Total Pageviews

Popular Posts

Search This Blog

Followers

Pages

Saturday, August 4, 2007

LICH SU VIET NAM 1954-1975

CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)

I. BỐI CẢNH CHUNG CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN
1. Tình hình quốc tế
Trên vũ đài chính trị quốc tế những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ II, một hệ thống xã hội mới xuất hiện với hàng loạt nước dân chủ nhân dân chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội mà Liên Xô là một hình mẫu lớn. Năm 1949 được coi là năm quyết định của quá trình thay đổi căn bản tình hình thế giới sau đại chiến với việc Liên Xô phá vỡ độc quyền hạt nhân của Mỹ, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Cán cân so sánh lực lượng trên thế giới nghiêng hẳn về phía các nước chống chủ nghĩa đế quốc.
Bước vào thập kỷ 50, Liên Xô tiếp tục triển khai những “Kế hoạch 5 năm” xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh từng đè nặng lên nền kinh tế - xã hội Xô Viết với bao tổn thất về người và của. Nhưng chỉ 7 năm sau, Liên Xô đã đủ sức làm nên “Sự kiện Sputnich” khiến các thế lực đối địch phải sửng sốt. Một khả năng bảo vệ hòa bình thế giới đãxuất hiện trong thực tế. Trong khi đó các nước Đông Âu cũng bước vào thực hiện công cuộc kiến thiết đất nước với những kế hoạch dài hạn để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tháng 11/1957 tại Matxcơva (Liên Xô), Hội nghị Quốc tế 64 Đảng Cộng Sản và Công Nhân đã tổng kết kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, ra tuyên bố hòa bình, củng cố phong trào Cộng Sản Quốc Tế. Thế giới tiến bộ và cách mạng từ cuối thập kỷ 50 đầu thập kỷ 60 bước vào thời kỳ phát triển với thế và lực mới của mình trong đó Liên Xô là người có công đầu trong việc kiến thiết và gìn giữ hòa bình. Nhưng lúc ấy châu Âu đã bị chia làm đôi, cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu, hệ thống xã hội mới ra đời cũng bước vào thời kỳ đối đầu với chủ nghĩa đế quốc.
Cũng sau chiến tranh thế giới lần II, phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh phát triển thành cơn bão táp cách mạng, phá vỡ từng mảng thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Những cuộc đấu tranh vũ trang, những lực lượng tiến và cách mạng chiếm ưu thế trong dân tộc, xu hướng độc lập - dân chủ - hòa bình - trung lập… Đó là những nét mới trong tiến trình phát triển của phong trào.
Dù được “Trao trả độc lập” hay đấu tranh giành độc lập, các nước thuộc địa sau khi thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang đều đi theo con đường phi đế quốc; trong số các nước này có một số nước đã đi gần hoặc đi thẳng vào con đường chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc từ năm 1953 bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các nước Việt Nam, Cu Ba là những ngọn cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc, sau khi giành được độc lập đã tiến thẳng lên CNXH không qua giai đọan phát triển TBCN.
Chiến tranh thế giới qua đi, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, nhiều nước đế quốc, cả thắng trận và bại trận bị tàn phá nghiêm trng, nhưng đế quốc Mỹ lại trở nên giàu có hơn bao giờ hết. Là một trong những nước lớn góp phần quyết định vào thắng lợi của phe Đồng minh trong chiến tranh, lại là nước giàu mạnh nhất sau chiến tranh, Hoa Kỳ đã giương lên ngọn cờ sen đầm quốc tế và muốn áp đặt tự do kiểu Mỹ ở khắp nơi trên thế giới.
Chiến lược toàn cầu của Mỹ phản ánh một tham vọng muốn xác lập sức mạnh của đế quốc Hoa Kỳ trên tất cả mọi khu vực của thế giới. Mục tiêu trong các kế hoạch chiến lược của Mỹ lúc này là:
* Tiêu diệt chủ nghĩa xã hội (trọng tâm là Liên Xô và các nước Đông Âu)
* Dập tắt phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh (trọng tâm là Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á và Cu Ba trong khu vực Mỹ La-tinh).
* Lôi kéo, khống chế các nước đồng minh (trọng tâm là Tây Âu - Nhật Bản).
Chiến lược toàn cầu của Mỹ sử dụng 3 phương thức chủ yếu: chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang và thực hiện chủ nghĩa thực mới… Chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang và chạy đua vũ trang tạo ra sự đối đầu giữa hai hệ thống thế giới, Mỹ sẽ lôi kéo các nước phe Mỹ vào cuộc chiến chống Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa; chủ nghĩa thực dân mới sẽ thay thế lối thống trị thuộc địa mà phương Tây nay đã lỗi thời.
Ba chỗ dựa trọng yếu của chiến lược toàn cầu của Mỹ lúc này là: Viện trợ kinh tế - quân sự - xây dựng hệ thóng liên minh phòng thủ - củng cố lực lượng quân sự mạnh. Sau kế hoạch Marshall chi 50 tỷ dollar vào việc phục hồi các nước tư bản, Mỹ tiếp tục đẩy mạnh viện trợ cho các nước, tính bình quân mỗi năm trong thời kỳ 8 năm 1953 - 1960 là 5 tỷ dollar. Trong đó số viện trợ quân sự gần 3 tỷ dollar với tỷ lệ theo ưu tiên cho các khu vực là: Tây Âu 54%, Đông Nam Á và Viễn Đông 24,2%, Trung Cận Đông 14,9%, các nơi khác 6%.
Những khối liên minh song phương và đa phương do Mỹ đứng đầu hoặc bảo trợ lần lượt ra đời như: khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) thành lập năm 1949, khối Đông Nam Á (SEATO) ra đời năm 1954, khối Trung Cận Đông (CENTO) hình thành năm 1955, khối Nam Thái Bình Dương (ANZUC) lập ra năm 1951… Ngoài ra còn các Hiệp ước tay đôi giữa Mỹ và một số nước ở Đông Á, Nam Á, Đông Nam Á. Về lực lượng quân sự, những năm 1953 - 1960 Mỹ cũng đề ra nhiều ý nghĩa chính trị và kinh tế cho Mỹ lúc này. Quân số giảm đi nhưng căn cứ quân sự ở nước ngoài lại được tăng cường. Sau chiến tranh Mỹ có hơn 2.200 căn cứ quân sự có mặt ở khắp các châu lục, 7 hạm đội trải ra khắp các đại dương, phái đoàn quan sự và cố vấn Mỹ hoạt động ở 45 nước trên thế giới, nhiều loại vũ khí trang bị mới được ra đời như máy bay ném bom chiến lược B52, B47, tên lửa vượt đại châu có đầu đạn hạt nhân, tên lửa tầm trung, tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hạt nhân chiến thuật…
2. Tình hình Việt Nam
Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đã triển khai chiến lược toàn cầu từ rất sớm, trong đó Việt Nam là một trong những trọng điểm. Việt Nam nằm trong khu vực có tiềm năng lớn về kinh tế vì rất giàu khoáng sản, nguyên nhiên liệu, lại có nguồn nhân lực lao động dồi dào. Việt Nam còn có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự cho cả vùng Đông Nam Á. Đất liền nối với nhiều quốc gia và đi sâu vào tận miền Trung Á. Biển có những đảo và hải cảng không những thuận tiện giao thông, dễ sự dụng tàu thuyền, mà còn có khả năng khống chế cả vùng rộng lớn. Việt Nam lại là tiêu điểm của phong trào giải phóng dân tộc đang sôi sục ở châu Á.
Sau Cách Mạng Tháng Tám khi Việt Nam Dân Cộnng Hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, cục diện chính trị trên bán đảo Đông Dương thay đổi lớn, bất lợi cho chủ nghĩa đế quốc. Đã có sự tập hợp các lực lượng phản cách mạng chống lại lượng cách mạng, nhưng chúng đã không thành công. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi với việc giải phóng nửa nước ở miền Bắc, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam còn là nơi ấp ủ những mưu toan của Mỹ từ lâu. Đầu thập kỷ 50 Mỹ đã thấy “Đông Dương là phần thưởng đặt cho một trò chơi lớn… trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, hàng năm Đông Dương đã đem lại lợi tức khoảng 300 triệu đôla”.
Ngay khi vừa bước vào Nhà Trắng, Tổng thống Mỹ Eisenhower đã tuyên bố giúp Pháp trong chiến tranh Đông Dương là để “ngăn chặn một cách rẻ tiền nhất các sự kiện có thể gây ra những hậu quả khủng khiếp đối với nước nước Mỹ”. Từ tháng 8/1950 Mỹ đã triển khai phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự (MAAG) vào Việt Nam. Từ cuối năm 1950 đến cuối năm 1951, bằng các Hiệp định tay đôi ký với Pháp ở Đông Dương, như “Hiệp nghị phòng thủ chung Đông Dương”, “Kế hoạch hợp tác kinh tế”, “Kế hoạch an ninh chung”, Mỹ đã từng bước can thiệp vào Việt Nam. Những kế hoạch chiến tranh của Pháp ở Đông Dương như “Kế hoạch Rever”, “Kế hoạch Delatte de Tassingy”, “Kế hoạch Dalan”, “Kế hoạch Navarre” đều được Mỹ trực tiếp tham gia chỉ đạo thực hiện. Có thể nói Việt Nam là nơi tập trung quyền lợi sống còn, là đất dụng võ của họ.
Sau Hiệp định Genève 1954, đất nước Việt Nam bị chia làm hai miền. Cuộc chuyển quân tập kết đã làm thay đổi tình hình so sánh lực lượng, từ thế “Cài răng lược” ở phạm vi toàn quốc thành thế “Đối đầu” ở hai miền đất nước. Lực lượng cách mạng đang phát triển thuận lợi trên phạm vi toàn cục, nay tập trung ra miền Bắc, thế và lực lượng cách mạng nhất là ở miền Bắc nhưng vô cùng bất lợi ở miền Nam. Trong khi đó lực lượng Pháp và các phe phái chính trị phản động trên toàn quốc dồn cả về miền Nam, mang theo tâm trạng thua cuộc, hận thù, muốn tìm chỗ dựa mới, đó là cơ hội để Mỹ nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới.
Với những hoạt động xây dựng chủ nghĩa thực dân mới, tấn công đánh phá lực lượng và phong trào cách mạng, trong mấy năm 1954 - 1959 Mỹ - Diệm đã biến miền Nam Việt Nam từ một chiến trường chống chủ nghĩa thực dân thành một chiến trường phản kích lại các lực lượng cách mạng. Âm mưu chiến lược của Mỹ là biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự, một bàn đạp để tấn công miền Bắc và phe xã hội chủ nghĩa từ phía Nam, ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản đang lan tràn xuống vùng Đông Nam Á.
Mỹ đã thi thố ở Việt Nam 4 chiến lược chiến tranh, ứng dụng từ 3 lần thay đổi chiến lược toàn cầu, do 5 đời tổng thống kế tiếp nhau thực hiện từ năm 1953 đến năm 1975. Đó là sự lựa chọn đúng nơi, đúng lúc, đúng đối tượng tiến hành chiến tranh của Mỹ. Chưa bao giờ Mỹ huy động được sức mạnh của cả nước Mỹ cùng các nước phe Mỹ, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự như là trong thời kỳ họ tiến hành chiến tranh Việt Nam. Ý chí và quyết tâm của Mỹ khi đánh Việt Nam không phải chỉ nhằm khuất phục một dân tộc, dập tắt một ngọn lửa đấu tranh vì độc lập tự do, mà còn nhằm đe dọa nhiều nước khác, đồng thời thể nghiệm sức mạnh của Hoa Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XX.
Cách mạng Việt Nam vừa giành thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến 9 năm chống chủ nghĩa thực dân Pháp, nay lại đứng trước kẻ thù mới vừa lớn mạnh vừa đầy tham vọng. Nửa nước ở miền Bắc được giải phóng và có lực lượng cách mạng của cả nước tập trung về. Do đó niềm Bắc có nhiệm vụ phải nhanh chóng hoàn thành nốt những nhiệm vụ còn lại của Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để bước tiếp sang cuộc cách mạng mới, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Nửa nước còn lại ở miền Nam chưa được giải phóng, cách mạng lại bị mất thế lực, quần chúng nhân dân đang tiếp tục bị khủng bố đàn áp. Vì thế miền Nam có nhiệm vụ phải gây dựng lại lực lượng và phong trào cách mạng, tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam, giành tự do độc lập.
Hai miền của một đất nước bị cắt tiến hành đồng thời “hai cuộc cách mạng” khác nhau, dưới sự lãnh đạo của một đảng thống nhất là Đảng Lao Động Việt Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ trước mắt là xây dựng miền Bắc vững mạnh toàn diện, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam, miền Bắc là hậu phương to lớn, là chỗ dựa căn bản nhất cho toàn dân tộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có nhiệm vụ trước mắt là đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ và tay sai, miền Nam là tiền tuyến lớn, là chiến trường chính của cuộc kháng chiến.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có ý nghĩa quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của Cùch mạng Việt Nam, trước hết là đối với sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Cuộc đấu tranh chóng Mỹ ở miền Nam có ý nghĩa quyết định trực tiếp đối với việc giải phóng miền Nam giành tự do độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc.
