 1857, Montigny đến Đà Nẵng để mở cuộc đàm phán chính thức, nhưng Tự Đức vẫn cự tuyệt, không chịu tiếp. Lần này, Montigny cũng định giở trò uy hiếp bằng vũ lực, nhưng vì lực lượng trong tay không có là bao nên đành phải trở về. Trước khi rút, Montigny đe dọa triều đình Huế phải đình chỉ ngay việc cấm đạo, nếu không thì sẽ dùng vũ lực.<br />Tháng 12-1857, Pháp cho thành lập ra “Ủy ban nghiên cứu về vấn đề Nam kỳ”. Ủy ban này tập hợp thành viên hiểu biết về Việt Nam, trong đó có sự tham gia của các giáo sĩ thừa sai - những người luôn mong muốn Pháp can thiệp vũ trang vào Việt Nam.<br />Những báo cáo liên tiếp của các giáo sỹ từ Việt Nam báo về tình hình cấm đạo ở Việt Nam cùng với tình hình suy đốn cực độ của triều đình Huế càng làm cho chính phủ Pháp mạnh bạo hơn nữa trong việc thực hiện kế hoạch xâm lược nước ta.<br />Sau khi đánh xong Quảng Châu - Trung Quốc (ngày 5/1/1858) và tiến lên phía Bắc buộc nhà Mãn Thanh ký Điều ước Thiên Tân ngày 27/6/1858, viên chỉ huy hạm đội Pháp ở Viễn Đông là Rigault de Genouilly được lệnh của Bộ trưởng Hải quân Pháp phải tìm cách kéo quân vào chiếm Đà Nẵng và củng cố lực lượng ở đó trong khi chờ đợi chỉ thị mới. Genouilly bèn phối hợp với đội quân Tây Ban Nha do đại tá Palanca chỉ huy, cùng kéo thẳng đến Đà Nẵng.<br />Những ngày cuối tháng 8/1858, các chiến thuyền của liên quân Pháp - Tây Ban Nha từ Quảng Châu - Trung Quốc đã có mặt tại cửa biển Đà Nẵng để chuẩn bị cho việc xâm lược Việt Nam.<br />2. Tình hình đất nước trước họa ngoại xâm<br />Sau hơn 50 năm cầm quyền (tính đến trước ngày thực dân Pháp nổ súng xâm lược), nhà Nguyễn đã không những phát triển được đất nước đi lên hùng mạnh mà ngược lại làm cho tình hình đất nước thêm bi đát hơn. Triều Nguyễn không thiết lập được mối quan hệ gắn bó với nhân dân, chỉ lo trung chủ yếu vào việc giữ vững vương quyền, củng cố quyền lợi giai cấp thống trị. Hơn nữa, nhà Nguyễn lại dựa vào một hệ tư tưởng lạc hậu cùng với mô hình kinh tế xã hội không còn thích hợp nên đã ngăn cản sự phát triển của đất nước.<br />Đối diện với cuộc xâm lược của Pháp, chế độ phong kiến Việt Nam lại càng lâm vào tình trạng lúng túng vì tiềm lực dân tộc đã bị suy giảm nghiêm trọng, tình trạng đất nước đến thời điểm này đã gần như kiệt quệ, khủng hoảng trầm trọng về nhiều mặt.<br />+ Về kinh tế<br />Ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã nghĩ đến việc phát triển kinh tế cho đất nước sau một thời gian dài chiến tranh. Trước tiên là việc khai hoang, nhưng việc khai hoang dưới thời Gia Long kết quả chưa đáng kể. Công cuộc khai hoang thực sự được đẩy mạnh dưới triều vua Minh Mạng. Nhà vua cho phép các hào mục, quan lại mộ dân lưu vong đi khai hoang lập làng và đồn điền cho nhà nước. Chính sách khai hoang vẫn được tiếp tục qua các đời Thiệu Trị, Tự Đức. Tuy khai hoang được chú trọng, đất đai canh tác ngày càng mở rộng nhưng ruộng đất phần lớn tập trung vào tay quan lại, địa chủ. Đại đa số nông dân thiếu đất canh tác. Tình hình của ngành kinh tế chính (nông nghiệp) của đất nước ngày càng sa sút.<br />Thiên tai, hạn hán diễn ra thường xuyên làm cho nông dân trong cả nước mất mùa liên miên. Nông dân phải rời bỏ quê hương đi phiêu tán để kiếm việc làm nuôi thân.<br />Về công nghiệp, nhà Nguyễn cho lập nhiều “tượng cục”, quan trọng nhất là các xưởng đúc tiền, đúc súng, đóng tàu, tập trung ở kinh đô Huế, Hà Nội, Gia Định và một số tỉnh. Tại các tượng cục, thợ giỏi từ các địa phương được trưng tập về, tổ chức theo đội ngũ (chế độ công tượng) sản xuất dưới sự kiểm soát của quan lại.<br />Một bộ phận công nghiệp quan trọng do nhà nước quản lý là việc khai mỏ. Trong các thế kỷ trước, ngành khai mỏ ở nước ta cũng đã phát triển. Dưới triều Nguyễn, cả nước có ngót 140 mỏ được khai thác (39 mỏ vàng, 32 mỏ sắt, 15 mỏ bạc, 9 mỏ đồng, 22 mỏ diêm tiêu, 10 mỏ kẽm, 4 mỏ chì, 4 mỏ gang…).<br />Có thể phân biệt 4 loại mỏ ở thời Nguyễn:<br />- Loại mỏ do nhà nước trực tiếp quản lý, như mỏ vàng Chiên Đàn (Quảng Nam), mỏ bạc Tống Linh, Ngân Sơn, mỏ kẽm Lũng Sơn, mỏ chì Quán Triều (đều thuộc Thái Nguyên). Loại mỏ này có quy mô lớn, tập trung hàng ngàn nhân công gồm binh lính. công tượng và dân phu, nhưng sản xuất theo chế độ nửa lao dịch nên năng suất có hạn chế. Ví như ở mỏ vàng Hội Nguyên (Nghệ An) 100 nhân công làm việc 5 ngày chỉ được 6 phân vàng sống, trong khi 4 người thợ tự do cũng thời gian đó sản được 1 đồng cân vàng. Thêm nữa, nếu xét thấy mỏ nào kém sinh lợi thì nhà nước đình chỉ khai thác, nên loại mỏ này thường chỉ hoạt động một số năm, cuối cùng lại giao cho tư nhân lãnh trưng.<br />- Loại mỏ do thương nhân Hoa kiều lãnh trưng, hàng năm gộp thuế, chỉ chịu sự kiểm soát của chính quyền địa phương hoặc phái viên của triều đình. Những mỏ loại này chiếm một số lượng khá lớn, như vua Minh Mạng đã thừa nhận: “trẫm xét thấy các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang và Hưng Hóa có nhiều mỏ vàng và mỏ bạc, từ trước tới nay đều do người nước Thanh lĩnh trưng”. Nhân công làm thuê phần lớn là người Hoa kiều, có kỹ thuật khai mỏ thành thạo, cách tổ chức khai thác cũng tiến bộ hơn.<br />- Loại mỏ do thổ tù thiểu số lĩnh trưng cũng chiếm một tỉ lệ đáng kể, qui mô sản xuất khá lớn, như mỏ kẽm của Ma Doãn Điền, mỏ đồng của Hoàng Phong Bút (đều ở Tuyên Quang), mỏ vàng của Cầm Nguyên Nhân (ở Hưng Hóa).<br />- Loại mỏ thứ tư do những chủ mỏ người Việt lĩnh trưng, nhưng chỉ mới xuất hiện lẻ tẻ, đáng chú ý là mỏ kẽm của Chu Danh Hổ (một nhà giàu ở Bắc Ninh) bắt đầu kinh doanh từ năm 1835. Năm 1839, vua Minh Mạng xuống dụ cho phép bất cứ ai có vốn và được chính quyền địa phương bảo lãnh đều có thể lĩnh trưng các mỏ vàng bạc ở Bắc Kỳ.<br />Ngoài ra, dân địa phương cũng có thể tự khai thác mỏ, họp thành từng hộ (hộ vàng, hộ sắt, hộ diêm tiêu…), nộp thuế theo đầu người, được miễn binh dịch và lao dịch.<br />Nhìn chung, công nghiệp khai mỏ ở thời Nguyễn có những bước phát triển mới cả về số lượng và qui mô, nhưng nhịp độ phát triển chậm, cách khai thác còn mang tính thủ công, quy chế nhà nước chặc chẽ nên mọi hoạt động của các mỏ diễn biến thất thường, có lúc sa sút. Một lý do là thuế mỏ hơi nặng, buộc một số chủ mỏ phải ngưng khai thác.<br />Các làng nghề thủ công có nhiều nhưng hoạt động còn rất phân tán. Hơn nữa, do phải chịu nhiều ràng buộc về quy cách sản xuất và thể lệ đóng thuế, cho nên các làng, phường thủ công chưa phát huy hết tiềm năng để có đóng góp quan trọng hơn vào nền kinh tế hàng hóa đương thời.<br />Nhằm đảm bảo việc thu thuế hoặc cung cấp những sản phẩm cần thiết, nhà Nguyễn định rõ qui chế thành lập một số phường thủ công (gọi là “ty” hay “cục”), có nhiệm vụ sản xuất những vật phẩm do nhà nước giao đặt. Mỗi cục có cục trưởng đại diện, làm trung gian giữa cục thợ và chính quyền, thu thuế, nhận đơn đặt hàng của nhà nước, nghĩa là có vai trò gần như viên lý trưởng trong làng xã. Ở các tỉnh lớn (Hà Nội, Huế, Gia Định…), nhà Nguyễn đặt thêm một chức quan võ (hàm bát phẩm) gọi là “chư cục trưởng” hay “chính ty sứ” nhằm quản lý các cục thủ công trong tỉnh, trực tiếp đặt hàng của nhà nước cho các cục trưởng.<br />Nhìn chung, tình hình kinh tế của cả nước (từ nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp và cả thương mại…) đều lụn bại vì những chính sách không hợp lý của triều đình nhà Nguyễn (nhất là dưới thời Thiệu Trị và Tự Đức). Các công trường sản xuất, những thợ giỏi… đều do triều đình nắm giữ sử dụng vào việc xây dựng cung điện, thành quách, lăng tẩm của hoàng tộc. Mỏ có nhiều nhưng triều đình cũng độc quyền và khai thác theo kiểu thủ công nên năng suất thấp, thương mại què quặt vì chịu cảnh “bế quan tỏa cảng”…<br />Có thể nói, đến giữa thế kỷ XIX nền kinh tế Việt Nam sa sút nghiêm trọng.<br />+ Về quốc phòng<br />Quân đội Việt Nam dưới thời Nguyễn là một quân đội đông đảo. Ngay từ đầu, các vua nhà Nguyễn đã đặt phép giản binh, tùy từng vùng mà lấy lính theo tỷ lệ khác nhau.<br />- Từ Quảng Bình đến Bình Thuận: 3 đinh lấy một lính.<br />- Từ Biên Hòa trở vào: 5 đinh lấy mộ lính.<br />- Từ Hà Tĩnh trở ra 5 nội trấn Bắc thành: 7 đinh lấy một lính.<br />- 6 ngoại trấn Bắc thành: 10 đinh lấy một lính.<br />Kinh đô có thân binh, cấm binh và tinh binh. Các trấn có lính cơ, lính mộ. Lại đặt thêm biền binh (chia 3 phiên, luân lưu 2 phiên về quê, một phiên tại ngũ). Ngoài ra có 6 vệ thủy binh đóng tại kinh thành và các cơ thủy binh đóng ở các hải khẩu. Sang thời Minh Mạng, tổ chức binh chế được hoàn thiện gồm đủ các binh chủnh: bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh và pháo binh.<br />Ngoài bộ binh gồm kinh binh đóng giữ kinh thành và cơ binh của từng tỉnh, tượng binh thực sự trở thành một binh chủng mạnh từ thời Minh Mạng.<br />Tượng được phân bố như sau:<br />- Bắc thành: 3 cơ, mỗi cơ 10 đội, 750 lính, 110 thớt voi.<br />- Gia Định thành: 10 đội, 500 lính, 75 thớt voi.<br />- Bình Định: 4 đội, 200 lính, 30 thớt voi.<br />- Nghệ An: 3 đội, 150 lính, 21 thớt voi.<br />- Quảng Bình, Quảng Ngãi, Thanh Hóa: mỗi tỉnh 2 đội, 100 lính, 15 thớt voi.<br />- Quảng Trị, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận, Ninh Bình: mỗi tỉnh 1 đội, 50 lính, 7 thớt voi.<br />- Kinh đô: 3 vệ, mỗi vệ 10 đội, 15.000 lính, 150 thớt voi.<br />Như vậy, số voi chiến thời Minh Mạng ước khoảng 450 thớt.<br />Đầu thời Tự Đức, bộ binh có khoảng 113.000 người. Lúc thời bình có khoảng 80.000 quân thường trực, nhưng khi có chiến sự thì bộ binh có thể lên tới 200.000 người. Thủy binh có khoảng 26.800 người với khoảng 700 chiến thuyền lớn nhỏ gắn đại bác và súng bắn đá.<br />Ngựa trong thời Nguyễn chỉ dùng chính trong việc chạy trạm. Ngay từ thời Gia Long, một hệ thống trạm thiết lập để kịp thời liên lạc tin tức, điều động binh lính. Từ ải Nam Quan đến Bình Thuận, cứ 4.000 trượng (16km) lập một nhà trạm, tất cả 98 trạm, đến thời Tự Đức tăng lên 135 trạm.<br />Lính trạm - một chế độ “nửa binh dịch” - không được cấp lương, chỉ được miễn thuế thân và các tạp dịch khác, tuy vẫn phiên chế theo đội ngũ như binh lính. Qui định này được áp dụng cho đến thời vua Tự Đức, được bổ sung bằng lệ thưởng tùy theo mức độ khẩn cấp: trạm nhiều việc nhất được thưởng10 phương gạo, trạm ít việc nhất được thưởng 4, 5 phương gạo và chỉ thi hành trong vòng một năm (qui định năm 1854). Tổng số lính trạm thời Gia Long khoảng 6.300 người.<br />Thời Tự Đức còn cho đặt thêm ngạch hương dũng, dân dũng, thổ dũng ở các tỉnh, huyện, xã, nhất là các tỉnh miền núi. Thực ra, từ năm 1812 (triều Gia Long), khi cần thiết triều đình đã có lệnh trưng hương binh, nhưng đến thời Tự Đức thì trở thành quy chế chung, áp dụng thường xuyên cho cả nước.<br />Nói tóm lại, quân đội thời Nguyễn rất đông, hùng hậu nhưng lại chỉ chủ yếu được huấn luyện để đi trấn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân, dập tắt những phong trào đấu tranh của dân chúng chứ không huấn luyện nhiều để chiến đấu trên chiến trường chính quy. Thêm vào đó, tàu chiến ít, lực lượng lính thủy lại không chuyên nghiệp, hầu hết là tay ngang, không chịu được sóng gió trên biển. Binh khí thì thô sơ, chủ yếu là dao, gươm, đại bác và súng trường có ít và lại rất lạc hậu.<br />+ Về chính trị - xã hội<br />Các vua nhà Nguyễn từ Gia Long đến Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức chỉ ra sức tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế nhằm duy trì quyền thống trị lâu dài của dòng họ. Nhà nước phong kiến thời Nguyễn mang nặng tính bảo thủ, lo ngại đổi mới, gạt bỏ nhiều đề nghị cải cách của một số quan lại và sỹ phu.