Cả hai miền Nam Bắc có nhiệm vụ chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc để xây dựng một Việt Nam hòa bình - thống nhất - độc lập - dân chủ và giàu mạnh. Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ kéo dài hơn 20 năm buộc nhân dân Việt Nam phải chọn con đường cách mạng bạo lực để gạt bỏ mọi trở ngại trên con đường hòa bình - thống nhất Tổ quốc.
Chấp nhận cuộc đụng đầu với Mỹ, người Việt Nam cũng sớm nhận thức được tính chất quyết liệt của cuộc chiến tranh không cân sức này, cùng những thuận lợi khó khăn đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của mình. Sức mạnh tổng hợp của Cách mạng Việt Nam thời kỳ đánh Mỹ, đem đối chọi với sức mạnh Mỹ dựa vào tham vọng và những ưu thế của khoa học kỹ thuật. Thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam những năm 1954 - 1975 đã cho thấy: không vũ lực nào đè bẹp được một dân tộc thiết tha với độc lập tự do.
II. CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG Ở MIỀN NAM CHỐNG CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC THỰC DÂN MỚI CỦA MỸ NHỮNG NĂM 1954 - 1965
1. Cuộc chiến đấu mới bắt đầu
Từ cuối năm 1954, Mỹ - Diệm ở miền Nam tập trung bình định lực lượng Đại Việt, Quốc Dân Đảng ở miền Trung, lực lượng Liên Tôn Cao - Hòa - Bình ở Nam Bộ. Cùng lúc đó Diệm cho gạt các phần tử thân Pháp, kể cả các tướng lĩnh cao cấp trong quân đội Liên hiệp Pháp. Các cuộc tập hợp dân chúng được bày biện ra như “Trưng cầu dân ý”, “Phế truất Bảo Đại”, “Suy tôn Ngô Tổng thống”… Năm 1956 nhà cầm quyền miền Nam tiếp tục cự tuyệt mọi đề nghị của Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về việc Hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước như Hiệp định Genève quy định. Được Mỹ khuyến khích và vạch kế hoạch, Diệm đơn phương tổ chức bầu cử Quốc hội, ban hành Hiến pháp riêng rẽ, lập “Nền đệ nhất cộng hòa” ở miền Nam Việt Nam, tuyên bố đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.
Chính quyền Diệm cũng đẩy mạnh các hoạt động đánh phá Cách mạng miền Nam. Các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” trong thời kỳ đầu từ tháng 2/1955 đến tháng 5/1956 được tiến hành chủ yếu ở các tỉnh khu V nhằm mục đích gây xáo trộn, phát hiện đối thủ, thí nghiệm các phương thức đánh phá cách mạng. Từ nửa sau năm 1956 trở đi giai đoạn 2 của chính sách Tố Cộng được đưa lên thành “Quốc sách” và triển khai ồ ạt trên toàn miền, trọng điểm là ở Nam Bộ.
Mục tiêu của Tố cộng là nhằm tận diệt Cộng sản ở toàn miền Nam cả về con người lẫn tư tưởng theo phương thức “Thà giết nhầm chứ không bỏ sót”, “Tiêu diệt Cộng sản tận gốc, tiêu diệt không thương tiếc, tiêu diệt như trong tình trạng chiến tranh”. Từ năm 1956 - 1959, hàng vạn cán bộ Đảng viên cách mạng đã bị địch truy lùng và khủng bố bắt giết, giam cầm hàng chục vạn quần chúng yêu nước. Nhiều nơi đã trắng cơ sở Đảng, lực lượng cách mạng miền Nam bị tổn thất nặng nề.
Kết hợp với các biện pháp bạo lực, Mỹ - Diệm còn dùng các thủ đoạn lừa mị, mua chuộc bằng các biện pháp kinh tế - xã hội. Những đại dụ “Cải cách điền địa” như dụ số 2 (ngày 8/1/1955), Dụ số 7 (ngày 5/2/1955), Dụ số 57 (ngày 22/10/1956) thực chất đã cướp đi số ruộng đất mà nông dân được cách mạng chia cấp trong kháng chiến, để trả lại cho địa chủ, nhằm xóa bỏ ảnh hưởng của cách mạng trong dân chúng. Việc xây dựng các “Dinh điền”, “Khu trù mật”, “Trại người Thượng” nhằm gom dân, quy khu lập ấp để tập trung khống chế quần chúng, cô lập các lực lượng cách mạng còn lại ở cơ sở. Anh em Diệm - Nhu còn lập ra Đảng “Cần lao nhân vị”, tổ chức “Phong trào cách mạng quốc gia”, lập ra “Thanh niên cộng hòa”, “Phụ nữ liên đới”, có hệ thống từ trung ương tới các địa phương để lôi kéo các tầng lớp dân chúng miền Nam vào những hoạt động chống phá cách mạng. Viện trợ của Mỹ đổ vào miền Nam Việt Nam cho chế độ Diệm ngày càng nhiều, từ năm 1954 đến 1957 đã có hơn 1,1 tỷ dollar dành riêng vào việc củng cố chế độ ngụy.
Ngay từ khi Hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chủ tịch đã thông báo tại Hội nghị lần thứ 6 của Đảng: “Tranh lấy hòa bình không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức tạp”. Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch ngày 22/7/1954 cũng xác định “Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”. Như vậy từ rất sớm, nhân dân Việt Nam đã chủ động trong việc đón nhận tình hình mới và sớm có quyết tâm mới để thực hiện mục tiêu hòa bình - thống nhất đất nước.
Khi lệnh ngưng bắn của Bộ Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ban ra trên chiến trường toàn quốc (lúa 0 giò ngày 22/7/1954), từ khu V vào tới Nam Bộ, từng đoàn cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang cách mạng, cán bộ dân - chính - đảng đã nghiêm chỉnh chuyển quân tập kết ra Bắc. Nhưng cũng có nhiều nơi để lại một số lực lượng làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh. Ở Nam Bộ có gần 60.000 đảng viên và khu V có 25.000 đảng viên ở lại rút vào hoạt động bí mật.
Trong tháng 8 và 9/1954 ở các địa phương miền Nam bắt đầu có những cuộc mít - tinh và hội thảo mừng hòa, hoan nghên đình chiến, đón chào Hiệp định Genève… Các hoạt động hợp pháp ấy do các lực lượng yêu nước và hòa bình dân chủ tổ chức, nhưng quân đội và cảnh sát của Ngô Đình Diệm đã ngăn cấm và đàn áp. Hành động khủng bố bằng bạo lực ấy khiến cho chính quyền và quân đội Diện sớm bị cô lập và bộc lộ là kẻ phá hoại hòa bình. Lập tức “Phong trào hòa bình” ở Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển ra các đô thị cùng miền thôn quê. Thành ủy Sài Gòn đã nắm lấy phong trào này, xây dựng thành một trong những lực lượng nòng cốt để lãnh đạo đấu tranh.
Để đáp ứng thực tế yêu cầu ấy, Đảng Lao Động Việt Nam đã đề ra hàng loạt văn kiện chỉ đạo hướng dẫn cách mạng miền Nam phát triển. Mở đầu là các Nghị quyết Hội nghị BCHTW lần thứ 6 (18/7/1954), Nghị quyết Bộ Chính trị (tháng 9/1954), Nghị quyết Bộ chính trị (tháng 6/1956); ở tại chiến trường có các Nghị quyết Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ (tháng 10/1954), Nghị quyết Hội nghị Liên khu ủy Khu V (21/10/1054), “Đề cương cách mạng miền Nam” của đồng chí Lê Duẩn (tháng 8/1956)…
Những nhóm vũ trang tuyên truyền, những đội tự vệ mật xuất hiện ở khu V và Nam Bộ vào đầu năm 1957 đã hỗ trợ cho phong trào quần chúng đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, chống tố cộng đem lại nhiều hiệu quả. Từ nửa cuối năm 1957 các hoạt động vũ trang tuyên truyền ra đời rộ lên như một chuyển biến mới trong phong trào quần chúng cách mạng ở miền Nam. Hầu hết các địa phương đều cố gắng thành lập đội vũ trang và tự trang bị lấy vũ khí. Không tự giới hạn trong những hoạt động tự vệ và hỗ trợ cho đấu tranh chính trị nữa, các lực lượng vũ trang quần chúng đã tiến lên diệt tề trừ gian, diệt ác phá kềm.
Phong trào dần dần phát triển, đến năm 1958 đầu năm 1959 đã lan rộng khắp miền Nam. Ở Đồng bằng sông Cửu Long hoạt động vũ trang tuyên truyền từ đầu năm 1959 nổi lên khá mạnh làm cho bộ máy tề ngụy địch ở đây hoang mang rệu rã. Ở khu V phong trào vũ trang tuyên truyền lan nhanh trong các huyện miền núi phía Tây và đầu năm 1959 chúng đã xuất hiện nhiều hình thức nổi dậy của quần chúng.
Như vậy, sau mấy năm đối phó với những âm mưu thủ đoạn tàn bạo của Mỹ - Diệm, cách mạng miền Nam đã tìm lại con đường cách mạng bạo lực. Đảng ta tại hội nghị BCHTW lần thứ 15 (tháng 1/1959) đã chủ trương: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.
Với sự ra đời của Nghị quyết 15, đường lối và phương hướng đấu tranh giải phóng miền Nam đã được vạch ra một cách rõ ràng. Việc chi viện cho miền Nam từ tháng 2/1959 đã được bàn tính để mở đầu cho quá trình cách mạng miền Nam và kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Tháng 5/1959 tuyến đường vận tải chiến lược Bắc - Nam (đường 559 - đường mòn Hồ Chí Minh) được hình thành để đưa vũ khí, lương thực và người vào các chiến trường ở miền Nam. Được tiếp sức từ miền Bắc, các lực lượng cách mạng miền Nam nhanh chóng phát triển, phong trào đấu tranh được củng cố không ngừng. Cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam chống chế độ Mỹ - Diệm đang chuẩn bị có bước phát triển nhảy vọt.
2. Đồng Khởi - Bước phát triển nhảy vọt đầu tiên của cách mạng miền Nam
Sau khi tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh (ngày 23/3/1959), Ngô Đình Diệm cho ban hành luật số 10 (ngày 6/5/1959) quy định hai hình phạt cho những người chống đối là tử hình và khổ sai chung thân. Tiếp theo là việc chúng cho lập Tòa án quân sự đặc biệt lưu động xét xử những người yêu nước ở các nơi, ban hành luật số 21 về việc dùng máy chém trong thi hành án. Cùng lúc đó tất cả các lực lượng vũ trang của địch ở miền Nam được huy động tối đa vào việc mở hàng trăm cuộc càng quét lùng sục đánh phá, mục tiêu là tấn công các lực lượng cách mạng đang hình thành ở các địa phương. Nhằm tăng cường khả năng ứng phó về quân sự, địch chia miền Nam thành 3 Quân khu, đồng thời triển khai hộ thống gián điệp mật vụ từ trung ương xuống các địa phương. Đối với bộ máy chính quyền cơ sở, chúng chủ trương gián điệp hóa lực lượng tề xã ấp, tăng cường trang bị cho bảo đảm an dân vệ, đẩy mạnh việc quân sự hóa lực lượng thanh niên địa phương… Chế độ ngụy sau mấy năm tạm thời ổn định, nay đã mất ổn định và không thể thống trị như cũ được nữa.
Viện trợ Mỹ cho miền Nam năm 1959 đứng thứ ba trong các nước Đông Nam Á và đứng thứ 7 trong số các nước trên thế giới nhận nhiều viện trợ Mỹ. Lực lượng cố vấn Mỹ được tăng thêm cả về quân số lẫn các phái đoàn. Hệ thống hậu cần, thiết bị chiến trường, đường xá phục vụ cho chiến tranh được xây dựng và mở rộng, xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa xây dựng vào tháng 8/1959 sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh.
Song đã đến lúc không thể xoay chuyển được tình hình đang tiến đến một cơ bão táp cách mạng. Mỹ ngụy có nhiều cố gắng hòng ngăn chặn chiều hướng bất lợi nhưng “sự bất mãn và phẫn nộ” đối với chính quyền Diệm cứ ngày càng tăng không thể kìm chế được. Cách mạng miền Nam tuy còn gặp nhiều khó khăn, tổn thất và chậm đề ra đường lối phương pháp đấu tranh thích hợp, nhưng khi đã có Nghị quyết 15 thì sự chỉ đạo dẫn đường của nó đã đưa cách mạng phát triển nhanh không gì cản nổi. Không một địa phương nào ở miền Nam không chờ đợi những thời cơ thuận lợi để đứng lên chống chế độ Mỹ - Diệm. Bời vì đã đến lúc “ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không còn có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ”.
Ở khu V, từ đầu năm 1959, những cuộc nổi dậy diệt ác phá kìm giành quyền làm chủ đã nổ ra trong các huyện Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bác Ái (Bình Thuận). Đó là dấu hiệu của thời cơ cách mạng miền Nam đang đi tới chín muồi cho một phong trào khời nghĩa từng phần.
Ngày 28/8/1959 rừng núi Trà Bồng bừng bừng khí thế quật khởi. Mở đầu là hành động tẩy chay cuộc bầu cử do chính quyền ngụy tổ chức, sau đó từ những xô xát giữa quần chúng và binh lính địch ở xả Trà Phong, phong trào nổi dậy lan ra khắp các xã vùng núi Trà Bồng. Tiếng la hú cùng với cồng chiêng rộn lên gây khí thế, quần chúng nhân dân có cả đơn vị vũ trang 339 và các nhóm vũ trang du kích vừa ra đời kiên quyết nổi dậy diệt ác phá kiềm giành quyền làm chủ. Ủy ban nhân dân tự quản ra đời ở xã Trà Phong, sau đó lần lượt 16 xã của Trà Bồng đều lập chính quyền Nhân dân cách mạng. Từ Trà Bồng, phong trào nổi dậy khởi nghĩa lan nhanh ra khắp miền rừng núi phía Tây Quảng Ngãi. Đến cuối năm 1959 đã có 40 xã của tỉnh này được giải phóng, vùng căn cứ và vùng giải phóng của Quảng Ngãi mở rộng nối liền với Tây Nguyên.
Ngọn lửa Đồng Khởi một khi đã bùng lên thì nó nhanh chóng bén vào cánh đồng cỏ khô toàn miền Nam, nó sẽ bừng bừng cháy lên thiêu đốt chế độ độc tài phát xít. Cuối năm 1959 ở Nam Bộ tình hình cách mạng sôi nổi hẳn lên với chiến thắng Gò Quản Cung (Kiến Phong ngày 26/9/1959), Xẻo Rô (Rạch Giá ngày 24/9/1959). Đầu tháng 12/1959 các tỉnh Trung Nam Bộ (khu VIII) tiếp thu Nghị quyết 15, đề ra kế hoạch lãnh đạo các địa phương nổi dậy khởi nghĩa. Bắt tay vào hành động, đêm mồng 2/1/1960 lãnh đạo tỉnh Bế Tre đã họp khẩn cấp để quyết định: phát động một tuần lễ toàn dân nổi dậy diệt ác phá liềm, giải phóng nông thôn, làm chủ ruộng vườn.
Ngày 17/1/1960 sóng nổi dậy đã cuộc lên ở các xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh của huyện Mỏ Cày tỉnh Bến Tre. Những cơn “sóng thần” của quần chúng nổi dậy tràn qua cù lao Minh, cù lao Bảo, cù lao An Hòa rồi tràn qua toàn Nam Bộ. Từng đợt, từng cao điểm, những cuộc “Đồng Khởi”, “Đồng Khởi nhồi”, “Đồng Khởi bồi” đã dấy lên cùng với bao hận thù quân Mỹ - Diệm.
Từ Nam Bộ, phong trào Đồng Khởi dội trở ra Nam Trung Bộ, Trung Bộ và Tây Nguyên. Đến cuối năm 1960 đã có 2/3 cơ cấu chính quyền địch ở cơ sở bị tan rã. Cùng với sự tan rã của chính quyền ngụy ở cơ sở, hiện tượng đào rã ngũ trong ngụy quân cũng ngày càng phát triển, mâu thẫn phân hóa trong hàng ngũ địch đã dẫn đến đảo chính trong ngụy quyền trung ương ở Sài Gòn khiến Mỹ phải bối rối đối phó.
Phong trào Đồng Khởi đã giành quyền làm chủ cho hàng triệu người dân ở 1.383/2.627 xã toàn miền Nam, có 865 xã trong tổng số 1.193 xã của Nam Bộ và 3.200 thôn trong tổng số 5.721 thôn của vùng núi khu V không còn ngụy quyền. Đến cuối năm 1960 vùng giải phóng được mở rộng trên khắp nông thôn, đồng bằng và rừng núi, với số dân khoảng 5.600.000 người. Lực lượng vũ trang nhân dân từ trong cao trào Đồng Khởi cũng lần lượt ra đời gồm cả bộ đội tập trung của khu (3.034 người), của tỉnh huyện (12.500 người) và dân quân du kích tự vệ (10.000 người).
Ngày 20/12/1960 tại vùng giải phóng xã Tân Lập huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giới, các tầng lớp nhân dân miền Nam đã họp thành lập “Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam”. Chương trình hành động 10 điểm của Mặt trận đã đưa lên hàng đầu mục tiêu “Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh, dân tộc, dân chủ”. Mặt trận Giải phóng trở trành người đại diện chân chính, duy nhất của nhân dân miền Nam trong cuộc chiến đấu đang tiếp tục. Cách mạng miền Nam từ đây bước vào thời kỳ mới, thời kỳ dùng chiến tranh giải phóng chống chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ.
3. Thế trận buổi đầu của chiến tranh cách mạng chống chiến tranh đặc biệt của Mỹ
Sau Đồng Khởi, thời kỳ tạm thời ổn định của chế độ Mỹ - Diệm hoàn toàn chấm dứt, thời kỳ phát triển thế và lực của cách mạng miền Nam đã bắt đầu. Đế quốc Mỹ thấy rằng cần phải tăng cường chiến tranh để chống lại phong trào cách mạng đã và đang bùng lên. Song nhân dân miền Nam cũng đã có đủ các cơ sở để bước vào cuộc chiến tranh cách mạng toàn dân, toàn diện, trường kỳ theo phương pháp sáng tạo của chiến tranh nhân dân chống Mỹ cứu nước.
Tháng 1/1961 cơ quan Trung ương cục miền Nam được thành lập do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư, sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Lao Động Việt Nam đối với cuộc kháng chiến ở miền Nam được kiện toàn và củng cố, nhiều cán bộ dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo phong trào được tăng cường cho các cơ quan Trung ương Cục và các khu ủy.
Ngày 15/2/1961 lực lượng vũ trang quân giản phóng miền Nam Việt Nam chính thức ra đời, sau đó Ban quân sự miền và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp ở miền Nam được hình thành. Miền Nam được chia thành 6 quân khu (ở Nam Bộ có: Quân khu I - Đông Nam Bộ; Quân khu II - Trung Nam Bộ; Quân khu III - Tây Nam Bộ, Quân khu IV - Sài Gòn Gia Định).
Tháng 2/1962, Bộ CHính trị ra nghị quyết mới về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Thực tế sự phát triển của chiến tranh cách mạng từ sau Đồng Khởi cũng làm sáng tỏ nhiều vấn đề chiến lược chiến thuật của chiến tranh. Những nhận thực mới phù hợp với chiến trường miền Nam lúc này đã nhanh chóng được tiến hành là: Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cùng phát triển: đấu tranh chính trị tiến hành song song với đấu tranh vũ trang và phải luôn kết hợp 2 hình thức đấu tranh ấy; đấu tranh trên cả 3 vùng chiến lược: rừng núi - nông thôn đồng bằng và đô thị; từng vùng có phương thức sử dụng lực lượng và phương thức tác chiến khác nhau, nhưng cơ bản là vận dụng linh hoạt 3 phương châm: chính trị - vũ trang - binh vận; phương hướng phát triểnc của phong trào là từ tiến công - nổi dậy khởi nghĩa tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa để lật đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam. Như vậy phải nhanh chóng xây dựng lực lượng mọi mặt trong đó “Phải khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang ngày càng lớn mạnh, kể cả du kích, bộ đội địa phương và chủ lực”, phương châm hoạt động quân sự trước mắt là lấy chiến tranh làm chính kết hợp với vận động chiến.
Cuộc chiến tranh nhân dân du kích ở miền Nam từ sau Đồng Khởi như có phép màu nhiệm, nhanh chóng lan rộng khắp nơi. Tỷ lệ lực lượng vũ trang cách mạng với lực lượng địch lúc đầu là 1/17 nhưng một năm sau tăng lên 1/10, tình hình đó báo hiệu khả năng phát triển của chiến tranh cách mạng ở miền Nam là vô cùng to lớn.
Theo tổng kết của ta, năm 1961 quân dân miền Nam đánh 15.525 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 28.996 tên địch, bắt 3.529 tên khác, thu 6.000 súng các loại; trong năm có hơn 38,8 lượt người tham gia đấu tranh chính trị và binh vận, làm cho 14.500 sĩ quan ngụy đào ngũ; vùng giải phóng và vùng kiểm soát của mặt trận giải phóng có hơn 10.000 làng xã với hơn 6 triệu dân. Năm 1962 quân dân miền Nam loại khỏi vòng chiến đấu 35.000 tên địch, làm rã ngũ 32.000 tên khác. Đặc biệt là phong trào chống phá bình định ngày càng phát triển sâu rộng thành phong trào quần chúng và thu được kết quả lớn. Đến cuối năm 1962 có 2.665 ấp chiến lược bị phá trong đó có 484 ấp bị phá hoàn toàn. Dựa vào hệ thống phòng thủ có sẵn ở đó đã có 115 ấp chiến đấu được hình thành, làm trận địa cho phong trào du kích chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạng tạo kỳ diệu của mình, vùng giải phóng ở miềnNam ở cuối năm 1962 chiếm 4.441 xã trên tổnbg số 17.662 xã toàn miền Nam.
Đến cuối năm 1962, những mục tiêu của kế hoạch Staley - Taylor đã không đạt được. Ấp chiến lược chỉ có 37% kế hoạch được thực hiện. Chống chiến tranh du kích thì chiến tranh du kích vẫn cứ tồn tại không ngửng phát triển, lực lược vũ trang quân giải phóng tiếp tục trửng thành… Tình hình bi thảm đến nỗi tổng thống Mỹ Kennedy đã phải thú nhận trước giới báo chí ở NewYork rằng họ đang ở trong đường hầm chưa thấy lối ra.
Tuy vậy ở miền Nam, Mỹ - Diệm vẫn còn nhiều khả năng phát triển lực lượng, đẩy mạnh càn quét bình định, tăng cường biện pháp củng cố chế độc độc tài. Về phía cách mạng miền Nam, sau 2 năm xây dựng thế và lực, ta đã có khả năng nắm lấy quyền chủ động chiến trường, đã đánh thẳng vào mục tiêu chủ yếu của kế hoạch chiến tranh của địch. Ta đang đứng trước khả năng phát triển nhanh hơn và giành thắng lợi lớn hơn.
Ngày 2/1/1962, trận chống càn Ấp Bắc đã diễn ra ở một ấp nhỏ của xã Tân Phú Trung huyện Cai Lậy (Mỹ Tho), song thắng lợi vang dội của nó đã tác động lớn đến chiến trường miền Nam giai đoạn này. Lực lượng giải phóng chỉ khoảng tiểu đoàn do đồng chí tiểu đoàn trưởng D261/khu VIII chỉ huy đã chống chọi với lực lượng địch đông hơn gấp 10 lần do tư lệnh sư đoàn bộ binh 7 cùng với 51 cố vấn Mỹ chỉ huy. Chiến thuật của chiến tranh du kích với vũ khí thô sơ ứng chiến với chiến thuật tân kỳ “Trực thăng vận”, “Thiết sa vận”. Cuối cùng thắng lợi đã thuộc về lực lượng cách mạng. Trận Ấp Bắc đã báo trước khả năng thắng thua cho các bên tham chiến.
Ngày 8/4/1963 Trung ương Cục miền Nam phát động cao trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công”. Khắp các chiến trường từ Nam Bộ đến khu V, kể cả vùng ven Sài Gòn, đâu đâu cũng có những trận đánh theo khẩu hiệu hành động ấy. Kết thúc năm 1963, trên toàn miền Nam quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 78.000 tên địch, bắn rơi 100 máy bay, diệt và phá hủy 100 xe thiết giáp M.113, bắn cháy 236 tàu xuồng, thu được 11.000 súng các loại. Năm 1963 còn là năm chống phá bình định có hiệu quả nhất từ trước cho tới lúc đó, với 2.895 ấp trong tổng số 6.164 ấp, chiến lược bị phá banh, trong đó có nhiều ấp bị phá hoàn toàn; có 12.000 thôn ở miền Nam với 9.000.000 dân đã giành được quyền làm chủ ở những mức độ khác nhau.
Trong khi đó ở các đô thị phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân chống chế độ Mỹ - Diệm cũng diễn ra ngày một sôi động. Cuộc đàn áp của Diệm - Nhu đối với đồng bào Phật tử tăng ni năm 1963, đã không dập tắt được ngọn lửa đấu tranh ấy mà còn tạo ra nguyên cớ trực tiếp cho Mỹ thực hiện “Thay ngựa giữa dòng” một biện pháp được coi là để trừng phạt nặng nề nhất được giành cho các lực lượng tay sai.