<br />Nổi bật nhất trong xã hội lúc này là nạn chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của địa chủ, nạn tham nhũng của quan lại, cường hào. Thêm vào đó là các chế độ tô thuế và lao dịch nhiều khi trở thành gánh nặng khắc nghiệt đối với thần dân<br />Nông dân thời Nguyễn vẫn nộp tô thuế ruộng đất bằng hiện vật, nhưng gặp năm mất mùa không đủ lúa đóng thuế thì nhà nước muốn tránh thất thu đã cho nộp thay bằng tiền (gọi là “đại nạp”), và thực tế đã đẩy nông dân vào cảnh bần cùng.<br />Lê Văn Duyệt đã từng than: “Lệ thuế hơi nặng, dân lấy làm khổ”; một thừa sai người Pháp (Guérard) nhận xét: “Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và lộng hành làm cho người ta rên xiết hơn cả ở thời Tây Sơn; thuế má và lao dịch thì tăng lên gấp ba”v.v…<br />Riêng về chế độ lao dịch một số người nước ngoài chứng kiến tận mắt cảnh tượng xây thành đắp lũy, đào kênh.. ở thời Nguyễn - đặc biệt việc xây thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế - đều tỏ ra ngạc nhiên trước cường độ lao động căng thẳng của hàng ngàn hàng vạn dân phu.<br />Mô tả việc xây thành Phú Xuân (Huế), một người Pháp là Borel viết năm 1818: “nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào việc xây tòa thành và các công trình công cộng khác. Khi tôi đến Huế, đã có đến 8 vạn người được điều động từ các nơi trong cả nước đang khẩn trương xây dựng một tòa thành rộng lớn bằng gạch. Một người Anh cho biết thêm: “từng đoàn dài dân thợ đang chuyên chở vật liệu… Những đống gạch đá, những xưởng rèn, những lán trại… tất cả tạo thành một cảnh tượng rất khó hình dung nếu không được chứng kiến tận mắt. Tiếng búa đập, tiếng kêu la của cả một đội quân dân phu khổng lồ ấy gây thành một thứ tiếng ồn ào nhức óc; nhưng tất cả vẫn cặm cụi làm việc, chẳng ai dám nghỉ tay”.<br />“Riêng việc xây bờ thành đã tốn kém những khoản tiền khổng lồ và làm thiệt hàng ngàn nhân mạng vì phải khổ dịch liên tục”. Ở một đoạn khác: “nhà vua [Gia Long] đã vung ra những món tiền lớn và hy sinh tính mạng của hàng ngàn dân chúng vì họ phải làm việc không nghỉ tay trên các tường lũy của kinh thành. Đây quả là một công trình kỳ diệu. Mười vạn người được thường xuyên huy động…”<br />Cho mãi đến giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đã thực sự nổ súng xâm lược, triều đình vẫn tiếp tục xây dựng những lăng tẩm nguy nga ở ngoại vi thành Huế, tiêu biểu là việc xây “Vạn niên cơ” (Khiêm lăng) mà trong nhân gian bấy giờ đã chua chát than rằng: Vạn niên là vạn niên nào<br />Thành xây xương lính, hào đào máu dân<br /><br />Tình trạng lao dịch dưới triều các vua Thiệu Trị và Tự Đức cũng tương tự các đời vua trước. Năm 1841 khởi công xây lăng Minh Mạng, “cung điện, đường vào lăng, lầu các, thuyền, xe, voi ngựa, các đồ dùng của tiên đế không thiếu thứ gì”. Dân các tỉnh Quảng Nam, Thanh Hóa, Bắc Ninh vận chuyển vật liệu về kinh chủ yếu là khuân vác bằng đường bộ. Dân phu bị bệnh ngày một nhiều, khi mới phát chỉ có 50, 60 ngươì chết, rồi đến 400, 500 người, rồi lên đến hơn 300 người.<br />Năm 1845, vua Thiệu Trị ra lệnh tu sửa lăng Thiên Thụ (lăng mẹ nhà vua) ở núi Thuận Sơn. Vua Thiệu Trị vừa qua đời, vua Tự Đức sai xây “Xương Lăng”, khởi công từ đầu năm 1848. Trương Quốc Dụng lo lắng, dâng thư nói: “Tiền của, sức lực của dân gian kém trước 5, 6 phần mười” và “xin giảm công dịch, nhẹ thuế khóa, rộng tài lực cho binh dân”. Tiếp đó, nhà vua lại cho xây “Khiêm Lăng” như đã nói ở trên, quy mô gấp mười lần lăng “Thiên Thụ”.<br />Đời sống cơ cực xô đẩy hàng vạn gia đình nông dân phải bỏ quê hương làng mạc đi lưu vong phiêu tán. Nạn lưu vong ở thế kỷ XIX đã trở thành một hiện tượng phổ biến, thường xuyên, nhất là ở Bắc và Trung.<br />Một bài vè lưu hành thời Tự Đức phản ánh phần nào thực trạng này:<br />“Cơm thì chẳng có<br />Rau cháo cũng không<br />Đất trắng xóa ngoài đồng<br />Nhà giàu niêm kín cổng<br />Còn một bộ xương sống<br />Vơ vất đi ăn mày<br />Ngồi xó chợ lùm cây<br />Quạ kêu vang bốn phía<br />Xác đầy nghĩa địa<br />Thây thối bên cầu<br />Trời ảm đạm u sầu<br />Cảnh hoang tàn đói rét…<br />… Sẵn bút đây ta tả<br />Để giữ lại vài câu<br />Cho ngàn vạn năm sau<br />Biết cảnh tình cơ cực<br />Là cái thời Tự Đức…”<br />Chính sách của triều đình nhà Nguyễn như thế nên đã đẩy xã hội đến nhiều mâu thuẫn sâu sắc, nhất là mâu thuẫn của nông dân với quan lại và triều đình.<br />Cuộc sống cơ cực và tình trạng lưu vong làm cho nông dân và các tầng lớp nghèo khổ bất bình với một số chính sách của nhà nước và căm oán quan lại hào cường. Họ đã được thu hút vào các cuộc nổi dậy và chống đối lớn nhỏ. Những người khởi xướng với những mục đích động cơ khác nhau, xuất thân từ nhiều tầng lớp xã hội: có khi là nông dân, là tổ tù lang đạo miền núi, là dòng dõi nhà Lê cũ, thậm chí cả đến quan lại triều đình.<br />Từ những năm 1807, 1808 những cuộc nổi dậy ở miền xuôi bùng lên ngày một nhiều hơn, triều đình phải tiến hành hơn 30 cuộc “tiễu phạt”.<br />Cuối năm 1818, một cuộc nổi dậy lớn nổ ra ở Nghệ An do Lê Hữu Tạo (Hầu Tạo) cầm đầu. Cho đến cuối năm 1824, một số cuộc nổi dậy có tầm cỡ (mà quan trọng hơn cả là cuộc nổi dậy của Vũ Đình Lục và Đặng Trần Siêu) lần lượt bị dập tắt. Nhưng trước đó mấy năm, một cuộc khởi nghĩa mới lại chớm lên ở đồng bằng và ven biển Bắùc Bộ: khởi nghĩa Phan Bá Vành. Khởi nghĩa Phan Bá Vành phát triển mạnh, chấn động cả một vùng Hải Dương, Sơn Nam. Sau hàng chục trận thắng lớn ở Cồn Tiên, Cổ Trai, Liêu Đông, Kiến Xương…, nghĩa quân rút về cố thủ ở căn cứ Trà Lũ và bị quân triều đình khép chặt vòng vây rồi bị thất bại trong trận đánh ác liệt ngày 17.2.1827.<br />Bước vào những năm 30, nhân dân thượng du Ninh Bình, Thanh Hóa nổi dậy dưới ngọn cờ của Lê Duy Lương đồng thời với khởi nghĩa Ba Nhàn, Tiền Bột trên địa bàn trung du bắc bộ rộng lớn. Tiếp đó là cuộc khởi binh Lê Văn Khôi đập tan bộ máy cai trị của nhà Nguyễn trên lục tỉnh Nam Kỳ, kéo theo cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân làm chủ 6 tỉnh Việt Bắc<br />Từ năm 1841, các thủ lĩnh Ba Nhàn, Tiền Bột lại trỗi dậy ở Sơn Tây phối hợp với một số tướng lĩnh cũ của Nông Văn Vân ở Việt-Bắc. Cũng thời gian này, nhiều cuộc nổi dậy của người Việt, người Khmer và người Hoa đã diễn ra ở Lạc Hóa (Trà Vinh), Ba Xuyên (Sóc Trăng), Thất Sơn (An Giang), Hà Dương, Hà Âm (Kiên Giang).<br />Năm 1854, ở đồng bằng Bắc Bộ lại bùng lên một cuộc khởi nghĩa lớn - khởi nghĩa Cao Bá Quát. Tuy cuộc khởi nghĩa chỉ tồn tại trong 2 năm (1854 - 1855) và bị đán áp ngay từ đầu, nhưng nỗi bất bình của các tầng lớp nhân dân vẫn tiếp tục biểu hiện khá mãnh liệt ở những năm sau đó (với khởi nghĩa Cai tổng Vàng, khởi nghĩa Chày Vôi…).<br />Cũng khoảng thời gian nói trên, phong trào chống đối triều đình của các dân tộc vùng núi Thanh, Nghệ diễn ra mạnh hơn và có sự liên hệ với các cuộc nổi dậy ở Bắc Bộ, mà quan trọng hơn cả là cuộc nổi dậy của Quách Tất Thúc. Nghĩa quân lên tới 3000 người, liên kết với các thủ lĩnh Vũ Đình Lục, Đặng Trần Siêu ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ…<br />Theo thống kê, thời Gia Long có 73 cuộc khởi nghĩa của nông dân; thời Minh Mạng có đến 230 cuộc khởi nghĩa; thời Tự Đức có 103 cuộc.<br />Chỉ tính trong khoảng 10 năm từ khi Tự Đức lên ngôi (1848) đến khi thực dân Pháp đánh Việt Nam (1858) thì đã đến hơn 10 cuộc nổi dậy của nông dân chống lại triều đình và Tự Đức đã ra lệnh quân đội dìm tất cả các cuộc nổi dậy này trong biển máu.<br />Rõ ràng, chính sách của triều Nguyễn đã làm cho đất nước suy sụp, làm cho dân chúng phải “sức mòn lực kiệt”, xã hội chia rẽ sâu sắc… đặt dân tộc Việt Nam vào một thế rất bất lợi trước những mưu đồ xâm lược của thực dân phương Tây.<br />+ Về đối ngoại<br />Với nhà Thanh, các vua Nguyễn trước sau giữ thái độ “thần phục”.<br />Ngay sau khi kéo quân vào Thăng Long (1802), chúa Nguyễn Ánh sai sứ sang nhà Thanh cầu phong, nhưng đến năm 1804 vua nhà Thanh mới sang sứ sang tuyên phong cho vua Gia Long tại Thăng Long và định lệ 3 năm nộp cống một lần.<br />Nhiều chính sách, thiết chế chính trị, tư tưởng, văn hóa xã hội… của nhà Thanh được các vua Nguyễn tiếp thu, vận dụng, coi như những mẫu mực trị nước.<br />Đối với Pháp, có không ít người cho rằng vua Gia Long rộng rãi với Thiên Chúa giá, chủ trương cấm đạo này chỉ bắt đầu từ thời Minh Mạng. Ý muốn nói vua kế vị đã đi ngược lại ý định tốt đẹp của vua Gia Long trong lĩnh vực này.<br />Nhưng thực tế cho chúng ta một cái nhìn khác hẳn: Ngay khi còn dựa vào các thừa sai và người Pháp để đánh Tây Sơn, trong thâm tâm chúa Nguyễn Ánh đã bắt đầu nghi ngờ gờm sợ chính những người đang giúp đỡ mình. Vì vậy, sau khi lên ngôi, vua Gia Long dần dần muốn tách xa họ, sau đó muốn cự tuyệt họ. Phương hướng giải quyết của nhà vua là cố gắng giữ gìn mối quan hệ êm thắm với người Pháp và các thừa sai, vì thấy ở địa vị và hoàn cảnh của mình thì chưa thể trở mặt ngay với họ được.<br />Vua Gia Long muốn kéo dài tình trạng nhùng nhằng đó cho đến hết đời mình để rồi sẽ chuyển giao nhiệm vụ giải quyết vấn đề cho kẻ nối ngôi. Vì vậy, tuy bề ngoài nhà vua vẫn tỏ ra ưu đãi người Pháp và các thừa sai, nhưng thực lòng thì đang chuẩn bị, cân nhắc việc chọn người kế tục ngôi vua, hy vọng kẻ nối ngôi mình sẽ từng bước thận trọng cự tuyệt với người Pháp và thừa sai Thiên Chúa giáo.<br />Có thể nói vua Gia Long đã tiến hành khá êm đẹp chủ trương hai mặt này, êm đẹp đến mức nhiều người đương thời và cả sau đó tưởng lầm đường lối đối ngoại của vua Gia Long là thân Pháp và rộng rãi với Thiên Chúa giáo. Ngay cả một số tác giả thuộc Hội Truyền giáo cũng có nhận xét tương tự.<br />Buttinger (tác giả cuốn The Smaller Dragon - New York, 1962) nhận xét: Giữa thái độ thù địch một tiêu cực của Gia Long đối với Thiên Chúa giáo và chính sách của Minh Mạng đặt đạo này ra ngoài vòng pháp luật không có sự khác biệt gì đáng kể. Những chỉ dụ cấm “tà đạo” của Minh Mạng được ban hành sau khi Gia Long chết “về thực chất chỉ là sự thực hiện đường lối chính trị cơ bản của Gia Long mà thôi”.<br />*<br />* *<br />Đối diện với những hành động trắng trợn lấn lướt của thực dân Pháp, nhất là trước những hoạt động ngày càng sâu rộng của giáo sỹ, các vua Nguyễn, nhất là Minh Mạng, không những không tìm ra được những kế sách hợp lý để khắc phục tình hình trên, trái lại, nhà Nguyễn lại thi hành một chính sách cấm đạo và đàn áp quyết liệt giáo sỹ và giáo dân. Những chỉ dụ cấm đạo liên tiếp được ban hành.<br />Tháng 2 năm 1825, Minh Mạng ban bố đạo dụ thứ nhất với nội dung tăng cường hệ thống canh phòng ở các cửa biển và miền duyên hải, không cho giáo sỹ lọt vào nội địa, đặc biệt là việc kiểm soát các tàu của Pháp vào cửa biển ở vùng Quảng Nam. Cuối năm 1826, Minh Mạng lấy cớ thiếu người dịch sách khoa học nên ra lệnh tập trung tất cả các giáo sỹ ngoại quốc về Huế, thực chất là để giam lỏng các giáo sỹ, không cho họ liên hệ với giáo dân. Tuy vậy, nhiều giáo sỹ vẫn trốn tránh và bí mật hoạt động ở nhiều nơi.<br />Từ năm 1833, Minh Mạng lại ban bố một chỉ dụ cấm đạo thứ hai gay gắt hơn, buộc tất cả mọi người theo đạo Thiên Chúa, từ quan lại đến dân thường đều phải bỏ đạo và ra lệnh cho các địa phương phải phá hủy nhà thờ và lùng bắt giáo sỹ. Đồng thời Minh Mạng lại ra một bản mật dụ, bắt các quan lại địa phương phải tìm cách “giáo hoá” dân chúng bỏ đạo, phải báo cáo số lượng nhà thờ trong vùng và phá hủy ngay tức khắc, tiếp tục lùng bắt các giáo sỹ giải ngay về Huế.