Ngày 1/11/1963, cuộc đảo chính lật đổ gia đình Diệm - Nhu của nhóm tướng lĩnh ngụy do Dương Văn Minh cầm đầu, đã được tiến hành với sự ủng hộ của Mỹ. Tuy nhiên đó chỉ là hành động thay người nhận viện trợ Mỹ. Mặt trận giải phóng ngay sau đó (ngày 7/11/1963) đã khẳng định đó là sự thay đổi tập đoàn thống trị này bằng tập đoàn thống trị khác cũng độc tài và phục vụ chính sách xâm lược Mỹ. Đầu năm 1964 Mỹ đề ra 9 biện pháp cấp bách cho tình hình ngày một xấu đi ở miền Nam, trong đó tập trung vào 3 vấn đề chính.
* Mở rộng quyền hoạt động của cơ quan MACV.
* Đẩy mạnh việc phá hoại miền Bắc và ngăn chặn việc chi viện vào miền Nam.
* Tăng thêm lực lượng hiểm trợ Mỹ và trách nhiệm của nó.
Theo kế hoạch này, tướng Westmoreland sang thay cho tướng Harkil làm tư lệnh MCAV. Tập đoàn Nguyễn Khánh được dựng lên thay cho tập đoàn Dương Văn Minh. Việc khiêu khích đe dọa gây sức ép đối với miền Bắc được đẩy mạnh cùng với việc lập chính phủ thân Mỹ ở Lào và ép chính phủ Campuchia từ bỏ đường lối trung lập. Tháng 3/1964, Mc Namara lại đến Sài Gòn và lần này súyt nữa bị anh Nguyễn Văn Trỗi dùng mìn đánh phục ở cầu Công Lý. Mỹ đang hy vọng dùng Nguyễn Khánh đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt lên cao.
Tình hình miền Nam như Đảng ta trong Hội nghị BCHTW lần thứ 9 (tháng 12/1963) đã chỉ rõ: “Cần phải và có khả năng kìm chế và thắng địch trong loại chiến tranh đặc biệt”, trong giai đoạn hiện nay “Đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều có vai trò rất cơ bản và rất quyết định” nhưng “Đấu tranh vũ trang đóng vai trò quyết định trực tiếp”.
Vào những tháng đầu năm 1964, từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, từng đoàn cán bộ tướng lĩnh và chiến sĩ theo đường Trường Sơn và tăng cường cho miền Nam. Thực lực của chiến trường B được xây dựng nhanh hơn. Ở miền Nam hàng ngàn thanh niên từ các vùng giải phóng cũng nô nức tòng quân giết giặc bảo vệ quê hương (tỉnh Bến Tre năm 1964 có 8.000 thanh niên nhập ngũ, trong đó có 6.400 thanh niên bổ sung vào Quân giải phóng). Tháng 10/1963, ta thành lập cơ quan Quân ủy miền và Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam thay cho Ban quân sự miền. Năm 1963 so với năm 1962, Lực lượng vũ trang địa phương tăng gấp đôi. Đến năm 1964 ở miền Nam có 11 trung đoàn, 15 tiểu đoàn chủ lực, 25 tiểu đoàn, 90 đại đội bộ đội địa phương, 200.000 du kích các loại.
Với thực lực ấy, ta đã tổ chức nhiều trận chống càn và nhiều chiến dịch tiến công để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, phối hợp với các địa phương mở những đợt tổng phá ấp chiến lược. Ở các trọng điểm bình định như quanh Sài Gòn, Nam Bộ, khu V, phong trào ấp chiến lược, xây dựng xã chiến đấu đang ngày một mở rộng. Đặc biệt là cuối năm 1964 đầu 1965 những chiến thắng vang dội của quân giải phóng ở Bình Giã, An Lão, Ba Giai, Phước Long, Đồng Xoài… liên tiếp giáng cho quân ngụy những đoàn chí tử. Khả năng thắng lợi lớn về quân sự đang đến với quân giải phóng miền Nam, điều đó có nghĩa là quân ngụy - xương sống của chiến tranh đặc biệt đang suy sụp dần không thể cứu vãn.
Đô thị cũng không còn là nơi an toàn của chế độ ngụy Sài Gòn, khi những trận đánh của đặc công, biệt động Quân giải phóng liên tiếp gây kinh hoàng cho Mỹ ngụy. Đặc biệt là những cuộc đấu tranh chính trị khổng lồ ở đô thành Sài Gòn trong cao điểm tháng 8/1964. Hàng chục vạn lượt người rầm rộ xuống đường với khẩu hiệu chống “Hiến chương Vũng Tàu”, “Đả đảo đế quốc Mỹ”, “Đả đảo Nguyễn Khánh”… Tất cả đã làm rung chuyển chế độ thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Cho đến cuối năm 1964 đầu năm 1965, tình hình chuyển biến nhanh ở chiến trường báo hiệu một khả năng mới vô cùng thuận lợi là: chiến tranh cách mạng Việt nam có thể đánh bại hoàn toàn chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Tuy nhiên Mỹ còn nhiều mưu toan để leo thang chiến tranh. Hoạt động phá hoạt và khiêu khích gây sức ép của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam được bắt đầu từ năm 1961, tăng dần vào các năm tiếp theo, đến năm 1964 trở thành một trọng tâm của kế hoạch chiến tranh.
Từ ngày 30/7 đến ngày 2/8/1964 để có một lý do trực tiếp thuyết phục, Quốc hộ Mỹ cho phép quân đội của họ mở rộng chiến tranh chống nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tổng thống Mỹ Yolhson đã cho lực lượng hạm đội 7 ở Thái Bình Dương gây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”. Ngay sau đó “Nghị quyết vịnh Bắc Bộ” được thông qua, trở thành lời tuyên chiến của chính phủ Mỹ. Giới hiếu chiến Mỹ đã đánh lừa dư luận Mỹ, sau đó ngày 5/8/1964 đã mưu toan đánh trận phủ đầu vào miền Bắc bằng không quâ, gây sức ép buộc các lực lượng cách mạng ở miền Nam phải ngưng lại cuộc tiến công.
Những trận tiến công “Mũi tên xuyên” của không quân Mỹ cuối cùng không thực hiện được mục tiêu đánh phủ đầu; ngườc lại chúng đã gặp nhiều bắt ngờ: 8 máy bay phản lực của Mỹ bị bắn rơi, một phi công Mỹ bị bắt sống. Sau ngày 5/8 lịch sử ấy, Mỹ tiếp tục cho không quân, hải quân đánh phá miền Bắc, trọng điểm là đường vận tải chiến lược Trường Sơn. Song miền bắc cũng kịp thời ứng phó bằng hai công việc khẩn cấp nhất: chi viện tích cực hơn nữa cho miền Nam và chiến đấu chống không quân, hải quân Mỹ theo khẩu hiệu hành động của Nguyễn Viết Xuân: “Nhằm thằng quân thù mà bắn”.
Mỹ đã đạt tới giới hạn cố gắng nhưng vẫn không lập lại được chiến trường miền Nam như ý muốn. Viện trợ Mỹ cho miền Nam từ năm 1963 đến năm 1964 đã lên tới hơn 100 triệu dollar, trong đó trên 70% là dành cho quân sự; tổng số quân hơn nửa triệu người (gồm 161.000 quân ngụy, 26.200 quân yểm trợ Mỹ) vẫn không làm chủ được chiến trường. Số cuộc càn quét cứ tăng dần nhưng số dân và ấp bình định cứ tụt dần đến mức báo động. Ngụy quyền từ trung ương tới cơ sở đều trở thành “lũ âm binh” không thể kiểm soát được kể từ khi sử dụng chúng để lật đổ gia đình Ngô Đình Diệm…
Để cứu vãn tình hình, nửa đầu năm 1965 Mỹ đã vội vàng đổ quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc chuyển sang một bước ngoặc mới.
III. CẢ NƯỚC CÓ CHIẾN TRANH - 10 NĂM “ĐÁNH CHO MỸ CÚT, NGỤY NHÀO” (1965 - 1975)
1. Mỹ leo thang chiến tranh Việt Nam - cả nước kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Có thể hình dung chế độ Ngụy miền Nam đang trên đà lao xuống vực sâu và tan vỡ thì quân đội viễn chinh Mỹ chư hầu đứng vào cản lại. Tháng 2/1965 các chiến dịch của không quân và hải quân Mỹ Plemmynd Dart (Mũi Lao Lửa) và Rolling Thunder (Sấm Rền) đánh phá ồ ạt ra miền bắc Việt Nam. Tháng 3 và 4/1965 những đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ đầu tiên được đưa vào Đà Nẵng. Ngày 17/7/1965 tổng thống Mỹ Johnson ra quyết định chấp nhận yêu cầu tăng quân số theo chiến lược “tìm diệt” của tướng Wesmoreland. Một kế hoạch gồm 3 giai đoạn áp dụng cho miền Nam Việt Nam từ giữa năm 1965 là:
1. Sáu tháng cuối năm 1965 phải ngăn chặn được chiều hướng thua.
2. Sáu tháng đầu năm 1966 phản công giành lại quyền chủ động.
3. Từ nửa cuối năm 1966 trở đi sẽ củng cố bình định kết thúc chiến tranh, rút quân Mỹ về nước.
Đến cuối năm 1965 đạo quân viễn chinh có mặt ở miền Nam là 184.314 lính Mỹ; 20.500 lính Nam Triều Tiên, Úc, Tân Tây Lan. Toàn bộ lực lượng quân sự Mỹ - chư hầu - ngụy Nam Việt Nam được đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của cơ quan MACV và do Bộ tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương trực tiếp điều hành. Các trận đánh của Mỹ - nguỵ - chư hầu sẽ được chi viện tối đa của hỏa lực Mỹ, kể cả máy bay chiến lược B52. Ngày 18/6/1965 trận rải thảm đầu tiên của máy bay B52 được thực hiện tại Bến Cát. Ngày 27/6/1965 cuộc hành quân hỗn hợp đầu tiên của quân viễn chinh Mỹ với lực lượng ngụy được tổ chức ở Tây Bắc Sài Gòn. Cuối tháng 6/1965, không quân và hải quân Mỹ kết thúc những trận đánh “trả đũa” để bắt đầu đánh rộng ra toàn miền Bắc Việt Nam, kể cả Hà Nội, Hải Phòng.
Cứ mỗi ngày lại tăng thêm một bước mới, cuộc chiến tranh của Mỹ chống Việt Nam từ năm 1965 loang nhanh như một vết dầu và hóa thành biển lửa ngùn ngụt tưởng không gì giập tắt được mặc dù tổng thống Mỹ lúc ấy luôn luôn nói tới “Hòa bình thương lượng” và “Sẽ tìm cách giữ sao cho cuộc chiến tranh không lan rộng”, nhưng cả thế giới đều lo ngại về khả năng ngược lại và băn khoăn cho sức chịu đựng của nhân dân Việt Nam.
Trước tình hình cả nước có chiến tranh, Đảng Lao Động Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) của BCHTW (khóa 3) ngày 23/2/1965 đã xác định: Cả nước đang có chiến tranh với đế quốc Mỹ…, “Cả nước đều phải tham gia đánh giặc, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn”, “Sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta là giải phóng cả nước và thống nhất tổ quốc đồng thời làm nghĩa quốc tế rất lớn: đánh bại cuộc thí nghiệm có tính chất quốc tế của bọn đế quốc do Mỹ cầm đầu”.
Mặt Trận Giải Phóng trong tuyên bố ngày 22/3/1965 đưa ra lập trường 5 điểm nói rõ Mỹ là kẻ gây chiến, là kẻ thù không đội trời chung của nhân dân Việt Nam, vì thế toàn dân vũ trang quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ và bọn Việt gian bán nước.
Ngày 31/3/1965, phong trào thi đua đặc biệt được phát động mang tên “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Nhân ngày kỷ niệm Hiệp định đình chiến Genève (ngày 20/7/1965) Chủ tịch Hồ CHí Minh kêu gọi: “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng… kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn.”
Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân từ Bắc chí Nam chống Mỹ cứu nước với quyết tâm sắt đá: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hợn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
Cả dân tộc bước vào trận chiến đấu vì độc lập tự do, đó là hình ảnh rõ nét nhất về Việt Nam từ năm 1965, ở miền Nam những trận chiến đấu đầu tiên chống xâm lược Mỹ diễn ra khá dồn dập trong 6 tháng cuối năm 1965.
Ngày 26/5/1965, Quân giải phóng miền Nam tập kích diêt gọn 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ tại Núi Thành (Quảng Ngãi).
Ngày 18/8/1965, quân dân miền Nam bẻ gãy cuộc càn và loại khỏi vòng chiến đấu 900 lính thủy đánh bộ Mỹ ở Vạn Tường (Quảng Ngãi).
Từ ngày 14/11 đến 19/11/1965 trong chiến dịch Plây-me ta đã diệt 1.700 quân Mỹ thuộc lữa đoàn 3 sư đoàn không vận số 1 của chúng.