<br />Đạo dụ nêu rõ: “Các quan phải cẩn thận xem xét bọn theo đạo trong địa phận cai trị của mình của mình có sẵn sàng tuân theo dụ của Trẫm hay không? Các quan phải buộc họ dẫm lên thánh giá rồi khoan hồng cho họ một lần chót. Đối với nhà thờ và nơi cư trú của các đạo trưởng, phải kiểm tra xem đã phá hủy hoàn toàn hay chưa. Từ nay, kẻ nào còn dám truyền giảng tà đạo thì sẽ bị thẳng tay trừng trị, nhằm tiêu diệt tận gốc nghịch đạo Thiên Chúa. Ý Trẫm muốn như vậy, các ngươi hãy thi hành”.<br />Năm 1836 và 1838 lại ban thêm các chỉ dụ cấm đạo. Tiếp theo các chỉ dụ là những vụ đàn áp giáo sỹ và giáo dân. Theo tinh thần của các chỉ dụ này thì bất cứ giáo sỹ phương Tây nào bị bắt trên tàu ngoại quốc lén vào nội địa đều bị xử tử, bất cứ địa phương nào phát hiện được giáo sỹ hoạt động lén lút thì quan địa phương nơi đó cũng bị xử tử.<br />Các vua Thiệu Trị, Tự Đức tiếp tục ban hành các chỉ dụ cấm đạo Thiên Chúa. Thừa sai bị bắt, bị giết, nhà thờ bị phá hoại, giáo dân bị tàn sát, nhưng tình hình vẫn không sáng sủa hơn.<br />Triều đình nhà Nguyễn càng thi hành chính sách cấm đạo thì các giáo sỹ Phương tây càng tỏ ra ngoan cố và hoạt động ráo riết hơn. Ngược lại, các giáo sỹ càng tăng cường hoạt động thì triều đình lại ra sức đàn áp giáo sỹ và giáo dân điên cuồng hơn. Chính sách cấm đạo của triều đình nhà Nguyễn không những không ngăn chặn được những hoạt động truyền đạo và do thám của giáo sỹ, trái lại đã gây nên không khí căng thẳng trong dân chúng và khơi mối oán hận trong giáo dân. Công bằng mà nói, chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn bắt nguồn từ nhu cầu tự vệ, nhằm ngăn ngừa và chống lại những hoạt động của bọn gián điệp đội lốt thầy tu, nhưng đó lại là một biện pháp trái đạo lý và thất sách, không phân biệt rõ bạn thù, đẩy giáo dân về phía đối lập với triều đình. Cuối cùng, thực dân Pháp vin vào việc đàn áp đạo để xúc tiến âm mưu xâm lược của chúng.<br />Kế hoạch xâm lược nước ta của thực dân Pháp dã rõ rệt nhưng triều đình Tự Đức vẫn không thay đổi chính sách của mình. Việc trấn áp giáo sỹ và giáo dân còn diễn ra dữ dội hơn cả thời Minh mạng. Tháng 8 năm 1848, Tự Đức ban chỉ dụ cấm đạo lần thứ nhất, ra lệnh ban thưởng 30 nén bạc cho kẻ nào bắt được một giáo sỹ. Những giáo sỹ phương Tây bị tội nặng thì xử theo hình phạt buộc đá vào cổ và vứt xuống biển. Đối với các giáo sỹ bản xứ nếu không chịu bỏ đạo thì phải khắc chữ vào mặt và đày đi những vùng nước độc.<br />Tháng 3 năm 1851, Tự Đức ban bố chỉ dụ cấm đạo thứ hai nhắc lại hình phạt đối với giáo sỹ phương Tây như trong chỉ dụ lần trước. Tháng 9 năm 1855 lại ban bố chỉ dụ cấm đạo thứ ba, mở màn một thời kỳ đàn áp mới, càng khốc liệt hơn. Các điều quy định trong chỉ dụ này cụ thể hóa thêm một số chi tiết về hình phạt đối với giáo sỹ phương Tây và việc thưởng tiền cho những người bắt được giáo sỹ.<br />Chính sách đối với Thiên Chúa giáo của nhà Nguyễn tuy bộc lộ “sự ấu trĩ về hiểu biết tôn giáo này” cũng như “sự khắc nghiệt trong biện pháp bạo lực”, nhưng đó là một chính sách bắt nguồn từ những cơ sở nhằm bảo vệ độc lập của Tổ quốc và văn hóa truyền thống của dân tộc. Nhưng có thể khẳng định rằng “triều đình Huế thiếu sáng suốt đã không phân biệt được lòng yêu nước và đức tin tôn giáo của dân chúng để có những chủ trương đường lối thích hợp (…). Triều đình càng khủng bố tàn bạo bao nhiêu lại (…) tạo thêm điều kiện tốt cho những kẻ xấu hoạt động phá hoại, chia rẽ trong nhân dân ta, dọn đường cho sự xâm lược của ngoại bang”.<br />Những hành động chống đạo của vua Tự Đức diễn ra giữa lúc những điều kiện xâm lược của thực dân Pháp đã chín muồi. Bởi vậy khi giám mục Pellerin đề xuất việc can thiệp bằng vũ lực vào Việt Nam thì lập tức được hầu hết các tầng lớp trong chính giới và quân đội Pháp ủng hộ. Kết quả là ngày 22/04/1857, Naponéon III quyết định thành lập “Hội đồng Nam Kỳ” nhằm xét lại hiệp ước Versailles năm 1787, với âm mưu dựa vào các văn kiện bán nước đầu tiên của Gia Long mà hợp pháp hóa việc mang quân sang đánh chiếm nước ta, tháng 7/1857, Naponéon III đã thông qua quyết định vũ trang xâm lược nước ta.<br />3. Tiến trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp (1858 - 1884)<br />a. Pháp đánh chiếm Đà Nẵng (1858 - 1859)<br />Kế hoạch của Pháp là chớp nhoáng chiếm Đà Nẵng rồi hành binh cấp tốc qua đèo Hải Vân tấn công kinh đô Huế, giải quyết nhanh gọn cuộc xâm lược.<br />Sáng ngày 1/9/1858, quân xâm lược Pháp gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Nam Ngãi đòi quan quân nhà Nguyễn ở đây phải đầu hàng. Liền đó, 2.500 quân Pháp với 13 chiến thuyền, 50 đại bác cùng với 1 chiến thuyền 450 quân Tây Ban Nha nổ những phát súng đầu tiên tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) mở đầu mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.<br />§ Hành động tư bản Tây Ban Nha hùa theo Pháp trước hết là vì vấn đề tôn giáo, nhưng thực ra cũng là muốn chia xẻ quyền lợi thuộc địa.<br />Sau khi bắn đại bác tới tấp vào Đà Nẵng, một cánh quân địch gồm 3 tàu chiến tập trung hỏa lực bắn vào các đồn ở Sơn Trà, yểm trợ cho cánh thứ hai tiến vào cửa sông. Quân địch đổ bộ chiếm đồn An Hải và đồn Điện Hải ở bán đảo Sơn Trà rồi tiến sâu vào nội địa đánh tan phòng tuyến của quân triều đình ở xã Mỹ Thị, lan sang chiếm xã Cẩm Lệ.<br />Trước thế địch ào ạt, nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng lập tức thực hiện “vườn không nhà trống”, cô lập địch giữa bãi cát với mấy đồn vừa chiếm. Khắp nơi trong vùng, những đội dân quân “gồm tất cả những người không đau ốm và bệnh tật” gấp rút được thành lập, sẵn sàng chống trả những đòn tấn công mới của địch. Vua Tự Đức cử Nguyễn Tri Phương vào làm Tổng thống quân thứ Quảng Nam, chỉ huy mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng.<br />Ngay khi vào đến Đà Nẵng, Nguyễn Tri Phương cho đắp một lũy dài từ Hải Châu (ven biển) vào tới Phúc Ninh, Thạch Giản, đào hố cắm chông trước lũy. Được nhân dân ứng nghĩa ủng hộ, lũy được hoàn thành trong một thời gian rất ngắn. Quân Pháp tấn công lũy từ ba phía nhưng không hiệu quả, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của địch không thành.<br />Sau 5 tháng, đến đầu tháng 1-1859, quân Pháp vẫn chỉ dừng lại ở việc chiếm đóng ở Sơn Trà và vùng phía nam sông Đà Nẵng.<br />Trong báo cáo đề ngày 4.1.1859, đô đốc De Genouilly viết: “chúng ta đang xuống dốc đến kiệt quệ ở Đà Nẵng. Mọi phương tiện để cải thiện tình hình bộ binh và hải quân đều hết sạch và vô hiệu. Hơn 10 ngày sau (15.1.1859), De Genouilly gửi tiếp một báo cáo về Pháp, nói rõ số lính chết lên đến mức đáng sợ, số lính bị bệnh lị quá nhiều. Trong số 800 lính (bộ binh) chỉ còn nhiều nhất là 500 người có thể cầm khí giới, không đủ sức để mở một cuộc hành quân…”.<br />Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp tại Đà Nẵng bị phá sản. Kế hoạch “giáng cho Huế một đòn quyết định” của thực dân Pháp coi như thất bại. De Genouilly cho thay đổi kế hoạch, quyết định đem quân vào đánh Gia Định, vì theo sự nghiên cứu của người Pháp thì “Sài Gòn có triển vọng trở thành trung tâm của một nền thương mại rộng lớn (…). Xứ này giàu sản vật, mọi thứ đều đầy rẫy”.<br />Tấn công Gia Định, thực dân Pháp muốn chiếm một địa bàn thuận lợi, vừa “lập nghiệp và phòng thủ”, vừa “hành binh và lưu thông thương mại dễ dàng”, đồng thời gây sức ép với triều đình Huế bằng cách phong tỏa kinh tế, cắt đường vận chuyển lương thực. Nhìn xa hơn, chiếm được Gia Định, thực dân Pháp sẽ có điều kiện bành trướng nhanh sang Campuchia và xa hơn nữa lên phía Bắc.<br />b. Pháp đánh chiếm các tỉnh Nam kỳ (1859 - 1867)<br />+ Đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ (1859 - 1862)<br />Ngày 2-2-1859, sau khi chỉ để lại khoảng một phần ba số quân đóng trụ ở Đà Nẵng, De Genouilly đem 8 tàu chiến với 2.000 quân tiến vào Gia Định.<br />Sáng ngày 10/2/1859, tàu chiến Pháp - Tây Ban Nha đã có mặt ở Vũng Tàu và bắt đầu tập trung bắn phá các pháo đài phòng thủ ở đây để mở đường ngược sông Cần Giờ tiến vào Gia Định. Trong vòng 6 ngày (từ 10/2 đến 15/2), quân Pháp đã triệt phá 12 đồn trên đường tiến quân và cập được sát đến Nhà Bè.<br />Ngày 11.2.1859, đoàn tàu chiến Pháp vào sông Cần Giờ. Chiều 15.2, quân địch kéo đến trước đồn Hữu Bình. Cuộc chiến đấu diễn ra dữ dội suốt đêm. Sáng hôm sau (16.2), 7 tàu chiến Pháp dàn trận cách hai pháo đài chừng 800m, bắn phá và tràn lên bờ chiếm đồn Hữu Bình, tiếp đó dàn trận trước thành Gia Định và cho hai tàu nhỏ vào rạch Thị Nghè thám thính.<br />Ngày 17.2, quân Pháp đổ bộ tấn công thành Gia Định, dùng chất nổ phá thành, đánh thủng cửa Đông, dùng thang cao leo thành. Pháo trên thành bắn xuống tàu địch nhưng không hiệu quả. Địch vào thành hai bên đánh xáp lá cà. Đến trưa, quân ta rút lui, bỏ lại hầu hết súng đạn, thóc gạo và hơn 100 chiến thuyền gỗ trên sông Thị Nghè. Đề đốc Trần Trí, bố chánh Vũ Thực, lãnh binh Tôn Thất Năng lui quân về ụ Tây Thái. Hộ đốc Vũ Duy Ninh và án sát Lê Từ tự vẫn.<br />Trong thành Gia Định lúc này có hơn 2.000 quân với 200 đại bác bằng sắt, bằng đồng, 1 hải phòng hạm, 7 chiến thuyền, 25.000kg thuốc súng, tiền và bạc trị giá tương đương 130.000francs, thực phẩm đủ nuôi 8000 quân trong một năm.<br />Nghe tin Gia định thất thủ, triều đình Huế vẫn chủ trương để đại quân phòng ngự Đà Nẵng, chỉ phái Thượng thư Bộ hộ Tôn Thất Hiệp mang 1.500 quân vào đóng ở Biên Hòa. Quân Pháp tuy đã hạ được thành Gia Định nhưng phải đối phó với những đạo quân “ứng nghĩa” hoạt động sôi nổi ở khắp nơi, đêm ngày phục kích, đột kích, bao vây địch. Nhân dân Gia Định tự thiêu hủy nhà cửa, di tản hết, không hợp tác với địch.<br />Tướng De Genouilly hy vọng ở các thừa sai Thiên Chúa giáo và “nội ứng” của giáo dân, nhưng hình như thực tế đã không diễn ra như vậy: “Xung quanh chúng ta là những làng giáo dân, đáng lẽ họ phải tỏ ra nồng nhiệt đối với chúng ta, nhưng thực ra không làm gì có điều đó (…) Các giáo dân không giúp đỡ chúng ta, họ luôn đứng bên lề, rõ ràng là họ đã có định kiến”.<br />Trong một báo cáo gửi về chính phủ Pháp, De Genouilly viết: “không thể không thừa nhận rằng cuộc chiến tranh với nước này còn khó hơn cuộc chiến tranh với vương quốc Trung Hoa”.<br />Lúc này bộ phận quân Pháp đóng ở Đà Nẵng vẫn đang nguy khốn vì thương vong và dịch bệnh. De Genouilly lại quyết định trở ra Đà Nẵng. Trước khi rời Sài Gòn, y ra lệnh dùng mìn phá thành Gia Định (8.3.1859), đốt sạch các kho lúa gạo, chỉ để lại một lực lượng nhỏ đóng tại đồn Hữu Bình.<br />Tại mặt trận Đà Nẵng, ngày 8.5.1859, bộ binh và thủy binh Pháp tập trung toàn lực đánh vào các đồn Điện Hải, Thạch Giản, Hải Châu và Phúc Minh nhưng cũng không có kết quả, Pháp phải chuyển sang kế hoạch “chinh phục từng gói nhỏ”, thực chất là thú nhận tình trạng sa lầy tại mặt trận này và buộc phải ngừng bắn 3 tháng để thương thuyết.<br />Ngày 7.9.1859, De Genouilly lại hạ lệnh tấn công phòng tuyến quân ta tại Đà Nẵng. Phòng tuyến vỡ, nhưng quân địch phải trả giá đắt: 10 tên chết, 40 tên bị thương, lại thêm bệnh binh sốt rét chất đầy xe cứu thương. Cuộc thương thuyết chưa kết thúc thì tháng 11.1859 đô đốc Page được cử sang thay De Genouilly.<br />Giữa lúc đó, cuộc chiến tranh Trung-Pháp lại bùng nổ, buộc Pháp phải rút lực lượng ở Đà Nẵng và Sài Gòn chuyển lên chiến trường Trung Hoa, chỉ để lại khoảng 1.000 quân ở Gia định (600 lính thủy đánh bộ, 100 lính tập, 200 lính Tây Ban Nha và một hạm đội nhỏ). Như vậy, đến giữa năm 1860, tại Đà Nẵng quân Pháp đã rút hết, còn ở Gia Định địch phải dàn mỏng 1.000 lính còn lại trên một chiến tuyến 10 km từ Gò Cây Mai đến Thị Nghè.