Trước đó, ngày 18/11/1965, Quân giải phóng miền Đông Nam Bộ tập kích diệt 300 tên Mỹ của Lữ dù 173 tại Đất Cuốc (Biên Hòa); ngày 13/11/1965 trong chiến dịch Bầu Bàng lại có 2.000 lính Mỹ thuộc Lữ đoàn 2 sư đoàn Anh Cả Đỏ bị tiêu diệt…
Khắp các chiến trường ở miền Nam, bước chân quân xâm lược đi đến đâu là ở đó chúng bị đánh đòn phủ đầu và bị tổn hại lớn. Chưa một cuộc chiến tranh nào mà quân đội Mỹ ngay từ những phút nhập cuộc đã phải gửi về nước nhiều bao đựng xác chết như lần này ở Việt Nam. Đối với Quân giải phóng miền Nam, thực tế chiến đấu thắng lợi đã khẳng định rằng ta hoàn toàn có khả năng tiêu diệt những đơn vị tinh nhuệ nhất của viễn chinh Mỹ, tiêu diệt những đơn vị ngày càng lớn của quân chủ lực ngụy. Kinh nghiệm chiến trường như Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nói: “Cứ đánh Mỹ ta sẽ tìm ra cách đánh thắng Mỹ”, khẩu hiệu hành động cho quân dân ta ở miền Nam lúc này là: “Tìm Mỹ mà diệt”, “Gặp Mỹ là đánh”, “Bám thắt lưng Mỹ mà đánh”… Danh hiệu “Dũng sỹ diệt Mỹ” cho cá nhân và “Đơn vị anh hùng diệt Mỹ” cho tập thể từ sau ngày 20/11/1965 trở thành mục tiêu phấn đấu trong các trận đánh của quân dân miền Nam.
Trong khi đó ở miền Bắc, lực lượng phòng không nhân dân Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tuy mới được xây dựng nhưng đã chống trả quyết liệt với không quân hiện đại của Mỹ ở Hồ Xá, Cồn Cỏ (Vĩnh Linh), Đồng Hới (Quảng Bình), Bạch Long Vĩ (Hải Phòng)… Tháng 4/1965 mặt trận cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa) trở thành trọng điểm của địch trong kế hoạch phá sập hệ thống cầu phà phía Nam Hà Nội trước mùa mưa.
Đến cuối năm 1965, những trận đánh giặc trời và giặc biển ở miền Bắc diễn ra cả ban ngày lẫn ban đêm. Nhưng quân dân miền Bắc có thể chiến đấu chống Mỹ bất cứ lúc nào, bởi không chừa một góc lãnh thổ nào lại không hình thành trận địa. Giặc Mỹ đã gây ra nhiều thiệt hại về người và của cho nhân dân miền Bắc, nhưng chúng không thực hiện được những mục tiêu căn bản là ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam. Năm 1965 chi viện ấy so với năm 1964 tăng 3 lần về lực lượng và tăng 5 lần về vũ khí đạn dược.
Cuộc chiến tranh phá hoại của chúng còn chốc lấy những hậu quả nặng nề, bởi những tổn hại của lực lượng không quân và hải quân Mỹ trên vùng trời và vùng biển miền Bắc. Trong năm 1965 Mỹ sử dụng 55.000 phí xuất đánh ra Bắc, trong đó chúng bị bắn rơi 834 máy bay các loại. Ba ngày 7/2, 8/2 và 11/2/1965 có 22 máy bay bị bắn rơi. Ngày 26/3/1965 có 8 máy bay bị bắn rơi ở Hà Tĩnh và Bạch Long Vĩ. Ngày 3/4/1965 lại thêm 8 chiếc nữa bỏ xác trong trận đánh ở Hàm Rồng. Chỉ 4 phút chiến đấu đầu tiên tại Hàm Rồng, biên đội không quân Trần Hanh đã bắn rơi 2 máy bay Thần Sấm F.105D của Mỹ. Ngày 24/7/1965 Bộ đội tên lửa ra quân lần đầu và bắn rơi 1 máy bay Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng. Khắp miền Bắc đâu đâu cũng thấy trận địa và sự sẵn sàng, người ta thi đua nhau “Bắn trúng từ loạt đạn đầu”, “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Bám thắt lưng địch mà đánh”… Cả miền Bắc bước vào chiến tranh tràn đầy niềm tin và hy vọng.
Vào những ngày cuối của năm đầu cả nước đánh Mỹ, từ 21 - 26/12/1965, Đảng Lao Động Việt Nam mở Hội nghị BCHTW lần thứ 12 bàn về tình hình và nhiệm vụ mới, “Nêu cao hơn nữa quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược bất kể trong tình huống nào”.
Vừa khi triển khai song lực lượng và bố trí chiến trường ở miền Nam với tổng quân số cã Mỹ - ngụy - chư hầu là 726.772 quân, Mỹ bắt đầu chiến lược phản công vào mùa khô 1965 - 1966 nhằm “tìm diệt” Quân giải phóng miền Nam tại hai chiến trường trọng điềm là khu V và miền Đông Nam Bộ. Chúng đưa ra kế hoạch 5 mục tiêu để triển khai trên 5 hướng là: Nam Quảng Ngãi, Bắc Bình Định, Nam Phú Yên, Đông Sài Gòn, Tây Bắc Sài Gòn.
Dùng lực lượng lớn phản công trên các hướng chính và cho từng bộ phận hành quân càn quét bình định trên các địa bàn còn lại, Mỹ nguỵ hy vọng chúng sẽ “tìm diệt” Quân giải phóng miền Nam, trả thù cho những đòn bị đánh phủ đầu vừa qua, giành lại quyền chủ động trên chiến trường, giải tỏa áp lực, củng cố bình định, ổn định lại trật tự cho chế độ thực dân mới.
Ngày 8/1/1966 cuộc phản công đã bắt đầu ở miền Đông Nam Bộ với những trận đánh vào Bàu Trai (Hậu Nghĩa), Củ Chi, Bến Cát. Ở khu V, cuộc phản công của địch được bắt đầu bằng trận đánh vào Nam Phú Yên từ 19/1/1966. Trong cả mùa khô 1965 - 1966, chúng đã tiến hành 450 cuộc hành quân, trong đó có 20 cuộc hành quân quy mô lớn. Từ cuối tháng 1/1966 đến tháng 3/1966, chiến sự càng sôi động bởi những hoạt động càn quét của địch có lực lượng đông, đánh dài ngày trên diện rộng nhưng có trọng điểm.
Địch đã dự tính đến sức chống đỡ của quân dân miền Nam nhưng vẫn không ngờ ở Việt Nam lại có kiều chiến tranh “tổng hợp” như chúng đã gặp trong những tháng năm này. Đó là loại dụng binh có cả lực lượng quần chúng đấu tranh trực diện với binh lính và chính quyền ngụy, còn đối phương chủ yếu thì không bao giờ nhìn rõ mặt, trận mạc thì toàn là địa đạo và làng xã chiến đấu.
Thiệt hại đối với chúng cũng bị bất ngờ: chỉ 12 ngày đêm cuối tháng 1/1966 quân dân Củ Chi diệt 17.000 tên địch; chỉ hơn 5 tiếng tập kích ngày 24/2/1966 Quân Giải Phóng Miền Nam đã đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn bộ binh, 2 chi đoàn xe bọc thép, 1 sở chỉ huy lữ đoàn của Mỹ; chỉ 5 ngày đánh nhỏ bắn tỉa, bộ đội địa phương và du kích An Lão diệt 200 tên địch, bắn hỏng 4 máy bay của chúng. Từ 28/1 đến 7/3/1966 quân dân Bình Định đã đập tan cuộc phản công lớn nhất mùa khô 1965 - 1966 của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 8.000 quân, bắn rơi và phá hủy 236 máy bay các loại.
Ngày 30/3/1966 đại sứ Cabogd Logd loan báo về Mỹ “Cuộc tấn công đã không làm hao tổn được Việt Cộng, không tìm diệt được một đơn vị chính qui lớn nào của Việt Cộng, không ngăn được du kích phát triển. Mỹ vẫn bị động, quân đội Sài Gòn giảm chất lượng nhanh chóng”. Đến giữa năm 1966, địch phải kết thúc cuộc phản công chiến lược. Có gần 70.000 quân Mỹ - chư hầu bị loại khỏi vòng chiến đấu, trong đó có 30.000 quân viễn ching, đánh thiệt hại 15 tiểu đoàn địch.
Thắng trong hiệp đầu của chiến tranh Cục Bộ (mùa khô 1965 - 1966), quân dân miền Nam càng hiểu rõ địch hơn, biết rõ khả năng chiến đấu của mình hơn, đã tìm được phương thức đánh Mỹ và xác định được quyết tâm thắng Mỹ. Đại hội dũng sĩ diệt Mỹ ở Củ Chi ngày 7/2/1966 đã nêu lên 10 kinh nghiệm của chiến tranh du kích. Quân ủy Trung ương lúc đó cũng kịp thời đề ra 6 phương thức tác chiến chiến lược của chiến tranh nhân dân. Đó là những cơ sở thực tiễn hết sức quý báu để quân dân miền Nam tiếp tục tiến lên giữ vững thế chiến lược tiến công cách mạng.
Tháng 6/1966 lần đầu tiên trong giai đoạn này ta mở chiến dịch ở đường 9 - Bắc Quảng Trị (Mặt trận B5), nhằm buộc địch phải phân tác lực lượng, thực hiện tiêu diệt chiến lược đối với quân cơ động chiến lược của địch bằng lực lượng chủ lực mạnh của ta ở miền Bắc.
Cùng lúc ấy, việc tăng cường lực lượng xây dựng nhanh đội quân chiến đấu cho cách mạng ở miền Nam được chú trọng. Hàng chục vạn thanh niên miền Bắc và từ các vùng giải phóng miền Nam đã gia nhập bộ đội. Số quân chủ lực của ta ở miền Nam đến cuối năm 1966 đã lên tới 230.000 người, gồm 8 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn pháo, một số trung đoàn và tiểu đoàn độc lập, tổng số tiểu đoàn cơ động của ta là 98 tiểu đoàn. Một số vũ khí trang bị mới của ta cũng bắt đầu đưa vào chiến trường như ĐKB, A12… Tổ chức chiến trường được củng cố lại như: Thành lập Quân khu Trị Thiên (B4), thành lập Đặc khu quân sự rừng Sát (Đoàn 10)…
Ở miền Bắc năm 1966 địch tiếp tục chiến tranh phá hoại với nhiều thủ đọan mới. Chúng tăng cường khống chế sân bay của ta, dùng máy bay tiêm kích bảo vệ máy bay cường kích khi ném bom, gây nhiễu ra đa và tên lửa, bắn phá từ xa vào bờ biển vào ban đêm… Nhưng theo cách của Quân Giải Phóng Miền Nam “Bám thắt lưng địch mà đánh”, quân dân miền Bắc cũng bám sát bọn giặc trời và giặc biển để tiềm ra cách đánh chúng.
Tháng 6/1966 các “Sư đoàn phòng không cơ động bảo vệ yếu địa” được thành lập để tổ chức chiến đấu theo lối hợp đồng binh chủng. Các cơ quan nghiên cứu trong ngoài quân đội đều tập trung nghiên cứu chiến lược chiến thuật đánh Mỹ. Hàng ngàn tổ đội săn máy bay với hàng triệu tay súng dân quân tự vệ miền Bắc đã đan thành lưới lửa tầm thấp đón đánh địch. Từ tháng 5/1966 đến tháng 12/1966 bình quân mỗi tháng có 86 máy bay Mỹ bỏ xác ở miền Bắc. Tháng 7/1966 và tháng 8/1966 có tới 232 máy bay địch rơi. Ngày 2/12/1966 Mỹ tập trung đánh quy mô lớn nhất ở miền Bắc, cũng là ngày quân dân miền Bắc lập kỷ lục về bắt giặc lái Mỹ với 7 tên trong 1 ngày. Đến cuối năm 1966 miền Bắc đã bắn trúng 1.620 máy bay hiện đại của không lực Hoa Kỳ.
Trong quá trình chiến đấu, việc tổ chức cuộc sống thời chiến cho nhân dân miền Bắc cũng là một thành công không nhỏ. Công tác phòng tránh, sơ tán được triển khai khá sớm. Chỉ một thời gian ngắn, gần 33.000.000 hố cá nhân, 7.000.000 hầm tập thể, hàng chục vạn công sự được đào đắp. Việc bảo vệ Hà Nội - trái tim của cả nước cũng là một trọng điểm, với việc tập trung lực lượng khá lớn để đánh lũ giặc trời, kiên quyết không cho chúng hoành hành khi xâm phạm bầu trời Thủ đô.
Vừa chiến đấu vừa sản xuất, quân dân miền Bắc vừa tích cực chi viện cho miền Nam ruột thịt, điều đó đã trở thành nếp nghĩ và việc làm thường xuyên cho từng con người, từng địa phương. Lúc có báo động máy bay tàu chiến địch đến, cả miền Bắc thành chiến trường. Giữa 2 trận đánh lại thấy miền Bắc dịu dàng, lao động tảo tần, chắt chiu. Phố xá và đường làng cũng như trên các quốc lộ đâu đâu cũng có dòng chữ xếp bằng vỏ bom Mỹ hoặc viết bằng phấn trắng học trò: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Cả miền Bắc đang cùng miền Nam bước vào những năm tháng kháng chiến hào hùng chống Mỹ cứu nước.