<br />Quân Pháp lúc này ở Sài Gòn chỉ khoảng 800 người, đóng quân trong các chùa (“phòng tuyến các chùa”) nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn qua các chùa Khai Tường, Hiếu Trung, Kiến Phước vào đến chùa Cây Mai. Một sĩ quan Pháp viết: “Phòng tuyến của ta [Pháp] không được liên tục mà đứt khúc. Địch hoạt động từng toán nhỏ, luồn qua lùm bụi mà đi vào. Hễ gặp quân ta đi lẻ tẻ thì họ tấn công, thành ra lúc nào cũng có báo động. Ban đêm, quân Việt Nam vào tận trung tâm Sài Gòn đế đốt phá (…) Đại úy lính thủy đánh bộ Barbé đi ngựa tuần tra lọt vào ổ phục kích, bị đâm chết và cắt đầu ở gần chùa Hiền Trung”.<br />Lúc này một cuộc giải phóng đã có thể mở ra, nhưng tướng nhà Nguyễn chỉ huy mặt trận Gia Định là Tôn Thất Hiệp lại chủ trương “án binh bất động” để “làm nản lòng địch”, do vậy thời cơ đánh bật quân xâm lược ra khỏi bờ cõi bị bỏ rơi.<br />GS. Trần Văn Giàu cho rằng: “Năm 1860 cũng là năm Pháp can thiệp vũ trang vào Syrie, xung đột với Thổ Nhĩ Kỳ. Vì thế, Page không hy vọng được tăng viện từ Pháp để tồn tại ở Đà Nẵng, vừa ở Sài Gòn (…) Đáng buồn là cái khó khăn nan giải ấy của quân địch, triều đình Huế không hay biết gì ráo, tất nhiên không lợi dụng được tình thế”.<br />Tháng 3/1860, Nguyễn Tri Phương được điều động từ Đà Nẵng vào chỉ huy mặt trận Gia Định thay Tôn Thất Hiệp. Ông không “chủ hòa” với địch mà chủ trương “công thủ” (vừa đánh vừa giữ), tập trung sức quân dân vào việc xây dựng Đại đồn Chí Hòa. Đại đồn dài 3.000m, ngang 1.000m, chia làm 5 khu, ngăn cách bằng bờ rào gỗ. Thành lũy xây bằng đất sét và đá ong cao 3m50, dày 2m, ngoài thành rào tre, đào hố cắm chông. 150 đại bác các cỡ bắn bằng đạn gang được bố trí trên tường thành.<br />Nhận xét về hệ thống Đại Đồn, tác giả Trần Văn Giàu viết: “Nếu là chiến tranh thời trung cổ với vũ khí thô sơ thì Đại Đồn có thể xem như khá kiên cố, tuy thiếu cao thừa rộng, mặt thì yếu mặt thì mạnh, địch dễ leo vào đánh xuyên hông, đánh bọc hậu (…) Xem địa đồ toàn cuộc, thấy hình thể Đại Đồn giống như cái thân hình đồ sộ của một lực sĩ giang hai cánh tay [hai chiến lũy tả, hữu] ôm Sài Gòn - Chợ Lớn, quyết ném địch xuống sông. Nguyễn Tri Phương tưởng đâu địch không thể bước qua Đại Đồn nổi, cam chịu co rút trong Sài Gòn cho đến ngày phải rút đi như chúng nó đã rút đi khỏi Đà Nẵng hồi năm trước”.<br />Ngày 25.10.1860, chiến tranh ở Trung Hoa kết thúc, quân viễn chinh Pháp rảnh tay trở lại Việt Nam. Lúc này vua Pháp (Napoléon III) đã cử đô đốc Charner thống lĩnh toàn bộ quân đội Pháp ở Viễn Đông, quyết hoàn thành nhanh chóng việc đánh chiếm Việt Nam.<br />Ý định này được chính Charner nhấn mạnh trong một báo cáo: “Nếu chúng ta muốn đứng vững chắc ở Nam Kỳ và tạo ra ở đây một trung tâm buôn bán quan trọng thì ta không thể chỉ chiếm Sài Gòn mà thôi. Quyền lợi của chúng ta đòi hỏi phải bành trướng giao dịch ra toàn Nam Kỳ gồm nhiều tỉnh phì nhiêu nhất và giàu nhất của vương quốc này”.<br />Sau mấy tuần chuẩn bị, ngày 23.2.1861 quân Pháp công phá đại đồn Chí Hòa. Cuộc chiến đấu của quân dân ta diễn ra vô cùng ác liệt trong hai ngày 24 và 25.2.<br />Charner ghi nhận: “Quân địch kháng cự kịch liệt (…) Địch ở sau các bờ thành xô nhào các cây thang được áp vào tường (…), dội nước sôi và ném các vật dẫn lửa từ trên thành xuống. Súng bắn ra dữ dội từ các lỗ trên bờ thành. Họ cố thủ cho đến khi quân xung kích của ta tiến sát mép bờ rào; và khi ta trèo lên được mặt tường thành thì họ mới bỏ chạy tán loạn (…) Quân ta tổn thất khá nhiều: 225 người”.<br />Cuộc giao tranh diễn ra ác liệt. Không trụ nổi trước hỏa lực mạnh hơn của Pháp, Nguyễn Tri Phương phải ra lệnh cho quân lính bỏ đại đồn. Địch chiếm đại đồn, Nguyễn Tri Phương phải cho quân rút về đồn Thuận Kiều. Ngày 28.2, địch tấn công Thuận Kiều, quan quân lại phải rút về Biên Hòa. Ngày 3.3.1861, địch chiếm đóng Trảng Bàng, coi như làm chủ tỉnh thành Gia Định.<br />Sau thất bại này, triều đình Huế cử Nguyễn Bá Nghi vào chỉ huy cuộc kháng chiến. Theo Nguyễn Bá Nghi tình thế đã đến lúc “đánh giữ đều không được” và tâu về triều đình: “trừ một chước hòa, tôi chỉ còn chịu tội”. Vua Tự Đức động viên quân tướng: “phải gắng sức, khéo dùng lời cảm hóa kẻ địch để họ kiêng nể mà nghe ta”.<br />Đáp lại yêu cầu “nghị hòa” của Nguyễn Bá Nghi, Charner đề xuất một hiệp ước 12 khoản, đồng thời chuẩn bị tiến đánh Định Tường.<br />Ngày 1.4.1861, quân địch chia làm hai cánh thủy bộ tấn công hệ thống phòng ngự trên sông và tiến về Mỹ Tho. Các quan tỉnh bỏ trốn hoặc rút vào thành. Ngày 12.4, cánh quân bộ của địch tiến sát thành Mỹ Tho, cánh quân thủy theo cửa sông Tiền tiến vào. Quân ta thiêu hủy kho tàng, rút về hướng Cái Bè, một bộ phận khác chạy về Vĩnh Long.<br />Trên thực tế, cuộc tiến quân đánh chiếm Mỹ Tho (do trung tá Bourdais trực tiếp chỉ huy) diễn ra không đơn giản. Tác giả P.Vial kể: “Chưa có cuộc hành quân nào ở Nam Kỳ lại mệt nhọc và chết chóc nhiều như cuộc hành quân này (…) Số quân lính bị chết vì quá nhọc mệt, vì dịch tả. Viên quan Bourdais rất can đảm bị một quả đạn đại bác làm bay mất đầu”.<br />Trong khi quân địch đang ì ạch kéo xuống Mỹ Tho vì phải đối phó với lực lượng dân quân trên các bờ sông, kênh thì ngót 5000 quân của Nguyễn Bá Nghi vẫn đóng yên ở Biên Hòa, không ứng viện. Về phía địch, Charner bất lực trước sức đề kháng của nhân dân, phải xin từ chức. Đô đốc Bonard được cử sang thay vào cuối tháng 11.1861, thực hiện lệnh của Bộ trưởng Hải quân Pháp là “giữ vững sự đô hộ của chúng ta ở Sài Gòn (…), ở đó chúng ta có thể ở lại lâu dài”. Rút kinh nghiệm thất bại của Charner, Bonard chủ trương chưa đánh sâu vào các làng xã mà khẩn trương đánh chiếm những tỉnh thành do quân triều đình đóng giữ. Kế hoạch đánh Biên Hòa và Vĩnh Long được thực hiện nhằm mở rộng khả năng càn quét, bao vây tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân trên địa bàn rộng lớn từ sông Đồng Nai đến sông Hậu Giang.<br />Ngày 14.12.1861, quân Pháp tiến đánh Biên Hòa bằng cả hai con đường thủy bộ, liên tiếp chiếm các căn cứ Gò Công, Trao Trảo và Mỹ Hòa. Tuần phủ Nguyễn Đức Hoan và án sát Lê Khai Cẩn bỏ ngỏ thành với 48 đại bác và 15 thuyền chiến. Khâm sai Nguyễn Bá Nghi đem quân theo đường Bà Rịa chạy ra Bình Thuận. Thừa thắng, địch xuôi dòng Đồng Nai chiếm luôn Bà Rịa (7.2.1862).<br />Tiếp đến, ngày 20.3.1862, quân Pháp tiến đánh thành Vĩnh Long. Hơn 10 chiến thuyền địch áp sát thành Vĩnh Long, các đồn án ngữ bị vỡ. Đêm 23.2.1862, Trương Văn Uyển cho đốt hết kho tàng, dinh thự rồi rút chạy. Sáng hôm sau (24.2.1862) quân Pháp vào thành, thu được 68 cỗ đại bác.<br />Sau khi cho quân đánh tràn ra nhiều nơi, Pháp đã lần lượt chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa).<br />Đầu tháng 5-1862, vua Tự Đức sai quan thông báo cho phía Pháp đề nghị “giảng hòa” của triều đình. Lập tức đô đốc Bonard sai Simon đáp thuyền máy đến Thuận An đưa ra ba yêu sách “nghị hòa” (quan toàn quyền của triều đình vào Sài Gòn thương nghị, bồi thường chiến phí, đưa trước 10 vạn lạng bạc để làm tin).<br />§ Trước khi phái bộ Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp lên đường, vua Tự Đức căn dặn: “hãy hành động rất cẩn thận hầu có ngưng chiến càng sớm càng tốt, để làm đầy đủ sứ mệnh Trẫm giao phó”. Khi thương thuyết, “hãy dò lường tình lý, tùy nghi biện bác sao cho họ bình tâm nghĩ lại, giảm được phần nào thì tốt phần ấy, nếu không được thì mới từ ít đến nhiều”.<br />§ Sứ bộ bắt đầu ra đi từ Huế ngày 28.5.1862, đến Gia Định ngày 3.6.1862. Ngày 5.6, hiệp ước được ký kết, gồm 12 khoản.<br />Trong năm 1862, khi Pháp xua quân tiến đánh nhiều nơi cũng là lúc phong trào nhân dân chống Pháp dâng cao ở các tỉnh miền Đông Nam kỳ làm cho Pháp hết sức hoang mang lo sợ. Chính lúc đó, triều đình Huế với bản chất hèn nhát của mình đã cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký với Pháp Điều ước ngày 5/6/1862 (Hiệp ước Nhâm Tuất).<br />Thực tế trên chiến trường cho thấy những tháng đầu năm 1862 là thời gian khủng hoảng nặng nề nhất của quân viễn chinh Pháp ở chiến trường Việt Nam. Một mặt, phong trào kháng chiến của nhân dân đang phát triển mạnh đặt quân địch trước những khó khăn nam giải, mặt khác là những tác động do thất bại của Pháp ở Syrie, sa lầy ở Mexico và làn sóng phản đối của nhân dân Pháp.<br />Kể từ đầu tháng 9.1858 đến cuối tháng 3.1862, quân Pháp tuy chiếm được 4 tỉnh thành (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long) nhưng chưa tổ chức được bộ máy cai trị vì luôn phải đối phó với phong trào kháng chiến của nhân dân đang dâng cao, nhất là khoảng cuối năm 1861 đầu năm 1862. Những trung tâm kháng chiến ở Cần Giuộc (do Quản Là chỉ huy), Thủ Dầu Một, Trảng Bàng và Tây Ninh ở phía bắc sông Vàm Cỏ, trung tâm Tháp Mười (do Võ Duy Dương chỉ huy) đã chặn đứng được ý đồ đánh thọc sâu vào vùng nông thôn của địch nhằm bao vây tiêu diệt lực lượng kháng chiến.<br />Giữa lúc đó, triều đình Huế đã chủ động “nghị hòa” làm cho thực dân Pháp ngạc nhiên: “may mắn thay, đang lúc phải đón đợi một tình thế xấu thì Huế lại yêu cầu ký hòa ước”; “Trung tướng hải quân bắc trở về báo cho quan đô đốc rằng người An Nam muốn điều đình (…) là một tin mừng giữa lúc có nhiều lo âu nghiêm trọng”.<br />Trước khi đi đến việc cầu hòa, trong một buổi thiết triều bàn kế sách “đối phó với Tây dương”, một số đình thần cho rằng: “Nước Tây dương kia cùng ta không phải là nước liền láng giềng để có thể thôn tính nhau được. Chuyến này chúng đến chẳng qua cầu lợi thôi”. Khâm sai Nguyễn Bá Nghi sau khi rút mấy ngàn quân về Biên Hòa, cho rằng: “bấy lâu nay ta lạnh nhạt với họ [Pháp], họ bị các nước láng giềng chê cười nên đem quân đánh ta để được hòa”. Một số đình thần khác cho rằng: “thuyền tàu, súng đạn đều là cái sở trường của chúng, đánh nhau với chúng mong cho chúng chóng lui, chưa thấy có cơ tất thắng. Mà lỡ ra có sa sẩy lại thêm gió thổi chim kêu cũng sợ hãi” (ý kiến Trương Quốc Dụng, Trần Văn Thung). Hoặc: “người ta có thể tưởng tượng ra nhiều cách phòng ngự, nhưng sự thật là chúng ta không thể chống nổi những cuộc tấn công của Tây dương” (ý kiến Phan Thanh Giản). Lại có ý kiến xin “không đắp đồn lũy, không thu binh lương nữa”, vì “kẻ địch xét thấy ý ta không thực lại thêm chém cắt hơn” và xin “giảm bớt quân thứ, phái người đi cầu viện nước ngoài” (Nguyễn Bá Nghi, Trần Đình Túc).<br />Vua Tự Đức băn khoăn lực chọn một đối sách thích hợp. Khoảng giữa năm1861, nhà vua phê phán Nguyễn Bá Nghi “chỉ thấy chủ ý giảng hòa để đến nỗi càng thêm khó”, nhưng chỉ một tháng sau đó, vua lại đã “chuẩn cho sai hỏi Nguyễn Bá Nghi tự liệu có thể giảng hòa cho xong công việc (…) thì cứ việc tiến hành cho sớm thành công”. Đã có lúc vua Tự Đức đề xuất những biện pháp cụ thể: “cần phải cùng nhau ra sức, làm giấy tờ đi lại, biện bác vặn bẻ, lấy lòng thành mà cảm hóa, lấy lẽ phải mà bẻ bác đi, cốt cho điều gì họ cũng nghe theo”.<br />Cũng có những ý kiến “chủ trương đánh giữ”, vì “ý của bọn Phú-lang-sa là muốn chiếm đất chứ không muốn hòa đâu. Ta không còn nói đến việc nghị hòa được nữa, phải chuyên một mặt đánh và giữ mà thôi. Sao lại tin lời nói dối của chúng mà mắc mưu chúng” (Nguyễn Tri Phương, Tô Trân, Phạm Hữu Nghị…). Nhưng theo Viện Cơ Mật, “các ý kiến này phần nhiều không thể lấy dùng được, vua đều bỏ đấy”. Khi Nguyễn Tư Giản “dâng sớ thiết tha xin không nên hòa với Tây dương” thì “Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản nói: viên ấy không so sánh sự lý, cho là chúng tôi gây mối lo ngại cho vua cha. Lũ chúng tôi dẫu rất ngu cũng không đến nỗi như thế”.<br />Sứ bộ bắt đầu ra đi từ Huế ngày 28.5.1862, đến Gia Định ngày 3.6.1862, và chỉ hai ngày sau (ngày 5-6) hiệp ước được ký kết.<br />Không có tư liệu phản ánh những chi tiết cụ thể về quá trình đàm phán giữa thực dân Pháp với phái bộ Phan Thanh Giản. Vì vậy cho đến ngày nay người ta vẫn băn khoăn không rõ vì sao chỉ trong hơn một ngày “thương thuyết”, phái bộ nhà Nguyễn đã vội chấp thuận những điều khoản nặng nề như vậy. Có ý kiến cho rằng phía Pháp đã dùng sức mạnh quân sự bức bách đại diện của triều đình Huế. Lại có y kiến cho rằng Phan Thanh Giản “biết rằng cưỡng lại thời thế vẫn đi đến chỗ thất bại mà tổn hại sinh linh nên ký cho xong”.<br />Trọn hiệp ước gồm 12 khoản, nội dung cơ bản được tập trung vào mấy điều khoản sau:<br />Điều 3: Trọn ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn nhường đứt cho Pháp. Người Pháp được quyền lưu thông thương mại trên sông Cửu Long và các nhánh sông này bằng tất cả các loại tàu thuyền, kể cả các chiến thuyền tuần tra trên sông.<br />Điều 10: Tàu ghe ở ba tỉnh miền tây được vào ba tỉnh miền đông buôn bán nếu chịu theo luật lệ của Pháp và phải được báo trước, nếu không sẽ bị bắt, tịch thu và phá hủy.<br />Điều 11: Thành Vĩnh Long do quân đội Pháp đóng giữ và sẽ được trả lại một khi vua An Nam ra lệnh chấm dứt các cuộc nổi loạn đang diễn ra trong các tỉnh Gia Định, Định Tường và những người cầm đầu các cuộc nổi loạn đi khỏi [các tỉnh trên] để trong xứ có an ninh và qui thuận.<br />Như vậy, với điều ước Nhâm Tuất này nhà Nguyễn đã chấp nhận giao 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ và đảo Côn Lôn cho Pháp, cùng với những nhượng bộ khác rất nặng nề như: mở cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên cho tư bản Pháp tự do buôn bán, bồi thường cho Pháp 4 triệu Phơ-răng chiến phí. Mục đích của triều đình Huế là muốn sớm rảnh tay để đối phó với phong trào đấu tranh của nông dân miền Bắc. Triều đình Huế đã sợ dân hơn sợ giặc ngoại xâm. Hiệp ước Nhâm Tuất là một vết nhơ lịch sử, đánh dấu sự thỏa hiệp và đầu hàng từng bước của triều Nguyễn.<br />Về phía thực dân Pháp, hiệp ước 1862 là một thắng lợi bất ngờ. Người Pháp thực sự “ngạc nhiên về sự dễ dàng của người An Nam, trước kia đã từng bác bỏ các ý định giảng hòa của chúng ta với bao nhiêu bực tức, đột nhiên lại đến yêu cầu một hiệp ước mà điều kiện hình như đắt giá đối với họ”. Trong báo cáo gửi về Pháp (8.9.1862), đô đốc Bonard viết: “cho đến nay, để thực hiện hòa giải, tất cả mọi việc đều được triều đình Huế thi hành trung thực… phải nói rằng tôi chỉ còn biết hài lòng về chính phủ Tự Đức và những người thay mặt họ đã giúp đỡ tôi tại Nam Kỳ để cho hiệp ước được thi hành sớm chừng nào hay chừng ấy”.<br />Theo sử triều Nguyễn, nghe xong các điều khoản hiệp ước Nhâm Tuất, vua Tự Đức trách phái bộ: “Hai người [Phan, Lâm] không chỉ là tội nhân của bản triều mà còn là tội nhân của muôn đời nữa”. Trong bài văn khắc trên bia Khiêm Lăng, khi nhắc lại sự việc, nhà vua trách thêm: “bất đắc dĩ cầu hòa với giặc, sai sứ đi định ước, bậc kỳ nho thạc phụ khảng khái xin đi, không biết vì cớ gì mà lập hòa ước được dễ dàng, đem tất cả thổ địa nhân dân của các triều trước mở mang khó nhọc bỗng chốc bỏ cho giặc hết”. Nhưng sau đó, triều đình cử Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long là Lâm Duy Hiệp làm tuần phủ Thuận Khánh để tiện giao thiệp với Pháp.<br />Có ý kiến cho rằng vua Tự Đức trách phái bộ Phan Thanh Giản vì để mất ba tỉnh cũng là để mất luôn đất Gò Công quê ngoại, hy vọng cử cụ Phan vào Vĩnh Long để tiếp tục thương thuyết, may ra chuộc được phần nào. Đã có lúc nhà vua còn định đổi ba tỉnh miền Tây để lấy lại ba tỉnh miền Đông. Và muốn quân Pháp cho chuộc đất (hay cho đổi đất) thì điều trước tiên là triều đình phải ra lệnh bãi binh và khuyên dân không nổi dậy chống Pháp nữa.<br />Sau khi triều đình ký kết hòa ước với Pháp, phong trào kháng chiến của nhân dân càng khó khăn hơn trước. Từ đây nghĩa quân sẽ phải đơn độc đối phó với địch. Quan trọng hơn, hiệp ước đã tạo cơ sở pháp lý cho địch đàn áp nghĩa quân, trong khi triều đình thì ra lệnh bãi binh theo đúng điều ước đã ký kết.<br />Và cũng từ sau hiệp ước Nhâm Tuất 1862, ngọn cờ chống thực dân Pháp xâm lược đã chuyển sang tay nhân dân, lần lượt từ ba tỉnh miền đông sang ba tỉnh miền tây rồi từ Nam ra Bắc, tạo thành một nội dung chủ yếu của lịch sử Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX.<br />*<br />* *<br />Sau khi hiệp ước 1862 được phê chuẩn, vua Tự Đức cử một phái bộ sang Pháp, xin vua Pháp (Napoléon III) cho chuộc lại ba tỉnh miền Đông. Sứ bộ gồm Phan Thanh Giản (chánh sứ), Phạm Phú Thứ (phó sứ), Ngụy Khắc Đản (bồi sứ) và hơn 50 tùy tùng. Tháng 11.1863, Napoléon III hứa với phái bộ sẽ cử đại diện (Aubaret) sang Huế để sửa lại hiệp ước 1862.<br />Sau một tháng điều đình (giữa tháng 6 đến giữa tháng 7.1864) Aubaret và Phan Thanh Giản ký bản tạm ước gồm 21 điều khoản: Pháp trả lại cho Tự Đức ba tỉnh miền Đông nhưng vẫn làm chủ Sài Gòn, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, đồng thời triều đình Huế thừa nhận sự “bảo hộ” của Pháp trên lục tỉnh. Các điều khoản về thương mại, truyền giáo… vẫn giữ nguyên như điều ước 1862.<br />Về thực chất, tạm ước Aubaret - Phan Thanh Giản không lợi hơn, thậm chí nghiêm trọng hơn đối với vận mệnh đất nước so với hiệp ước 1862. Thế nhưng ngay khi đề án tạm ước vừa đệ trình vua Pháp, và Aubaret chưa kịp đến Huế thì thực dân Pháp (ở nước Pháp cũng như ở Nam Kỳ) đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa (Chasseloup Laubat) cực lực phản đối, yêu cầu vua Pháp ra lệnh đình chỉ việc triển khai đề án Aubaret.<br />Cuối cùng Napoléon quyết định hủy bỏ tạm ước. Về phía triều đình Huế, sau khi ký tạm ước (15-7-1864), vua Tự Đức cử Phan Thanh Giản làm khâm sai đại thần ở ba tỉnh miền Tây, tiếp tục thi hành lệnh giải pháp quân đội và nghiêm trị những người nổi loạn.<br />+ Đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ (1867)<br />Tháng 8/1863, qua một chuyến du ngoạn và “thăm viếng hữu hảo” ở Campuchia, Pháp đã buộc triều đình Nôrôđôm ký “Hiệp ước hữu nghị và thương mại” để đặt ách đô hộ trên đất nước này. Sau đó, với việc đã cô lập phần còn lại của Lục Tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp tiếp tục lấn lướt và đe dọa triều đình nhà Nguyễn để chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây.<br />Từ tháng 1-1865, được lệnh không thi hành tạm ước Aubaret - Phan Thanh Giản, đô đốc De Lagrandière xúc tiến kế hoạch chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Tháng 10.1866, De Lagrandière cử Vial ra Huế yêu cầu triều đình Huế để cho Pháp cai trị luôn ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, và Pháp sẽ giúp triều đình diệt trừ giặc biển và đình chỉ mọi khoản chiến phí. Tháng 2.1867, một đại diện của De Lagrandière lại ra Huế đòi chiến phí hàng năm theo điều ước 1862 và nhấn mạnh yêu cầu giao quyền cho Pháp ở ba tỉnh miền Tây. Triều đình Huế lúng túng, cuối cùng dành toàn quyền giải quyết vấn đề cho Phan Thanh Giản.<br />Ngày 20/6/1867, lấy cớ triều đình Huế vi phạm Điều ước 1862, ủng hộ nghĩa quân miền Đông chống Pháp, quân Pháp kéo tới bao vây thành Vĩnh Long, đưa thư đòi nộp thành. Đại diện triều đình ở miền Tây là Phan Thanh Giản đã đồng ý nộp thành Vĩnh Long cho Pháp, sau đó Phan Thanh Giản còn ra lệnh cho các quan cầm đầu 2 tỉnh còn lại là An Giang và Hà Tiên cũng phải làm theo.<br />Như vậy, chỉ trong vòng 5 ngày (từ 20-6 đến 24-6-1867) quân Pháp chiếm luôn ba tỉnh miền Tây mà không có một sự kháng cự nào của quân đội triều đình đang đóng ở đây nên không tốn một viên đạn nào. Bất lực trước tình thế, Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử (5-7-1867).<br />Những đề nghị canh tân đất nước của một số quan lại triều đình<br />Triều đình Huế đã mất Nam Kỳ là một sai lầm lớn. Tuy vậy triều đình vẫn không có biện pháp hữu hiệu để giữ 2/3 đất nước còn lại, mà chỉ lo chuộc đất dấy nghiệp ở Gia Định. Triều chính không được sửa sang, chính sách kinh tế - xã hội không hề được thay đổi, việc đối nội đối ngoại cũng chưa có chuyển biến nào đáng kể. Tình hình đất nước nói chung vẫn trì trệ, mâu thuẫn xã hội vẫn ngày càng tăng lên, tổ quốc không có khả năng tự vệ trước họa xâm lăng.<br />Sau khi thực dân Pháp chiếm trọn sáu tỉnh Nam Kỳ (1867), tình hình kinh tế xã hội nước ta càng khủng hoảng nghiêm trọng. Trước nguy cơ quân Pháp mở rộng xâm lược ra cả nước, nhà Nguyễn càng tỏ ra lúng túng trong việc phòng thủ. Suốt 10 năm đối phó với ngoại xâm (1858 - 1867), việc tổ chức, trang bị, huấn luyện quân đội vẫn không có cải tiến gì. Công bằng mà nói, vua Tự Đức đã cho lập thêm nhiều đơn vị “hương binh” ở một số tỉnh, sửa sang các thành lũy từ Bình Thuận trở ra, cử một số võ quan trấn thủ những nơi xung yếu, bố trí thêm đại bác, súng đồng ở cửa Thuận An…<br />Ở Bắc Kỳ, đời sống nhân dân khốn đốn vì luôn bị nạn đói, nạn dịch, bão lụt đe dọa, nhất là từ khi Nha Đê chính bị bãi bỏ (1861).<br />Liên tiếp hai năm 1867, 1868, các tỉnh trung du, đồng bằng và ven biển Bắc Kỳ bị bão lụt lớn, nhân dân xiêu tán. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở Quảng Bình, Quảng Trị năm 1870.<br />Kinh tế nông nghiệp sa sút kéo theo sự đình đốn của công thương nghiệp. Nhiều đô thị suy tàn dần, giao thông thương mại đường biển nằm trong tay Chiêu thương cục của nhà Thanh. Những cố gắng bình ổn giá cả và đo lường không còn hiệu quả. Nha Bình chuẩn thành lập theo sáng kiến của Phan Huy Chú chỉ tồn tại mấy năm, rút cục cũng bị bãi bỏ. Vua Tự Đức và triều thần tiếp tục chủ trương “đóng cửa”, khước từ mọi quan hệ giao thương với nước ngoài.<br />Bấy giờ có tàu buôn nước Anh đến cửa Thị Nại (Bình Định) xin thông thương, có sứ thần của Tây Ban Nha đến Huế trình quốc thư (4 -1870), có lãnh sự Phổ ở Hồng Kông liên hệ với Nha Thương bạc xin giao hảo…, nhưng đều bị triều đình bỏ qua không xét hoặc không trả lời.<br />Tình hình tài chính ngày một kiệt quệ do chi phí chiến tranh và bồi thường chiến phí cho thực dân Pháp buộc nhà Nguyễn phải tăng các sắc thuế (1867), bán ruộng công làm ruộng tư (1869), kể cả bán quan mua tước để tăng thu nhập. lại thêm nạn thổ phỉ (từ biên giới phía bắc tràn sang) gây tai họa cho nhân dân Bắc hà.<br />Những đám “giặc khách” Cờ Trắng, Cờ Vàng cùng cướp biển “tàu ô” mặc sức tung hoành khắp thượng du, trung du và ven biển Bắc Kỳ. Vua Tự Đức phải thu nạp tướng Cờ Đen (Lưu Vĩnh Phúc) và cầu viện quân nhà Thanh ở Quảng Đông (lực lượng Phùng Tử Tài), hy vọng giải quyết rối loạn ở Bắc Kỳ.<br />Nắm được tình trạng suy nhược cao độ của triều đình Huế, thực dân Pháp càng xúc tiến ý đồ mở rộng xâm lược ra phía bắc, thậm chí biến vua nhà Nguyễn thành lực lượng hỗ trợ nhằm “đặt Bắc kỳ dưới quyền đô hộ của Pháp, mà chính phủ Pháp không phải tốn một người hay một xu nào”, như lời đô đốc Dupré báo cáo về bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp.<br />Không thể bó tay nhìn đất nước lâm nguy, nhiều sáng kiến đổi mới đất nước được đề xuất lẻ tẻ trước kia trở thành một trào lưu canh tân trong những năm 60 của thế kỷ XIX. Nhiều người trong giới quan lại, sĩ phu ở các địa phương, trong đó có những người từng đi ra nước ngoài quan sát, tiếp xúc, học hỏi những thành tựu khoa học kỹ thuật châu Âu, trở về suy ngẫm trăn trở trước tình hình đất nước. họ mạnh dạn đề xuất những biện pháp khá toàn diện nhằm đổi mới nền kinh tế, chính trị, xã hội, mong thoát khỏi nguy cơ mất nước.