Từ cuối năm 1966, Mỹ rất quyết tâm cùng phe hiếu chiến leo thang chiến tranh Việt Nam. Khi có tổng số quân các loại là 889.000 (trong đó có 582.000 chủ lực), Mỹ liền huy động 20 sư đoàn, 10 lữ đoàn, trung đoàn cùng 4.000 máy bay; 2.500 xe tăng, xe bọc thép; 2.540 khẩu pháo; 500 tàu xuồng chiến đấu để mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai tập trung chủ yếu vào chiến trường miền Đông Nam Bộ - nơi mà chúng hy vọng sẽ tìm diệt quân giải phóng và các cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến miền Nam ở ngay căn cứ địa cách mạng lớn nhất này.
Từ tháng 9/1966 đến tháng 4/1967, Mỹ - nguỵ - chư hầu đã mở 895 cuộc hành quân càn quét tìm diệt (hơn gấp đôi số cuộc hànhq uân trong mùa khô lần trước), trong đó lớn nhất là các cuộc hành quân Attleboro (từ 14/9 đến 25/11/1966), Cedarsall (từ 8/1 đến 21/1/1967), Junction City (từ 22/2 đến 14/5/1967)… Điển hình là cuộc hành quân Junction City có tới 45.000 quân tham chiến, trong hơn 50 ngày chúng đánh đi đánh lại vào các khu Dương Minh Châu (Bắc tây Ninh) và khu tam giác sắt Củ Chi - Bến Cát - Bến Sỏi.
Khác với lần phản công trước, mùa khô năm 1966 - 1967 Mỹ - ngụy còn coi chương trình bình định cũng là một “gọng kìm” chiến luợc thứ hai phối hợp chặt chẽ với “gọng kìm” tìm diệt. Những chương trình bình định có tên thật hấp dẫn được áp dụng như: “Phát triển cách mạng”, “Tái thiết nông thôn”, “Chiến tranh chống nghèo đói và dốt nát”, “Ấp tân sinh”, “Ấp đời mới”… Đó là thực sự là cuộc chiến giành dân chiếm đất không kém phần quyết liệt. Ở tỉnh Long An mùa khô năm 1966 - 1967, bình quân mỗi người dân trong vùng trọng điểm bình định này phải hứng chị một quả bom Mỹ, trong đó quận Đức Huệ bình quân mỗi người chịu 1 tấn bom, xã Bình Quang của quận này có bình quân là 3 tấn bom/1 đầu người.
Song tất cả những cố gắng tìm diệt và bình định của Mỹ - nguỵ trong mùa khô năm 1966 - 1967 vẫn thất bại ê chề. Mặt trận giải phóng đã tổng kết, trong Đông Xuân năm 1966 - 1967 ta loại khỏi vòng chiến đấu 175.000 tên địch, trong đó có 7.000 quân Mỹ; bắn cháy, bắn hỏng, bắn rơi, bắn chìm, phá hủy 1.800 máy bay, 2.000 xe quân sự các loại, 100 tàu xuồng, 340 khẩu pháo… Chính quyền ngụy Sài Gòn thú nhận chỉ đạt được 13% kế hoạch bình định đề ra. Chính phủ Mỹ thừa nhận được báo cáo đánh giá: “Kết quả bình định có lẽ đã thụt lùi so với cách đây 2 hay 4 năm”. Khi mùa mưa năm 1967 ập đến thì cả đại quân Mỹ - ngụy - chư hầu không ai không nghĩ đến sự ảm đạm của mùa mưa năm 1966 và họ hết sức ngán ngẩm với chiến lược: “tìm diệt” của tướng Wesmoreland, dấu hiệu thất bại và sa lầy của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam đã rõ ràng.
Suốt mùa mưa năm 1967 quân giải phóng miền Nam tiếp tục mở hàng loạt chiến dịch tiến công địch ở miền Đông Nam Bộ, khu V, Tây Nguyên…, buộc địch đối phó hết sức lúng túng bị động. Cuối cùng chúng phải hình thành những tuyến phòng ngự chiến lược trên 2 hướng quan trọng nhất là Trị Thiên và Đông Nam Bộ để giữ miền Nam và Sài Gòn được an toàn hơn.
Trong khi ấy chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc dù đã cố gắng hết mức, nhưng vẫn không đạt được mục tiêu chiến lược đề ra. Địch dùng pháo ở bờ Nam sông Bến Hải bắn ra bờ Bắc, mở chiến dịch “Rồng Biển” với 60.000 thủy lôi phong tỏa các cửa sông biển miền Bắc, dùng pháo các hạm đội khống chế vùng ven biển khu IV cũ, sử dụng máy bay B52 rải thảm khu phi quân sự, số lượng máy bay xuất kích đánh phá miền Bắc tăng từ 6.000 lần chiếc/ tháng. Đầu năm 1966 lên 12.000 lần chiếc/ tháng cuối năm 1966; khối lượng bom địch ném xuống miền Bắc năm 1967 tăng gấp 7 lần so với năm 1965, làm cho 25/30 thành phố, thị xã của miền Bắc…
Để bổ sung cho chiến tranh phá hoại, từ đầu năm 1967 Mỹ còn cho triển khai “kế hoạch Dye Mark” thiết lập hàng rào điện tử dọch theo tuyến với chiều dài 35km. Đến cuối năm 1967 đã có 12km “hàng rào điện tử Mc Namara” được hình thành.
Song với cuộc chiến đấu của quân dân Việt Nam ở cả 2 miền Nam - Bắc vẫn phối hợp nhịp nhàng. Mỹ sử dụng “Chung một biểu đồ” cho chiến tranh cả ở miền Nam lẫn miền Bắc thì miền Bắc và miền Nam cũng chung một mục tiêu chống Mỹ bảo vệ miền Bắc giải phóng miền Nam - miền Bắc gọi thì miền Nam trả lời, miền Nam gọi thì miền Bắc sẵn sàng chia lửa, “Nam - Bắc thi đua đánh giặc Mỹ”. Đã đến lúc chiến tranh nhân dân địa phương cũng đánh được chiến tranh phá hoại. Lão dân quân Hoằng Hóa (Thanh Hóa) 2 lần bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng trường. Nữ dân quân Lệ Thủy (Quảng Bình) dùng pháo bộ binh bắn cháy tàu chiến Mỹ… Ở miền Bắc những năm gian khổ ác liệt ấy, nếp sống thời chiến tranh đã trở thành thói quen, lao động khẩn trương và chiến đấu bình tĩnh. Chiếc mũ rơm đã trở nên duyên dáng trên đầu em học sinh đến trường. Ánh đèn dưới mái nhà hạ thổ không còn tạo cảm giác tù mù nặng nề trong ngày làm việc, học tập như hồi chiến tranh nữa. Chợ Hoàng Hôn và chợ Tảng Sáng vẫn đủ thực phẩm tươi sống. Hệ thống giao thông mạng nhện đêm đêm vẫn ì ầm tiếng xe vận chuyển hàng hóa cho các nhà máy, xí nghiệp, nông trường. Đường mòn Hồ Chí Minh vẫn nối dài luồng hàng và quân đi B theo khẩu hiệu “Giặc phá ta sửa ta đi, mở đường mà tiến”.
Cả miền Bắc hậu phương đâu đâu cũng nêu cao quyết tâm “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”… Báo cáo của CIA ngày 12/5/1967 đã nói rõ ràng rằng chiến tranh phá hoại “Đã không làm giảm khả năng vật chất của đối phương trong việc tiếp tục cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam”. So với năm 1965, số hàng của miền Bắc chi viện cho miền Nam trong 6 tháng cuối năm 1967 tăng gấp 6 lần; quân số đưa vào chiến trường trung bình từ 5.000 - 7.000 người/ tháng, riêng tháng 1/1968 quân số đi B tăng lên 22.000 người.
Khi người Việt Nam đang tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện như thế thì người Mỹ lại bị cuộc chiến của họ ở Việt Nam chia xẻ đất nước. Chi phí cho chiến tranh Việt Nam năm 1967 gấp 1,5 lần cả 3 năm chiến Triều Tiên. Sự tiêu tốn sức người, sức của của một cuộc chiến tranh không thấy tiền đồ thắng lợi đã làm dấy lên làn sóng công phẫn của nhân dân. Cuộc biểu tình ngày 15/4/1967 của hơn 30.000 người làm náo động Washington, mở đầu cuộc chiến tranh ngay trong lòng nước Mỹ.
Nhưng chính quyền Johnson và phái hiếu chiến vẫn hy vọng rằng, chỉ có thắng lợi về quân sự với lực lượng mạnh ở miền Nam mới xoay chuyển được tình hình ấy. Đến cuối năm 1967, đầu năm 1968 quân Mỹ ở chiến trường miền Nam vẫn tăng hơn 500.000 người. Các đơn vị quân viễn chinh Mỹ như sư đoàn dù 101, sư đoàn bộ binh 25, sư đoàn kỵ binh không vận, lữ dù 173… đã tập trung về miền Đông Nam Bộ, chúng đang chuẩn bị cuộc phản công chiến lược lần thứ 3.
2. Tổng tấn công Mậu Thân năm 1968 - Bước ngoặc thứ hai của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Cùng thời gian này tại miền Nam Việt Nam cũng đang diễn ra quá trình chuẩn bị khác của lực lượng cách mạng nhằm làm cho Mỹ sẽ chịu một thất bại lớn hơn về quân sự đồng thời để tranh thủ thời điểm chính trị của nước Mỹ khi cuộc bầu cử tổng thống sắp diễn ra.
Đảng ta tại Hội nghị Bộ Chính trị họp (tháng 12/1967), sau đó tại Hội nghị BCHTW lần thứ 14 (tháng 1/1968) chủ trương: Tập trung mở những cuộc tấn công quy mô vào tất cả các đô thị, các căn cứ quân sự, kho tàng và các cơ quan của chế độ ngụy miền Nam buộc Mỹ phải nhượng bộ xuống thang chiến tranh. “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàng Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khời nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.
Ở miền Nam đến đầu năm 1968 quân giải phóng miền Nam đã có 7 sư đoàn, 15 trung đoàn, 50 tiểu đoàn độc lập; lực lượng vũ trang địa phương cũng có 55 tiểu đoàn, 17 đại đội, 144 trung đội độc lập; dân quân du kích có 300.000 người. Toàn bộ lực lượng ấy vừa bẻ gãy hai cuộc phản công chiến lược mủa khô của liên quânMỹ - ngụy - chư hầu, hiện đã có sẵn thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và đang đứng chân ở các vị trí chiến lược quan trọng, hừng hực khí thế chiến thắng. Thực lực và khả năng ấy là cơ sở của thế chiến lược tiến công cách mạng trong cuộc tổng công kích sắp tới.
Mặt khác, sau 9 năm tiến hành con đường cách mạng bạo lực, chiến tranh cách mạng miền Nam vẫn còn rất nhiều hạn chế cả về thực lực lẫn về phương thức và kỹ chiến thuật chiến tranh. Khi đạo quân địch còn hơn 1 triệu người gồn 486.000 binh lính Mỹ, 650.000 binh lính ngụy, 57.800 các nước chư hầu, hệ thống thiết bị chiến trường của chúng còn gần như nguyên vẹn, việc tiến công trên quy mô lớn nhất, nhằm vào chổ địch mạnh nhất đòi hỏi ta phải có sự tính toán có thời gian, không thể vội vàng. Mặc dù trong chỉ đạo, Đảng đã đề ra 3 dự kiến phát triển của tình hình nhưng mọi sự chuẩn bị lâu dài và trực tiếp cho trận đánh này rõ ràng còn chưa đầy đủ.
Đêm 20/1/1968 tiếng súng tấn công của quân giải phóng đã nổ đều trên toàn tuyến đường 9 - Khe Sanh (Quảng Trị). Quân Mỹ ở căn cứ Tà Cơn bỗng nhiên bị rơi vào thế giống như quân Pháp ở Điện Biên Phủ hồi năm 1954, thật là kinh hoàng và ác liệt. Tuy vậy đó chỉ là trận nghi binh rất thành công để giữ yếu tố bất ngờ cho hướng trọng điểm.
Đêm 30 rạng 31/1/1968 cuộc tổng tấn công của quân giải phóng đã nổ ra trên khắp miền Nam, trọng điểm là các đô thị, trong đó Sài Gòn là mục tiêu quan trọng nhất. Tại đây, cuộc tiến công đồng loạt của cuộc vũ trang cách mạng ngay từ phút đầu đã gây cho địch nhiều bất ngờ. Đặc công và biệt động, bộ binh và các lực lượng vũ trang địa phương đã đánh trúng vào tất cả các căn cứ quân sự, sân bay, kho tàng, trạm thông tin, đài phát thanh, các cơ quan đầu não của chế độ ngụy miền Nam, thậm chí chiến sự xảy ra ngay trong Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Cờ Mặt Trận Giải Phóng tung bay ở nhiều nơi trong thành phố cùng lúc đó các thành phố, tỉnh lỵ, quận lỵ, các khu vực có Mỹ - ngụy chiếm đóng đều bị tấn công. Chiến tranh cách mạng thực sự tràn ngập vào các sào huyệt của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam.
Sau đợt tấn công đầu tiên trong ngày Tết Nguyên Đán, các đợt tấn công tháng 5/1968 và tháng 9/1968 không đạt được mục tiêu đã đề ra nhưng nó vẫn làm cho Mỹ - ngụy - chư hầu không thể chủ động đối phó với tình hình và chúng tiếp tục bị tổn thất sinh lực. Trong cuộc tổng tấn công này, ta cũng bị tổn thất với 111.306 cán bộ chiến sỹ hy sinh và bị thương.
Cuộc tổng tấn công Mậu Thân năm 1968 đã làm Mỹ choáng váng. Ngày 1/3/1968 Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc Manara, một trong các kiến trúc sư của chiến lược chiến tranh Việt Nam thời kỳ này đã phải từ chức vì không tìm thấy lối ra cho cuộc chiến. Ngày 22/3/1968 tướng Westmoreland bị cách chức và triệu hồi về nước. Ngày 25/3/1968 Mỹ đã triệu tập Hội đồng an ninh quốc gia xem xét lại toàn bộ cuộc chiến tranh Việt Nam theo đó hàng loạt quyết định xuống thang chiến tranh đã nhanh chóng được triển khai như:
* Tăng cường quân ngụy về quân số và vũ khí, nâng cao hiệu lực chiến đấu của chúng, bảo đảm ngăn chặn và đẩy lùi các cuộc tấn công của đối phương.
* Ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra.
* Tăng cường 13.500 quân Mỹ vào miền Nam. Gọi 48.500 quân trù bị Mỹ.
* Bỏ chiến lược quân sự “Tìm và diệt” thay bằng chiến lược “Quét và giữ”. Từng bước thực hiện “Phi Mỹ hóa chiến tranh”, giảm dần sự dính líu trên bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Ngày 31/3/1968 Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố trên truyền hình toàn Liên bang những quyết định quan trọng bậc nhất của nước Mỹ và của vai trò tổng thống của ông. Đó là những vấn đề về việc ngừng ném bom ở miền Bắc Việt Nam sẽ cử đại biểu đi tìm kiến hòa bình thương lượng với Hà Nội, Mỹ chuyển sang thực hiện: “Phi Mỹ hóa chiến tranh”, quân Sài Gòn sẽ thay quân Mỹ trên toàn chiến trường, sẽ không ra ứng cử tổng thống Mỹ trong nhiệm kỳ tiếp theo.
Nhưng đòn đánh bất ngờ dịp Tết Mậu Thân làm cho quân số địch thương vong quá lớn, thiệt hại vật chất, vật tư chiến tranh rất nặng nề. Chỉ mấy tháng đầu năm 1968 có 150.000 quân bị loại khỏi vòng chiến đấu, 34% dự trữ chiến tranh bị phá hủy. Địch thú nhận trong 6 tháng đầu năm 1968 có 101.400 binh lính chết; bị thương hay mất tích, trong đó có 50.387 lính Mỹ. Tính đến cuối năm 1968 ta loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 tên địch, phá hỏng 13.000 xe quân sự, 1.000 tàu xuồng chiến đấu; 700 kho đạn; 100 khẩu pháo các loại; diệt và bức hàng, bức rút 15.000 đồn bót, chi khu.
Như vậy, đối chiếu những quyết định của tổng thống Johnson tháng 3/1968 với những quyết định của ông tháng 3/1965, thì cơ bản là ý chí xâm lược của Mỹ đã bị lung lay, đường lối chiến lược chiến tranh một lần nữa bị đảo lộn, chiến tranh cục bộ đến đây đã kết thúc thất bại.
3. Việt Nam hóa chiến tranh và Liên minh 3 nước Đông Dương chống kẻ thù chung
Nửa cuối năm 1968 nước Mỹ diễn ra sự chuyển giao quyền lực giữa 2 Đảng Dân Chủ và Cộng Hòa, giữa hai thế lực hiếu chiến mà tổng thống đương nhiệm Johnson và tân tổng thống Nixơn là những người đại diện. Đó là lúc nước Mỹ đang khủng hoảng về tinh thần, mắc kẹt trong chiến tranh, cấu xé và chia rẽ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã gây ra căng thẳng gay gắt với nước Mỹ không riêng về mặt kinh tế, quân sự mà cản về xã hội cũng như chính trị.
Trong khi ấy ở chiến trường miền Nam diễn ra sự đảo thế về quân sự giữa 2 bên chiến tranh. Kẻ thù đã lợi dụng những sai lầm, sở hở của ta trong và sau cuộc Tổng tấn công Mậu Thân để phản kích điên cuồng, chiếm đóng nhiều vị trí của ta ở vùng nông thôn. Chương trình bình định cấp tốc triển khai ồ ạt, địch nhanh chóng có trong tay một hệ thống đồn chốt dày đặc khắp miền Nam làm cơ sở ban đầu cho việc thực hiện những âm mưu bình định sắp tới.
Việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cho cách mạng ở miền Nam đến cuối năm 1968 và đầu năm 1969 được triển khai chậm cHạp. Trong khi ấy Mỹ đã chuẩn bị xong chương trình Việt Nam hóa chiến tranh gồm 3 giai đoạn:
* Giai đoạn 1: Chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho ngụy quân, rút quân chiến đấu trên bộ của Mỹ làm suy yếu lực lượng cách mạng Việt Nam.
* Giai đoạn 2: Chuyển giao nhiệm vụ trên không cho ngụy, làm cho quân ngụy đủ sức đương đầu với lực lượng cách mạng miền Nam, giữ vững được Việt Nam và Đông Dương.
* Giai đoạn 3: Hoàn thành và củng cố “Việt Nam hóa chiến tranh”, lực lượng cách mạng miền Nam suy yếu đi và chiến tranh sẽ tàn lụi.
Giai đọan 1 là giai đoạn khó khăn nhất, cơ bản nhất và có ý nghĩa quyết định. Bởi vì như Nixơn đã trù liệu: “Nếu việc rút quân Mỹ là phản ánh kết quả của Việt Nam hóa chiến tranh thì bình định là mục đích chính của Việt Nam hóa chiến tranh”. Để thực hiện mục tiêu đó, Mỹ ngụy dự tính cần có 3 bước trong vòng 3 năm (từ tháng 6/1969 đến tháng 6/1972):
* Bước 1: Bình định vùng nông dân quan trọng, đẩy chủ lực cách mạng ra xa các đô thị, làm giảm sự tập trung của Quân giải phóng và tăng cường khả năng đối phó của quân ngụy, Mỹ bắt đầu rút quân.
* Bước 2: Bình định tất cả vùng nông thôn, giảm tối đa hoạt động của lực lượng vũ trang cách mạng, nguỵ được tăng cường và mạnh lên đủ sức đối phó với tình hình, Mỹ rút được đại bộ phận lực lượng chiến đấu.
* Bước 3: Hoàn thành bình định toàn miền Nam, lực lượng cách mạng hoạt động không đáng kể ở nội địa, ngụy đảm đương được vai trò của mình, Mỹ rút hết lực lượng chiến đấu ra khỏi miền Nam.
Như vậy, với Việt Nam hóa chiến tranh, quân Mỹ vẫn còn vai trò quan trọng ở chiến trường, là chỗ dựa chủ yếu của quân ngụy, nhưng quân ngụy sẽ phải thay thế và dần dần trở thành lực lượng chủ yếu của chiến tranh. Bình định là một biện pháp chiến lược, là nội dung hoạt động cụ thể của chiến tranh Việt Nam hóa. Mỹ tập trung xây dựng cho ngụy có: nguỵ quân mạnh - ngụy quyền mạnh - bộ máy cảnh sát mạnh - nền kinh tế mạnh, đó là những đảm bảo thành công của Việt Nam hóa chiến tranh; việc mở rộng chương trình bình định là “Chìa khóa thắng lợi”, là con đường dẫn đến những kết quả ấy.
Lúc đầu thành công lớn nhất của Tổng thống Nixơn và ê-kíp của ông là điều chỉnh kịp thời chủ trương vội vàng của Tổng thống Johnson “Phi Mỹ hóa chiến tranh”, thành đường lối “Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh”. Việc rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam sẽ phụ thuộc vào khả năng tự tiến hành chiến tranh của ngụy Nam Việt Nam. Thực tế này cũng góp phần hình thành lên những nguyên tắc căn bản cho một học thuyết mới mang tên “Học thuyết Nixơn”, đó là:
* Ưu tiên tối đa cho việc đề cao sức mạnh của Mỹ.
* Các đồng minh san sẻ trách nhiệm với Mỹ.
* Mỹ sẵn sàng thương lượng hòa bình bất cứ ở đâu.
Đó cũng là những nội dung cơ bản của “Chiến lược toàn cầu” mới của Mỹ trong những năm kể từ 1969. Nói cách khác, miền Nam Việt Nam là nơi thí điểm đầu tiên của chiến lược toàn cầu mới, Việt Nam hóa chiến tranh là Học thuyết Nixơn trong hành động.
Trong thực tế việc rút quân viễn chinh Mỹ ra khỏi Việt Nam là xu thế không thể cưỡng lại được nữa và chính quyền Mỹ buộc phải thực hiện từ tháng 7/1969 (sớm hơn dự kiến trong bước 1 đến tháng 6/1970). Để không gây nên ảnh hưởng đột ngột cho nguỵ, đồng thời thực hiện được việt Nam hóa chiến tranh, Mỹ dùng lối rút quân nhỏ giọt kết hợp với việc xây dựng nhanh cho quân ngụy đủ mạnh thay thế vào các vị trí của Mỹ trên chiến trường miền Nam. Gần 4 năm (từ tháng 7/1969 đến tháng 3/1973) mới triệt thoái xong hơn nửa triệu quân, thời gian ấy đủ để tăng cường đội quân ngụy Nam Việt Nam từ 700.000 (1969) lên 1.100.000 (1971); lực lượng bán vũ trang từ 1.500.000 người lên 2.000.000 người; vũ khí trang bị vào loại mạnh và hiện đại nhất ở Đông Nam Á với hơn 1.100 máy bay chiến đấu các loại; gần 2.000 xe tăng, xe thiết giáp…
Tiếp tục chiến tranh bằng đội quân hùng hậu ấy, Mỹ - ngụy ở miền Nam vẫn cần có 2 yếu tố căn bản tối cần thiết, nền kinh tế ổn định và sự ủng hộ của dân chúng. Viện trợ của Mỹ do đó vẫn giữ vị trí quan trọng số 1 nhưng quá trình này phải tạo ra khả năng tự phát triển cho nền kinh tế. Từ năm 1970 trở đi nhiều biện pháp thúc đẩy nền kinh tế phát triển được thực hiện như tiến hành cơ giới hóa nông nghiệp, tiếp tục thay đổi chính sách ruộng đất bằng “Luật người cày có ruộng”, mở rộng hoạt động công nghiệp, dịch vụ và hoạt động xuất nhập khẩu… Kết quả to lớn của những cố gắng này là miền Nam Việt Nam trở thành địa chỉ đầu tư mới của giới tư bản Mỹ và các nước, mặc dù chiến tranh vẫn tiếp diễn, gánh nặng viện trợ của Mỹ vì thế có thể giảm bớt dần.
Để có sự ủng hộ của dân chúng phải tiếp tục chính sách bình định, nhưng phải đặt chính sách này trong khuôn khổ của cuộc “Chiến tranh giành dân”, coi bình định là biện pháp then chốt của Việt Nam hóa chiến tranh. Cơ quan chỉ đạo bình định của Mỹ (MACCORSS) ra đời trên cơ sở thống nhất tư tưởng, phối hợp hành động của các cơ quan MACV, phân cục tình báo CIA, Toà đại sứ Mỹ. Cơ quan an ninh điều hợp của ngụy cũng được thành lập từ Trung ương đến các địa phương.
Trước sự phát triển phức tạp của chiến tranh từ sau Mậu Thân, quân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp bộ Đảng, phải trải qua nhiều khó khăn gian khổ và tổn thất để khắc phục những sai lầm, tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Phương hướng chiến lược của chiến tranh của ta trong giai đoạn này là “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn. Những Nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị tháng 11/1968, tháng 4/1969, Nghị quyết Hội nghị BCHTW (khóa 3) lần thứ 18, 19, 20… là những văn kiện quan trọng của Đảng chỉ đạo chiến tranh Cách mạng Việt Nam, chống Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ để giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ở miền Bắc, để kịp thời cùng miền Nam “Đánh cho Mỹ cút”, sau khi đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, miền Bắc đã tích cực chi viện toàn diện cho miền Nam. Khối lượng hàng hóa vũ khí vận chuyển đi B ngày càng nhiều. Hàng vạn Thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đã có mặt trên các tuyến vận tải chiến lược và làm đường dẫn xăng dầu từ miền Bắc vào miền Nam. Nhờ đó thực lực cách mạng miền Nam được tăng cường, sức chiến đấu của Quân giải phóng được nâng lên.