<br />Tháng 9-1868, sau khi công cán ở Hồng Kông về, Trần Đình Túc và Nguyễn Huy Tế nêu sáng kiến xây dựng hải cảng để “tìm cách mưu lợi ích lâu dài”. Cuối năm đó (11-1868), Đinh Văn Điền mật trình một số sáng kiến khác có hệ thống hơn, gồm ba điểm chính:<br />· Nâng cao hiệu quả chiến đấu của binh lính,<br />· Cho dân gian được học binh thư binh pháp,<br />· Hạn chế sự lệ thuộc chính quyền các đô đốc ở Nam Kỳ bằng cách đặt quan hệ đối ngoại với nước Anh.<br />Đinh Văn Điền còn đề nghị các biện pháp mở mang kinh tế như khai thác khoáng sản, tận dụng ruộng đất bỏ hoang, đóng thuyền máy hơi nước, lập thương quán ở các nước, mời chuyên viên kỹ thuật các nước đến giúp, không để Pháp độc quyền…<br />Năm 1872, Nha Thương bạc (cơ quan đối ngoại của nhà Nguyễn) xin mở các cửa cảng Đà Nẵng, Ba Lạt, Đồ Sơn, áp dụng chính sách “chiêu thương khai cảng”. Triều thần bàn luận sôi nổi, nhưng rút cục đa số đã bác bỏ đề nghị này, cũng như đã bỏ qua các đề nghị canh tân trước đó, cho là “chưa hợp thời thế”.<br />Tiêu biểu cho phong trào cải cách bấy giờ là hệ thống điều trần nổi tiếng của Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871). Ông quê ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Năm 19 tuổi (1847) ông quyết định đi sâu tìm hiểu những thành tựu khoa học châu Âu, bắt đầu bằng những tri thức thu lượm được tại chủng viện Xã Đoài. Sau đó ông tìm cách đi du lịch Hồng Kông, Singapour rồi sang Pháp (1858) lưu học ở Paris hai năm.<br />Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ về nước, trước sau gửi lên triều đình Huế một hệ thống sáng kiến canh tân bao quát mọi lãnh vực. Quan điểm tư tưởng nổi bật của Nguyễn Trường Tộ là sự lên án mạnh mẽ ý thức hệ Khổng giáo lỗi thời mà nhà Nguyễn đang cố sức duy trì. Xuất phát từ quan điểm này, ông đề xuất những biện pháp cải cách cụ thể về các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, tôn giáo, văn hóa giáo dục ….<br />Về nông nghiệp, Nguyễn Trường Tộ nêu rõ sự lạc hậu về kỹ thuật nông nghiệp ở nước ta, đề nghị mở trường nông chính để phổ biến khoa học kỹ thuật nông nghiệp, đi sâu cải tiến kỹ thuật canh tác để tiếp cận những thành tựu thế giới. Ông đặc biệt nhấn mạnh vấn đề trị thủy sông Hồng và vấn đề thủy lợi nói chung, theo nguyên tắc “khơi nước chứ không cản nước”.<br />Nguyễn Trường Tộ đặt niềm tin vào triển vọng công nghiệp hóa đất nước trên cơ sở bốn nguồn lợi lớn (hải lợi, lâm lợi, thổ lợi, nhất là khoáng lợi) một khi được khai thác khoa học bằng những phương tiện cơ giới hiện đại. Muốn vậy, việc đào tạo một đội ngũ nắm vững khoa học kỹ thuật tiên tiến là vấn đề bức xúc. Bản thân ông đã trực tiếp thăm dò và lập bản đồ khoáng sản nước ta. Ông đề nghị học tập kinh nghiệm các nước để phát triển ngành luyện kim, xây dựng các nhà máy để kỹ nghệ hóa mọi nguồn lợi núi rừng, sông biển.<br />Về thương nghiệp, Nguyễn Trường Tộ nhấn mạnh vị trí ưu việt của nước ta trên thương trường quốc tế, vì vậy phải “mở cửa” để lưu thông trong ngoài nước. Triều đình cần nắm vững hoạt động nội, ngoại thương, muasắm tàu thuyền, khuyến khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh. Mặt khác cần đắp đường sá, khơi vét sông ngòi, mở mang đô thị để phát triển lưu thông nội địa. Ông phản đối quan điểm cho rằng “mở cửa biển tức là mở cửa đón kẻ cướp vào”, ông chứng minh nguồn lợi ngoại thương to lớn một khi biết cách khai thông đất nước.<br />Để cứu vãn tình hình tài chính nguy ngập, Nguyễn Trường Tộ đề nghị điều chỉnh các sắc thuế nông công thương nghiệp, đo đạc lại ruộng đất, điều tra lại dân số, giải quyết nạn chiếm đoạt, bỏ hoang ruộng đất, nghiêm trị quan lại hào cường tham nhũng. Mạnh dạn hơn, ông đề nghị vay tiền ngân hàng nước ngoài để mở mang kỹ nghệ.<br />Về văn hóa, xã hội, Nguyễn Trường Tộ chủ trương cải cách văn tự trên cơ sở bảo vệ tiếng mẹ đẻ, cấm lưu hành các sách hoang đường, dị đoan, lập viện dục anh, trang trại tế bần, hội từ thiện, cải tạo côn đồ, du đãng, sửa đổi phong tục tập quán, bài trừ tệ nạn xã hội (cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện…), xây dựng nếp sống văn minh.<br />Nguyễn Trường Tộ đặc biệt lưu ý vấn đề giáo dục. Ông đề xuất một chương trình cải cách hoàn chỉnh về giáo dục nhằm xóa bỏ tư tưởng tự mãn và thủ cựu, xây dựng một lối học thiết thực, hiện đại. Bên cạnh tri thức văn học, phải đưa vào nhà trường các môn luật học, y học, sinh ngữ, nông học v.v…, nói chung là những tri thức khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới, phải gắn học với hành nhằm ích quốc lợi dân. Phải kết hợp đào tạo nhân tài cả trong và ngoài nước, cử nhiều người xuất dương du học. Tóm lại, theo ông, giáo dục là quyết định, giáo dục suy đốn thì quốc gia suy đốn.<br />Tóm lại, đứng trước hiện tình đất nước như vậy, ngay trong triều đình ở Huế cũng có nhiều người đưa ra những bản “điều trần” và sáng kiến để canh tân đất nước, tự cường dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Trần Đình Túc, Nguyễn Huy Tế, Đinh Văn Điền, Nguyễn Trường Tộ và cả Viện Thương Bạc, ai ai cũng tâm huyết với vận mệnh đất nước. Điều trần của Nguyễn Trường Tộ gồm 14 tập là một hệ thống những sáng kiến, cải cách trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Song triều Huế và bản thân vua Tự Đức bảo thủ đến mức phản động, khi họ ra các chiếu, dụ khiển trách mọi điều trần và cải cách.<br />§ Có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về hai mặt tiến bộ và hạn chế trong những điều trần cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Tuy nhiên, đã có sự nhất trí cao khi khẳng định toàn bộ điều trần cũng như bản thân cuộc đời Nguyễn Trường Tộ chứng minh tâm huyết của một trí thức yêu nước chân chính, có vốn tri thức sâu rộng, nhận rõ nhu cầu canh tân đất nước, thiết tha tìm lối thoát giải nguy tổ quốc.<br />§ Thế nhưng tại sao nhà Nguyễn không tiếp nhận những điều trần của Nguyễn Trường Tộ? Có ý kiến cho rằng nguyên nhân thất bại của Nguyễn Trường Tộ nằm trong một loạt những mâu thuẫn (mâu thuẫn trong vị thế của ông, trong tình cảm của ông và ngay cả trong chủ trương cải cách của ông). Lại có ý kiến nhận thấy những điều trần của Nguyễn Trường Tộ không có gì xa vời, ảo tưởng, mà phần lớn nằm trong tầm tay của nước ta bấy giờ. Nhưng nhiệt tình và tài năng Nguyễn Trường Tộ đã bị bỏ qua, chỉ vì “điều không may cho Nguyễn Trường Tộ chính là đã ở vào một thời đại với một ông vua nhu nhược, với những quan lại vô trách nhiệm, với một tầng lớp sĩ phu lỗi thời, lạc hậu”.<br />c. Pháp đánh chiếm các tỉnh Bắc kỳ (1873 - 1883)<br />+ Đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ nhất (1873 - 1874)<br />Ngay sau khi chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, thực dân Pháp ở Sài Gòn đã tính đến việc theo đường sông Cửu Long tiến sâu vào lục địa châu Á. Nhưng đợt thăm dò sông Cửu Long năm 1866 của Doudart de Lagrée và Francais Garnier đi đến kết luận: Không thể tiến vào Trung Hoa bằng con đường này. Trái lại, muốn đạt mục đích trên thì phải làm chủ con sông Hồng chảy qua Bắc kỳ đổ ra biển Đông, và phải làm nhanh trước khi thực dân Anh nhúng tay vào. Thống đốc Nam kỳ Dupré trực tiếp thực hiện kế hoạch này.<br />Tháng 1.1872, lợi dụng việc triều đình Huế nhờ quân đội Pháp dẹp giặc biển ở Bắc Kỳ, Dupré cử viên trung tá hải quân Senez đem chiến hạm “Bourayne” ra Huế báo tin rồi tiến thẳng ra vịnh Bắc Kỳ. Mười tháng sau, cũng dựa vào lý do trên, tướng D’Arbaud (tạm thay Dupré nghỉ phép) lại cử chiến hạm “Bourayne” ra Bắc, tiến sâu vào nội địa, tìm đường lên Hà Nội. Tuy bị các quan địa phương phản đối, viên trung tá Pháp vẫn lên bộ quan sát Hà Nội và các triền sông phụ cận, và đệ trình một kế hoạch đánh chiếm Bắc Kỳ. Tháng 5.1873, Dupré báo cáo về Pháp rằng: “Việc đánh chiếm Bắc Kỳ là một vấn đề sinh tử cho tương lai thống trị của chúng ta ở Viễn Đông”.<br />Trong việc xâm lược Bắc Kỳ, thực dân pháp ở Sài Gòn liên kết hành động với Jean Dupuis, một lái buôn Pháp đang kinh doanh ở Trung Hoa.<br />Jean Dupuis đã từng đi lính Pháp trong cuộc chiến với nhà Thanh. Sau năm 1860, Dupuis trở thành một lái súng, có thương điếm trên đất Trung Hoa, cung cấp khí giới cho nhà cầm quyền đàn áp cuộc nổi dậy của người theo đạo Hồi. Từ năm 1867, Dupuis dựa vào thế lực của quan nhà Thanh ở Vân Nam, cùng thực dân Pháp ở Sài Gòn bàn tính kế hoạch xâm nhập Bắc Kỳ bằng con đường sông Hồng. Dupuis nhiều lần gây những vụ khiêu khích ở Hà Nội, bắt giữ thuyền bè của dân, tấn công đồn canh của quân ta ven sông Hồng…<br />Tháng 7.1873, thống đốc Nam Kỳ Dupré điện về Pháp: “Bắc Kỳ đã được khai phóng do thắng lợi của Dupuis, tạo hiệu quả sâu rộng trong nền thương mại Anh, Đức, Mỹ. Chiếm Bắc Kỳ là tuyệt đối cần thiết để bảo đảm cho nước pháp con đường thông thương duy nhất này. Tôi không cần viện binh gì hết, tôi giải quyết bằng cách của tôi. Bảo đảm thắng lợi”.<br />Ngay thời điểm đó, triều đình Huế cử một phái bộ vào Sài Gòn yêu cầu thực dân Pháp giải quyết vụ Dupuis. Chớp cơ hội, ngày 11.10.1873, thiếu tá hải quân Francis Garnier ghé qua Đà Nẵng báo tin, triều đình Huế cử ba võ quan đi theo hạm đội Pháp. Ra đến Hà Nội, F. Garnier phối hợp với lực lượng của Dupuis, liên kết với bọn phản động tuyển mộ ngụy quân, đột nhập thành Hà Nội yêu cầu khai phóng sông Hồng.<br />Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đòi Dupuis phải rời khỏi sông Hồng và ra thông cáo cho dân chúng biết F. Garnier ra Hà Nội chỉ có nhiệm vụ dàn xếp vấn đề Dupuis. Trước thái độ kiên quyết của Nguyễn Tri Phương, F. Garnier quyết định dùng vũ lực. Ngày 19.11.1873, F. Garnier gửi tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương đòi trao thành, đòi cho Dupuis được tự do xuôi ngược sông Hồng và phải trả lời trước 6 giờ chiều cùng ngày. Nguyễn Tri Phương cương quyết cự tuyệt và tăng cường phòng thủ thành Hà Nội.<br />Mờ sáng ngày 20.11.1873, hơn 200 lính Pháp phối hợp cùng quân của Dupuis đang đóng ở Hà Nội và 11 khẩu đại bác đặt trên hai tàu chiến đang đậu trên sông Hồng, Garnier hạ lệnh nổ súng tấn công thành Hà Nội. Nguyễn Tri Phương lên thành trực tiếp chỉ huy cuộc chiến đấu, không may bị trọng thương. Con trai ông là Nguyễn Lâm tử trận. Quân triều đình tan vỡ, một số bị địch bắt giải vào Sài Gòn, một số chạy ra ngoại thành, rút lên Sơn Tây.<br />Sau khi Pháp chiếm thành đã bắt giữ Nguyễn Tri Phương rồi cố tình chữa vết thương cho Ông để hòng mua chuộc một tướng tài, có uy tín, nhưng Ông đã nhịn ăn đến chết, Ông mất ngày 20.12.1873.<br />Sau khi chiếm thành Hà Nội, thừa cơ triều đình Huế tự giam mình trong thế bị động thương thuyết, quân Pháp nhanh chóng đánh chiếm tiếp các tỉnh thành khác như: Hưng Yên, Hải Dương, Phủ Lý, Ninh Bình và Nam Định.<br />Sáng ngày 21/12/1873, Garnier chỉ huy đoàn quân từ nội thành Hà Nội tiến lên hướng Sơn Tây, khi đến khu vực Cầu Giấy thì bị quân của Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân Lưu Vĩnh Phúc chặn đánh. Garnier cùng nhiều binh sĩ Pháp phải bỏ mạng tại Cầu Giấy.<br />Trận Cầu Giấy làm cho quân Pháp ở Hà Nội và các tỉnh Bắc kỳ hoảng sợ đến nỗi muốn bỏ thành chạy. Quân dân nhiều nơi phấn khởi, sẵn sàng đứng lên đánh Pháp. Nhưng một lần nữa triều đình Huế hèn nhát bỏ lỡ thời cơ, không những không dám hiệu triệu quan quân thừa thắng xông lên mà lại ra lệnh cho Hoàng Tá Viêm lui binh, rút quân cờ đen Lưu Vĩnh Phúc lên mạn ngược nhằm để “tạo không khí thuận lợi trong cuộc thương thuyết với Pháp”.<br />Ngày 3.1.1874, Philastre và Nguyễn Văn Tường đến Hà Nội, mở đầu cuộc thương thuyết bằng việc phía Pháp lần lượt trả lại các thành đã chiếm: thành Hải Dương được trao trả ngày 2.1.1874, thành Ninh Bình ngày 8.1, thành Nam Định ngày 10.1 và thành Hà Nội ngày 20.1.1874. Quân Pháp rút về Cửa Cấm chờ lệnh mới. Ngày 4.3.1874, Philastre và Nguyễn Văn Tường trở về Huế gặp vua Tự Đức rồi cùng vào Sài Gòn chuẩn bị ký hiệp ước mới. Kết quả là một điều ước phản bội nữa được ký kết vào ngày 15/3/1874 (Hiệp ước Giáp Tuất) tại Sài Gòn.<br />Ngày 15.3.1874, “Hiệp ước hòa bình và liên minh” được ký kết giữa một bên là Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường (đại diện triều đình) và một bên là Dupré (đại diện chính phủ Pháp)<br />Hiệp ước gồm 22 điều khoản với những nội dung cơ bản như sau: hiệp ước mới thay thế hiệp ước Nhâm Tuất (1862), thực chất là không bàn việc sửa đổi hiệp ước cũ nữa và hợp thức luôn việc Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây. Từ đây, triều đình Huế chính thức thừa nhận chính quyền của Pháp ở Nam Kỳ, không ký hiệp ước thương mại với các nước khác, giáo sĩ đạo Thiên Chúa được phép đi lại hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam, mở cửa sông Hồng, cửa Thị Nại, Hải Phòng, Hà Nội cho Pháp buôn bán và đặt lãnh sự. Ngoài ra triều Nguyễn phải truy bắt và giải nộp cho Pháp những người nổi loạn ở Nam Kỳ trốn ra phía Bắc. Hiệp ước 1874 đánh dấu bước mới trong quá trình đầu hàng của triều Nguyễn.<br />Hơn 5 tháng sau, ngày 31.8.1874, thêm một Điều ước Thương mại được ký kết ở Gia Định, gồm 29 khoản, thừa nhận quyền kiểm soát của Pháp trên thị trường Việt Nam: hàng hóa, tàu bè Pháp được bảo đảm đặc quyền, hoạt động xuất nhập cảng (kể cả thu thuế thương chính) do người Pháp chi phối, điều hành…<br />Tóm lại, với Hiệp ước tháng 3.1874 và Thương ước tháng 8.1874, Nam Kỳ được chính thức thừa nhận là thuộc địa của Pháp, phần còn lại của đất nước thì người Pháp được quyền chi phối ngoại giao, nội trị.<br />+ Đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ hai (1882 - 1883)<br />Từ sau hiệp ước Giáp Tuất (1874), thực hiện điều khoản “Pháp bảo vệ nhà vua [Nguyễn] chống mọi sự tấn công”, thống đốc Nam kỳ nhiều lần phái sĩ quan, chiến hạm phối hợp với quân triều đình đàn áp các cuộc chống đối, nổi dậy và đánh dẹp cướp biển, lập căn cứ trú quân ở đảo Cát Bà.<br />Trong những năm từ 1874 - 1884, ngoài các cuộc nổi dậy với mưu đồ khác nhau ở Bắc Hà (như cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng ở Hải Dương - Quảng Yên), phong trào khởi nghĩa cũng lan vào Hà Tĩnh, Quảng Bình, tác động mạnh tới kinh thành Huế, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do các văn thân ở Nghệ Tĩnh cầm đầu đã nói ở mục trên. Lực lượng nghĩa quân lên tới 20.000 người, đánh chiếm tỉnh thành Hà Tĩnh, bao vây phủ lỵ Diễn Châu, lập căn cứ ở Vinh. Quân triều đình không dẹp nổi, phải dựa vào giáo sĩ Pháp mới đánh tan được nghĩa quân. Trong việc đánh dẹp “giặc khách” (Cờ Vàng), các quan tỉnh Hà Nội cũng phải nhờ đến lãnh sự Pháp giúp sức tiễu phạt. Giặc “tàu ô” quấy phá vùng ven biển Bắc Kỳ, quan tỉnh Hải Dương cũng được lệnh phối hợp với quân Pháp đi tiễu trừ.<br />Nắm được sự suy yếu cực độ của chính quyền nhà Nguyễn, chính phủ cộng hòa Pháp (Đệ tam cộng hòa) quyết định đẩy mạnh cuộc xâm lược toàn bộ nước ta. Những đoạn trong thư Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa gửi Bộ Ngoại giao Pháp hồi tháng 4.1875 thể hiện rõ ý đồ này, đại lược như sau: nước Việt Nam đã suy nhược tự thấy không còn đủ sức cai trị dân mình…, tất phải bị một cường quốc đô hộ. Chúng ta đã chiếm được Nam Kỳ, không thể để cho một thế lực nào khác gây sức ép với Tự Đức. Ta phải tiếp tục [xâm chiếm Việt Nam], nhất quyết không thoái lui, không để mất quyền lợi đã giành được….<br />Và trên thực tế, năm 1879, Pháp chuẩn bị 3.000 lính, 12 tàu chiến đưa sang Việt Nam đánh chiếm Bắc Kỳ, mặt khác nhân triều đình Huế yêu cầu giúp thêm lực lượng trấn áp các cuộc nổi dậy, thực dân Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng lại được dịp tăng quân lên gấp hai lần số quân đồn trú được quy định trong hiệp ước.<br />Tuy “hòa hảo” và dựa vào thực dân Pháp để dẹp loạn, vua Tự Đức vẫn thấy cần thiết nhờ nhà Thanh trợ giúp, ít nhất cũng tạo thế “đối trọng” với Pháp ở Bắc Kỳ. Hơn thế, vua Tự Đức còn cử người đi liên lạc với một số nước châu Âu khác (Tây Ban Nha, Anh, Đức) nhằm kềm chế bớt áp lực của Pháp. Nhưng ý định này không thành, vì đều bị phía Pháp dựa vào các điều khoản trong hiệp ước 1874 để ngăn chặn.<br />Tháng 3/1882, viện cớ triều đình Huế “vi phạm” Điều ước 1884, Thống đốc Nam kỳ phái đại tá Henri Rivière mang 400 quân cùng 2 pháo thuyền ra Bắc.<br />Ngày 26.3.1882, Henri Rivière đem 200 lính cùng hai pháo thuyền tiến ra Bắc Kỳ, lên Hà Nội (2.4.1882), lợi dụng việc tiếp kiến tổng đốc Hoàng Diệu, vào thành quan sát và yêu cầu phá hủy các công trình phòng thủ trong thành. Hoàng Diệu không nao núng, củng cố thành lũy, công sự, xây ụ cản… kiên quyết kháng chiến. Đồng thời ông cấp báo về Huế xin cho lực lượng Hoàng Tá Viêm ở Sơn Tây về phối hợp và liên lạc với các tỉnh viện trợ thêm quân và vũ khí.<br />Nhưng vua Tự Đức lo ngại “thổ phỉ” phương Bắc lại tụ tập nếu cho rút quân Hoàng Tá Viêm về bảo vệ Hà Nội, mặt khác làm như thế sẽ làm cho người Pháp “ngờ vực”. Nhà vua khuyên Hoàng Diệu, Hoàng Tá Viêm đừng làm việc “không phải lúc”, nên bình tĩnh, đừng “rối rít”. Tại Huế, vua Tự Đức sai Nha Thương bạc chất vấn lãnh sự Pháp tại sao kéo quân ra Bắc, và được trả lời: “Hà Nội muốn được yên thì phải giải binh và phá bỏ các công trình phòng ngự”.<br />Giữa tháng 4.1882, Henri Rivière điều động 7 tàu chiến và 2 xuồng máy ở Hải Phòng về Hà Nội. Mờ sáng ngày 25.4.1882, Rivie gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi nộp thành và trình diện. 8 giờ sáng tàu chiến Pháp dàn trận trên sông Hồng nhất loạt bắn vào thành Hà Nội, công phá Cửa Bắc. Đang chiến đấu thì kho thuốc đạn trong thành bốc cháy làm cho quan quân Hoàng Diệu rối loạn. Thừa cơ đó quân Pháp đột nhập thành. Các quan đề đốc, bố chánh, lãnh binh tụt thành bỏ trốn, quân ta tan vỡ. Hoàng Diệu vào Hành cung thảo Di chiếu gửi triều đình rồi dùng khăn lụa treo cổ tự vẫn trong vườn Võ Miếu (dưới chân cột cờ Hà Nội ngày nay).<br />Nhận được chỉ thị từ Paris, Henri Rivière báo cho vua Tự Đức rằng: thành Hà Nội sẽ được trả lại và quân Pháp sẽ cùng triều đình cộng tác giữ thành, chuẩn bị cho cuộc thương thuyết mới.<br />Hoàng Tá Viêm tâu báo về âm mưu của địch “không chiếm hết toàn hạt Bắc Kỳ thì họ không thôi” và xin nhà vua không nên “cứ sa mãi vào thuật của họ”, nhưng ông đã bị vua khiển trách. Giữa lúc đó, sứ thần nhà Thanh (Lý Hồng Chương) đến Huế, ý tưởng cầu cứu nhà Thanh để đối phó với thực dân Pháp bắt đầu biểu hiện mạnh trong một bộ phận triều thần.<br />Nhưng nhà Thanh chỉ muốn nhân cơ hội tìm cách chia phần với Pháp ở Bắc Kỳ. Sau khi quân Pháp hạ thành Hà Nội, các quan chức nhà Thanh ở Lưỡng Quảng, ở cơ quan đối ngoại đều lên tiếng: “Người Pháp đã chú ý sông Hồng, việc Bắc Kỳ Thanh triều cần phải tham dự…, không thể trì hoãn, phải có âm mưu gì ở Việt Nam…”. Trên thực tế, tổng đốc Lưỡng Quảng đã được lệnh cho quân vượt biên giới, đóng ở Bắc Ninh, Hưng Hóa, Quảng Yên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang. Đến cuối năm 1882, số quân Thanh kéo sang Bắc kỳ lên đến 2 vạn người. Tạm ước Thiên Tân (2.12.1883) giữa Pháp và nhà Thanh đã được ký kết trong bối cảnh đó. Tạm ước Thiên Tân xác nhận việc chia Bắc Kỳ làm hai khu vực: nhà Thanh kiểm soát phía tả ngạn sông Hồng và Pháp kiểm soát phía hữu ngạn. Nhưng nội các Pháp đã bác bỏ tạm ước này, vì thực hiện theo đó thì nguồn khoáng sản Bắc Kỳ - trước hết là khu mỏ Hồng Gai - có nguy cơ lọt vào tay thực dân Anh đứng sau các quan chức nhà Thanh.<br />Ngày 12.3.1883, Henri Rivière cho quân chiếm Hồng Gai, đóng quân ở Bãi Cháy để khống chế vùng mỏ và Vịnh Hạ Long. Mấy ngày sau, chiến thuyền Pháp chiếm luôn Quảng Yên và chuẩn bị đánh thành Nam Định. Ngày 26.3.1883, Henri Rivière gửi tối hậu thư cho tổng đốc Nam Định Võ Trọng Bình đòi phá hủy công trình phòng ngự và trình diện. Sáng hôm sau (27.3) chiến thuyền Pháp dàn trên sông Vị Hoàng bắn vào thành, lập lại bài bản đánh thành Hà Nội trước đó ngót một năm.<br />Chiếm xong Nam Định, Henri Rivière trở về Hà Nội giữa lúc hai cánh quân Sơn Tây (của Hoàng Tá Viêm) và Bắc Ninh (của Trương Quang Đản) đã kéo về bao vây. Ngày 19 tháng 5, hơn 500 quân Pháp do Henri Rivière trực tiếp chỉ huy tiến về hướng Hoài Đức. Quân ta mai phục sẵn bên kia Cầu Giấy bố trí trận địa cản địch.<br />Cánh quân địch đi đầu vượt qua Cầu Giấy bị chống trả quyết liệt từ nhiều phía. Cánh quân của Henri Rivière đánh thẳng vào Tiền Thôn hòng tiêu diệt chủ lực của ta cũng bị chặn lại, mấy sĩ quan bị thương. 500 lính Pháp lúng túng tháo lui chen chúc nhau qua cầu, định dùng hỏa lực mạnh (đại bác) giành lại thế chủ động. Lập tức quân ta nổi hiệu xung phong. Ngót 100 lính Pháp chết và bị thương, trong đó có 5 sĩ quan bỏ mạng, kể cả Henri Rivière.<br />d. Đánh chiếm kinh thành Huế (1883 - 1884)<br />Thời gian H. Rivière đang mở rộng địa bàn chiếm đóng ở Bắc Kỳ thì tại Pháp, Nội các Ferry bàn kế hoạch nhanh chóng khuất phục triều đình Huế và ngăn chặn ý đồ của nhà Thanh đối với Bắc Kỳ. Trước mắt, Ferry quyết định tăng quân số và ngân sách cho vấn đề Bắc Kỳ, đồng thời bác bỏ tạm ước Thiên Tân ký với nhà Thanh. Thất bại ở Cầu Giấy cùng cái chết của H. Rivière càng thúc giục chính phủ Pháp thực hiện kế hoạch trên, mở đầu bằng quyết định đánh thẳng vào Huế buộc triều đình Tự Đức đầu hàng, đồng thời cũng là đặt nhà Thanh trước “việc đã rồi”.<br />Giữa lúc đó, vua Tự Đức mất (17.7.1883), triều thần phân hóa thành hai phe “chủ chiến” và “chủ hòa”. Về phía Pháp, đồng thời với những trận đánh quy mô ở Bắc Kỳ sau khi được tăng viện, giữa tháng 8.1883, cao ủy Pháp Harmand ra lệnh cho đô đốc Courbet đưa một hạm đội với 600 quân từ Đà Nẵng kéo ra cửa Thuận An.<br />Ngày 18.8.1883, Courbet gửi tối hậu thư cho vua Hiệp Hòa, đòi giao các pháo đài ở Thuận An trong vòng 2 giờ đồng hồ. Trong lúc vua Hiệp Hòa đang xin đình chiến thì đại bác của thực dân Pháp tới tấp công phá hệ thống pháo đài Thuận An. Sau 3 ngày cầm cự, đêm 20.8.1883, vua Hiệp Hòa cử sứ giả đi gặp Harmand xin “nghị hòa” và chấp nhận những điều kiện do phía Pháp đưa ra (phá hủy toàn bộ hệ thống phòng ngự, giao các chiến thuyền cho Pháp…, thực chất là để ngỏ kinh thành đón Pháp).<br />Một bản hiệp ước chuẩn bị sẵn gồm 27 điều khoản được trao cho triều đình Huế và chỉ được trả lời “thuận” hay “không thuận” trong vòng 24 giờ đồng hồ. Ngày 25.8.1883, đại diện triều đình Huế đã đồng ý ký Hiệp ước (thường gọi là hiệp ước Harmand hay hòa ước Quý Mùi)<br />Nội dung chính của Hiệp ước Harmand:<br />§ Về nội trị: từ nay Việt Nam đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Nam kỳ thuộc địa từ 1874 nay thêm vào 1 tỉnh mới là Bình Thuận; Bắc kỳ là đất nửa bảo hộ; Trung kỳ do triều đình quản lý, nhưng có một Khâm sứ của Pháp đóng tại Huế trực tiếp điều khiển.<br />§ Về đối ngoại: mọi việc giao thiệp của Việt Nam với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.<br />§ Về quân sự: Pháp được quyền đóng quân ở bất cứ nơi nào xét thấy cần thiết, quân đội phải do các sĩ quan người Pháp chỉ huy.<br />§ Về kinh tế: toàn bộ các nguồn lợi trong nước đều do Pháp quản lý và chi phối.<br />Chấp nhận 27 điều khoản do Pháp đưa ra, hiệp ước Harmand đã tước hẳn quyền độc lập của nước ta, thừa nhận quyền “bảo hộ” của nước Pháp, dành cho nhà Nguyễn phần đất từ Đèo Ngang vào giáp Bình Thuận “để cai trị như cũ” dưới quyền điều khiển của một khâm sứ Pháp đóng tại Huế. Các nguồn lợi kinh tế trong cả nước (thuế quan, tài nguyên…) đều do người Pháp nắm. Về quân sự, vua Nguyễn phải triệt hồi binh lính ở Bắc Kỳ; quân đội Pháp sẽ có mặt và đóng đồn “ở bất cứ nơi nào xét thấy cần thiết” để bảo vệ “vua Việt Nam chống lại hết thảy các cuộc ngoại xâm, nội loạn”. Điều ước Harmand là sự phản bội tệ hại nhất của triều đình Huế đối với nhân dân nên bị nhân dân cả nước lên án và chống đối quyết liệt.<br />Đầu tháng 12/1883, khi đã nhận được thêm viện binh từ chính quốc, Pháp đẩy mạnh các cuộc hành quân đánh chiếm nhiều nơi ở Bắc kỳ. Pháp dùng áp lực buộc triều đình Mãn Thanh ký Điều ước ngày 11/5/1884 tại Thiên Tân (Trung Quốc).<br />§ Theo Điều ước Thiên Tân 1884, quân Mãn Thanh thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Việt Nam và cam kết rút hết số quân đã tràn sang Việt Nam từ 1882 theo yêu cầu của triều đình Huế.<br />Với Hiệp ước Harmand (8.1883) thực dân Pháp đã khẳng định quyền thống trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nhưng cao trào kháng chiến của nhân dân bùng lên ngay sau đó buộc chính phủ Pháp thấy cần thiết tận dụng chính quyền cũ của nhà Nguyễn để hoàn tất cuộc xâm lược, hay nói đúng hơn, để “bình định” xứ này ít tốn kém nhất cả về người và của. Thủ tướng Ferry nói rõ: “Khôn ngoan hơn là chỉ nên nghĩ đến một cuộc bảo hộ… Muốn giúp cho công cuộc kinh doanh của nước Pháp ở Đông Dương đạt hiệu quả tốt thì nước Đại Nam [ý nói chính quyền nhà Nguyễn] không thể là một cái hư không được.”.<br />Do vậy, vấn đề “sửa đổi hiệp ước Harmand” được đặt ra. Một bản hiệp ước sửa đổi được thảo xong ở Paris, do Patenôtre mang sang buộc triều đình nhà Nguyễn ký vào (nhân chuyến đi Trung Hoa nhận chức đại sứ của y), thường gọi là hiệp ước Patenôtre.<br />Hiệp ước Patenôtre ký ngày 6.6.1884 gồm 19 điều khoản, xác định rõ thêm vai trò “bảo hộ” của nước Pháp đối với Việt Nam. Vùng đất “cai quản” của nhà Nguyễn được nới rộng ở hai đầu Trung Kỳ (từ Thanh Hóa đến Đèo Ngang ở phía bắc và tỉnh Bình Thuận ở phía nam), phân biệt hai chế độ cai trị khác nhau ở bắc Kỳ và Trung Kỳ. Như vậy, Việt Nam trên thực tế bị chia cắt làm ba: Nam Kỳ thuộc địa, Bắc Kỳ “bảo hộ” (thực chất do các công sứ Pháp trực trị) và Trung Kỳ của Nam triều do khâm sứ Pháp điều khiển.<br />Như vậy, hiệp ước Patenôtre đã hoàn thiện việc biến nước ta thành thuộc địa của Pháp, đồng thời xác định rõ “vị thế mới” của nhà Nguyễn bên cạnh chính quyền thực dân Pháp, cả về đối nội lẫn đối ngoại.<br />§ Điều ước Patenôtre 1884 đã xác lập quyền đô hộ lâu dài và chủ yếu của Pháp ở Việt Nam. Đến đây Nhà nước phong kiến Nguyễn đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược.<br />Như vậy là sau 26 năm tiến hành chiến tranh xâm lược (1858 - 1884), thực dân Pháp đã cơ bản hoàn thành được ý đồ xâm lược - đã chiếm được hầu hết lãnh thổ Việt Nam.<br /><br /><br />II. PHÁP THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ CAI TRỊ THỰC DÂN (1885 - 1896)<br />Sau khi hoàn thành việc bình định: Sau hiệp ước Nhâm Tuất (1862) 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ thuộc Pháp; đến năm 1867 cả 6 tỉnh Nam kỳ được đặt tên là Cochinchine Francaise. Sau Điều ước Giáp Tuất (1874) Bắc kỳ được đặt dưới chế độ bảo hộ và từ hiệp ước 1884 thì Trung kỳ trên danh nghĩa trở thành xứ nửa bảo hộ nhưng thực tế là một xứ được bảo hộ hoàn toàn như Bắc kỳ.<br />1. Ở Nam kỳ<br />a. Về chính trị - quân sự<br />Từ năm 1859 đến 1879, Nam kỳ được cai trị bằng chế độ võ quan (thời kỳ các đô đốc) và áp dụng chế độ cai trị bằng luật lệ quân sự.<br />Năm 1875, Pháp xóa bỏ tên gọi 6 tỉnh Nam kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) để chia toàn bộ vùng này thành 4 khu vực hành chính với 20 hạt trực thuộc. Đứng đầu mỗi hạt là quan Tham biện người Pháp, còn các cấp chính quyền dưới tỉnh thì được giữ nguyên thiết chế và vẫn nằm trong sự kiểm soát của những phần tử cường hào cũ để tạo nên cái chiêu bài “Tôn trọng phong tục, luật lệ, tập quán của người An Nam”.<br />Đến năm 1879, chế độ võ quan cai trị được bãi bỏ và các chính khách dân sự (thường xuất thân trong ngành tài chính) được cử sang làm Thống đốc Nam kỳ. Ở bên dưới, hệ thống chính quyền vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên, để giúp thêm sự cai trị, Pháp cho thành lập “Hội đồng Thuộc địa Nam kỳ” với 20 thành viên, trong đó có 6 người Việt (xuất thân từ thành phần Đại địa chủ). “Hội đồng Thuộc địa Nam kỳ” có nhiệm vụ bỏ phiếu quyết toán hàng năm cho toàn Nam kỳ.<br />Hỗ trợ cho bộ máy cai trị này là một lực lượng quân sự hùng hậu, gồm lính viễn chinh Pháp và ngụy binh. Để có lực lượng ngụy quân n ày, Pháp đã cưỡng bức thanh niên Nam kỳ đi quân dịch.<br />Tháng 3.1861, 4 trung đội lính người Việt đầu tiên được thành lập; đến năm 1879 số quân tăng lên đến 1 trung đoàn. Ngoài lực lượng ngụy binh chủ lực còn có lĩnh mã tà đồn trú ở các địa phương và lính kín chuyên để đàn áp các cuộc khởi nghĩa. Bên cạnh đó là một hệ thống tòa án quân sự được xây dựng ở mỗi tỉnh nhằm mục đích khủng bố và đàn áp những người khởi nghĩa với những hình phạt hết sức dã man và tàn bạo.<br />b. Về kinh tế - tài chính<br />Nhằm mục đích vơ vét tối đa tiền bạc, lương thực để phục vụ công cuộc chinh phục Bắc kỳ và Trung kỳ, các biện pháp xuyên suốt kinh tế ở Nam kỳ là tăng thuế cũ lên nhiều lần và đặt ra nhiều loại thuế mới.<br />Trong vòng 20 năm đầu chế độ thực dân (1859 - 1879) số thuế đã tăng lên đến 5 lần.<br />Trước năm 1862 : 4,5 triệu frăng/năm<br />1867 : 5,4 triệu frăng<br />1871 : > 10 triệu frăng<br />1879 : > 19 triệu frăng<br />Lúa gạo bị thu gom để xuất khẩu kiếm lời cũng tăng rất nhanh. Trong vòng hơn 10 năm đã tăng gấp 4 lần:<br />1860 : <> 230 ngàn tấn<br />1877 : > 300 ngàn tấn<br />Ruộng đất nông dân bị chiếm đoạt, tập trung vào ta thực dân và địa chủ thân Pháp. Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu mở mang thành phố, thị xã cũng như để khai thác tài nguyên, một số công xưởng, nhà máy và một số đường sắt được xây dựng: Xưởng đóng tàu Ba Son (1863), hệ thống đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho (1861)…<br />Một đặc điểm đáng lưu ý là Pháp câu kết chặt chẽ với thương nhân Hoa kiều để làm chỗ dựa. Cho lực lượng này lãnh thầu, xây cất, thu mua lúa gạo, mở sòng bạc, tiệm hút, nhà chứa…<br />c. Về xã hội<br />Dưới tác động của những chính sách chính trị, kinh tế trên đây, xã hội Nam kỳ bắt đầu thay đổi. Giai cấp địa chủ từng bước biến mình thành chỗ dựa, thành bạn đồng minh với thực dân Pháp. Thậm chí có một bộ phận địa chủ đã trở thành công cụ của chính quyền thuộc địa trong việc khai thác tài nguyên và bóc lột nhân dân. Tầng lớp viên chức và trí thức người Việt ngày càng tăng lên do nhu cầu đào tạo người giúp việc cho Pháp. Tầng lớp này phần đông đều xuất thân từ gia đình lớp trên (địa chủ, quan lại).<br />* Tóm lại:<br />Trong suốt thời gian từ 1858 - 1896, hoạt động trung tâm của Pháp ở Nam kỳ chính là nhằm ổn định về chính trị, củng cố hệ thống cai trị và bóc lột kinh tế. Nhằm mục đích biến Nam kỳ thành bàn đạp để tấn công ra Bắc và Trung kỳ. Và vì chính là mảnh đất đầu tiên của Việt Nam chịu ách cai trị thực dân nên chính sách thuộc địa nửa phong kiến ở Nam kỳ thể hiện đậm nét nhất so với các địa phương khác trong cả nước.<br />2. Ở Bắc và Trung kỳ<br />Sau khi chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất và ký hiệp ước 1874, Pháp đặt chức Đại biện (đặc phái viên) ở Huế để giám sát việc thi hành Hiệp ước. Chức Đại biện này trực thuộc sự chỉ đạo của Thống đốc Nam kỳ và tồn tại đến tháng 4-1883. Tháng 5-1883, Pháp lại đặt ra một chức vụ khác là Tổng ủy viên của Cộng hòa Pháp tại Bắc kỳ do Harmand đảm nhiệm. Thực chất viên Tổng ủy viên này là người quyết định mọi hoạt động đối ngoại của triều đình Huế. Dưới quyền Tổng ủy viên này là hệ thống quan đầu tỉnh Bắc kỳ (Công sứ). Tại Huế, Pháp lập một chức Trú sứ - thay mặt cho chính phủ bảo hộ Pháp ở Trung kỳ.<br />Sau Hiệp ước Patenôtre (1884), hệ thống chính quyền ở Bắc và Trung kỳ được chia thành 3 cấp:<br />- Cấp cao nhất là Trung ương: đứng đầu là viên Tổng sứ, phụ trách chung cả Bắc kỳ và Trung kỳ (Chức vụ này vào tháng 5-1889 bị bãi bỏ để tập trung quyền hành vào tay Toàn quyền Đông Dương).<br />- Cấp thứ hai là cấp Kỳ: ở Bắc kỳ đứng đầu là Thống sứ và ở Trung kỳ đứng đầu Khâm sứ Trung kỳ (cả hai trực thuộc Tổng sứ Bắc Trung kỳ). Thống sứ Bắc kỳ có nhiệm vụ quản lý, khống chế mọi hoạt động của quan lại người Việt trong xứ. Khâm sứ Trung kỳ thì quản lý và khống chế mọi hoạt động của triều đình Huế. Đồng thời, để tách Bắc kỳ ra khỏi sự quản lý triều đình Huế, từ năm 1886 Pháp đặt ra chức quan Kinh lược sứ Bắc kỳ. Viên Kinh lược sứ này có quyền thay mặt triều đình Huế để giải quyết mọ việc ở Bắc kỳ (Trong thực tế lịch sử, các viên quan đại thần giữ chức vụ này đều là những phần tử phản động thân Pháp: Hoàng Cao Khải, Nguyễn Hữu Độ…)<br />- Cấp thứ 3 là cấp Tỉnh: đứng đầu mỗi tỉnh Bắc kỳ là Công sứ Pháp có toàn quyền hành chính, tài chính và tư pháp, điều hành mọi việc thông qua hệ thống quan lại người Việt. Còn Công sứ ở Trung kỳ có quyền hạn thấp hơn, chỉ trong lĩnh vực thương chính và công chính.<br />Đông Dương trở thành một Liên bang được thành lập theo sắc lệnh ngày 17/10/1887 gồm 4 xứ: Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Camboge. Năm 1899 thêm Lào, năm 1900 thêm lãnh địa Quảng Châu Loan. Lúc đầu trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp, sau năm 1894 Liên bang Đông Dương trực thuộc Bộ Thuộc địa (được tách ra từ Bộ Hải quân và Thuộc địa trước đây). Đứng đầu Liên bang là toàn quyền Đông Dương, có quyền lực như một tổng thống Liên Bang. Toàn quyền Đông Dương đầu tiên là Constant (1887), Richaud (1888) sau đó cứ 2 - 3 năm thay đổi một nhiệm kỳ, nhưng có khi chỉ 1 năm và đôi khi có người đã 2 lần làm Toàn quyền Đông Dương. Bộ máy công chức cao cấp của Pháp ở Đông Dương mỗi ngày một đông thêm (năm 1897 có 2.860 người, năm 1911 có 5.683 người). Dưới Phủ toàn quyền là Hội đồng Quản hạt (ở Nam Kỳ), Phòng tư vấn (ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ) và các Hội đồng hàng tỉnh, các cơ quan Viện, Phòng chuyên trách…<br />Tất cả hệ thống cai trị trực tiếp này đều do người Pháp điều hành. Người bản xứ chỉ được đưa dần vào bộ máy ấy và để đảm bảo hình thức “dân chủ” mà thôi. Nhưng lực lượng tay sai bản xứ lại giữ vị trí quan trọng ở hệ thống cai trị từ Phủ, Quận, Tổng đến làng xã. Nhà nước thực dân như thế không phải là nhà nước Pháp quyền, mà chỉ là sự phối hợp lẫn nhau giữa nửa trên là giới tư bản tài chính ở nước ngoài, với nửa dưới là lực lượng tay sai người bản xứ.<br />Chế độ cai trị này tồn tại mãi đến năm 1945.<br />Còn về kinh tế - tài chính ở Bắc kỳ và Trung kỳ, từ 1874 - 1884 Pháp chưa thể rảnh tay để thực hiện chính sách bóc lột thực dân, các hoạt động thương nghiệp, công nghiệp hầu như không đáng kể, nguồn khai thác chủ yếu vẫn dựa vào các loại thuế đã có từ thời trước đó. Một điểm đặc biệt là Pháp tăng cường hoạt động cướp đoạt ruộng đất ở Bắc và Trung kỳ. Đến năm 1896 ở Trung kỳ có 3.967ha ruộng đất bị cướp, Bắc kỳ là 33.497ha đất bị cướp.</span>Huynh Duc Thienhttp://www.blogger.com/profile/01986230483903591813noreply@blogger.com0