Năm 1969 mặc dù chiến trường gặp nhiều khó khăn tổn thất nhưng ta vẫn cố gắng mở các đợt tấn công Xuân và Hè. Mặt khác, vừa cố gắng duy trì hoạt động quân sự ta vừa tăng cường thực lực chính trị bằng việc thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (ngày 6/6/1969). Trong lúc đó tại Hội đàm Paris ta đưa ra “Giải pháp toàn bộ 10 điểm” về việc giải quyết hòa bình vấn đề miền Nam Việt Nam, mở đầu cho cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị. Từ đó những sáng kiến thúc đẩy đàm phán do chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Mặt trận giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời đưa ra, cùng với những hoạt động của quân dân ta trên chiến trường, trở thành những đòn tấn công phối hợp rất chặt chẽ với nhau.
Ngày 18/3/1970 Mỹ cho tiến hành cuộc đảo chính lật đổ nền trung lập của Campuchia. Sau đảo chính, Mỹ cố dự lên chế độ Lon Non làm tay sai, tàm cách mở rộng chiến tranh xâm lược sang Campuchia.
Ngày 29/4/1970 Mỹ ngụy Sài Gòn sử dụng 10.000 quân phiêu lưu đánh sang khu vực phía Đông - Bắc Campuchia, giáp với miền Đông Nam Bộ. Nhưng trong những năm 1970 - 1971, sự phối hợp chiến trường 3 nước Đông Dương đã đạt đến đỉnh cao mới.
Tại Hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương ngày 24 và 25/4/1970, Việt Nam - Lào - Campuchia đã ra tuyên bố chung có tính chất cương lĩnh đấu tranh chung và là Hiến chương về quan hệ láng giềng. Các bên cam kết hết lòng ủng hộ lẫn nhau theo yêu cầu của mỗi nước để chống kẻ thù chung giành độc lập, hòa bình, trung lập. Trên cơ sở đó, lực lượng cách mạng 3 nước hình thành một liên minh mới và phối hợp hoạt động ngày càng có hiệu quả.
Từ tháng 6/1970 quân dân miền Nam và lực lượng các mạng Campuchia đã phối hợp đánh Mỹ ngụy Sài Gòn, ngụy Phnôm Pênh, cải thiện rõ rệt tình hình ở miền Nam và Campuchia. Mỹ thú nhận chẳng những “Không tìm được bộ chỉ huy Trung ương Cục miền Nam, chỉ có một phần các kho tiếp tế của đối phương bị phá hủy, mà còn bị loại khỏi vòng chiến đấy 7.450 tên ngụy và 2.765 tên Mỹ và ngụy Phnôm Pênh thì không sao mạnh lên được.
Cuối tháng 6/1970 Quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu hủy bỏ Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, tước bỏ quyền của tổng thống Mỹ tự do leo thang mở rộng chiến tranh. Nội bộ nước Mỹ tiếp tục bị chia rẽ, làn sóng chống chiến tranh ngày một lan rộng, cuối cùng tổng thống Nixon buộc phải cho kết thúc cuộc chiến đấu trên bộ của Mỹ ở Campuchia.
Từ nửa cuối năm 1970 đến nửa đầu năm 1971 cuộc đọ sức giữa Mỹ và các lực lượng thâm Mỹ với quân dân cách mạng 3 nước Đông Dương lại chuyển trọng tâm sang khu vực Nam Lào và khu vực ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia. Địch có 280.000 quân Mỹ, 695.000 quân ngụy Sài Gòn, 120.000 ngụy Phnôm Pênh, 60.000 ngụy Viên Chăn cùng một số lính đánh thuê Thái Lan. Chúng cùng lúc mở 3 hướng tiến công chiến lược bằng 3 cuộc hành quân lớn: Lam Sơn 719, Toàn Thắng 01/71, Quang Trung 4, trong đó hành quân Lam Sơn 719 là quan trọng nhất, vì nó là thử thách quyết định của Việt Nam của Việt Nam hóa chiến tranh.
Tuy nhiên địch sẽ đương đầu với lực lượng cách mạng của cả Đông Dương với quyết tâm phải đánh thắng trận này dù có phải động viên sức người sức của và hy sinh to lớn. Lực lượng vũ trang quân đội nhân dân Vệt Nam có nhiệm vụ tập trung lực lượng, kiên quyết tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, bảo vệ bằng con đường chi viện cho các tiền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với nhân dân các nước Lào và Campuchia anh em, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mỹ và tay sai.
Cuộc chiến đấu của quân dân Đông Dương đã diễn ra vô cùng ác liệt nhưng cũng đầy những chiến công vang dội, đã đập tan mọi âm mưu thủ đọa của địch trong các cuộc hành quân, tiêu diệt nhiều sinh lực của chúng. Trên mặt trận Đường 9 - Nam Lào ta đã tiêu diệt của ngụy 23.000 tên, phá hủy bắn rơi 500 máy bay, thu gần 600 xe quân sự và 150 khẩu pháo. Cũng tại đây lực lượng tinh nhuệ nhất của quân đội Sài Gòn bị đánh bại, vai trò nòng cốt của nguỵ đồi với Việt Nam hoá chiến tranh bị giáng một đòn mạnh mẽ. Phối hợp với đường 9 Nam Lào, các mặt trận khác trên cả ba nước Đông Dương cũng hoạt động mạnh, gây cho địch nhiều tổn thất lớn cả về sinh lực và tinh thần.
Những hoạt động quân sự dồn dập đầu năm 1971 đã tạo ra cơ hội thuận lợi cho phong trào chống phá bình định nông thôn ở miền Nam Việt Nam. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long địch mở chiến dịch kéo dài hơn một năm để “Nhổ cỏ U Minh”, nhưng từ mùa mưa năm 1971 quân dân khu IX đã mở chiến dịch phản công chống bình định của địch. Trong khi đó ở Khu VIII quân dân Mỹ Tho cũng đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá các kế hoạch bình định của giặc … Số ấp địch kiểm soát năm 1971 so với năm 1970 giảm hơn 2.000 ấp, 70% trong số 117 xã được kiểm tra ở Miền Nam là có cơ sở cách mạng hoạt động. Nhìn chung theo nhận định của Trung ương cục tại Hội nghị tháng 10/1971, “Tình hình nông thôn (Nam Bộ) đã vượt qua thời kỳ khó khăn nghiêm trọng nhất”.
Kết quả đó diễn ra đồng thời với tình hình đô thị bắt đầu chuyển biến nhanh, đến giữa năm 1971 đã làm xuất hiện nhiều hình thức tổ chức công khai hợp pháp chuẩn bị đưa đấu tranh chính trị ở Miền Nam lên một cao trào mới. Sinh viên học sinh chống quân sự hoá học đường, những cuộc xuống đường của: Phong trào phụ nữ đòi quyền sống, Uỷ ban nhân dân tranh thủ hòa bình, Uỷ ban nhân dân đòi quyền sống, nghiệp đoàn 36 chợ đô thành, những cuộc tổng bãi công của 21 nghiệp đoàn chống thuế lương bổng, phong trào chống bắt thanh niên miền Nam Việt Nam đi làm bia đỡ đạn ở Lào và Campuchia… Đó là những trận đấu tranh rung chuyển phố phường và từ đó một “Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình” đã ra đời từ Sài Gòn lan nhanh khắp các thành thị miền Nam.
Thắng lợi to lớn của năm 1971 và khả năng phát triển thuận lợi của cách mạng miền Nam cho phép ta tính toán đến kế hoạch phát triển thế chiến lược tiến công tạo ra bước phát triển nhảy vọt cho cuộc kháng chiến.
4. Năm quyết định 1972 và bước ngoặt Hiệp định Paris
Đón trước thời điểm chính trị của nước Mỹ năm 1972, Đảng ta tại Hội nghị Bộ Chính trị (tháng 5/1971) đã đề ra chủ trương “Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường… giành thắng lợi quyết định trong năm 1972 buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua”.
Với quyết tâm giáng cho địch những đòn mạnh ở cả 3 vùng chiến lược ở miền Nam trong năm bẩu cử tổng thống Mỹ, ta chọn đòn tiến công của chủ lực tiến hành đồng thời trên 3 hướng Trị Thiên - Tây Nguyên - Đông Nam Bộ, phải “hành động bất ngờ và giành lấy thắng lợi cao nhất ”.
Cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 đã được gấp rút chuẩn bị từ cuối năm 1971. Ở miền Bắc trong năm 1971 có 150.000 thanh niên gia nhập quân đội đã đưa vào miền Nam 55.000 cán bộ chiến sĩ cùng khối lượng lớn vũ khí trang bị. Các binh khí kỹ thuật mới gồm cả xe tăng, pháo cơ giới, pháp hạng nặng lần đầu tiên được đưa vào chiến trường. Đường 559 đã có 6 tuyến trục dọc trong đó có tuyến đường kín để vận chuyển hành quân cả đêm và ngày. Nhờ vậy ở chiến trường quân giải phóng từ đầu năm 1972 đã có thể chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô tương đương quân đoàn. Ở các chiến trường ta phối hợp với bạn mở một số cuộc tấn công vào các vị trí địch tại cách đồng Chum, Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia; đồng thời đẩy mạnh các hoạt động chống phá bình định ở miền Nam.
Địch không bất ngờ trước cuộc tấn công năm 1972 của ta nhưng chúng không phán đoán hết khả năng của ta và quy mô cuộc tiến công. Mặc dù Mỹ - Trung Quốc ký thông báo chung Thượng Hải nhưng với “Quyết tâm không có gì thay đổi” kế hoạch tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 vẫn được ráo riết chuẩn bị. Trưa ngày 30/3/1972 ta bắt đầu nổ súng mở màn thực hiện quyết tâm ấy.
Trên hướng chủ yếu là Trị Thiên, những trận hiệp đồng binh chủng đầu tiên của giải phóng đem lại hiệu quả thật to lớn, chọc thủng tuyến phòng ngự vững chắc của địch ở đường 9. Ngày 2/5/1972 tỉnh Quảng Trị lọt vào tay quân giải phóng và sau đó tại đây diễn ra cuộc chiến 81 ngày đêm vô cùng ác liệt giành giật thành cổ Quảng Trị. Trên các hướng phối hợ, những trận tiến công vừa và nhỏ của quân giải phóng dồn dập ập xuống quân Mỹ - ngụy. Ta đã đánh chiếm và giải phóng nhiều địa bàn ở Tây Nguyên, Đông nam Bộ, đồng bằng khu V. Trong khi đó Đồng bằng sông Cửu Long lại phát triển các chiến dịch tấn công tổng hợp, mở ra triển vọng lớn cho phong trào chống phá bình định tại đây.
Chỉ 2 tháng tiến công, quân dân miền Nam đã tiêu diệt, là bị thương 32.241 tên địch, loại khỏi vòng chiến đấu 294 tên Mỹ, thu và phá hủy 356 khẩu pháo, 48.515 súng bộ binh, 6.679 máy truyền tin, 63 chiến xa M48 và 140 chiến xa M41, 258 xe M113, 131 xe bọc thép khác, 2.423 xe cơ giới, vừa phá vở hệ thống phòng thủ vòng ngoài của địch ta vừa đưa 10 sư đoàn chủ lực quân giải phóng đứng vững trên địa bàn miền Nam, lực lượng vũ trang 3 thứ quân ở miền Nam đã được bố trí lại trong thế vững chắc. Điều đó khiến cho quân ngụy khó lòng đảo ngược được tình thế đang có lợi cho ta, bất lợi cho chúng, đặc biệt là biện pháp chiến lược bình định nông thôn đến năm 1972 cũng không còn hiệu lực như mấy năm đầu Việt Nam hóa chiến tranh, hơn 1.000.000 dân giành được quyền làm chủ, vùng giải phóng mở rộng.
Mỹ bất ngờ với sự chuyển biến nhanh của tình hình và chúng kiên quyết trả đũa cuộc tiến công Xuân - Hè của ta. Đầu tháng 4/1972 Mỹ cho tập trung lực lượng lớn không quân và hải quân gồm 1.400 máy bay chiến đấu; 193 máy bay B52; 65 tàu chiến (bằng 40% máy bay chiến thuật, gần 50% máy bay chiến lược của cả nước Mỹ, 73% tàu chiến của Hạm đội 7), về vùng biển miền Nam và cả các căn cứ ở Thái Lan, phục vụ cho Ngụy phản kích ở miền Nam và gây lại chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
Từ ngày 9/5/1972 Mỹ cho phong tỏa toàn bộ miền Bắc Việt Nam, đợt đầu là 7.0963 quả thủy lôi và sau đó là hàng ngàn quả thủy lôi khác giăng kín bờ biển, các tuyến vận chuyển đường biển đường sông miền Bắc. Quốc hội Mỹ viện trợ bổ sung khẩn cấp cho ngụy Sài Gòn 3 tỷ dollar. Tổng thống Nixon tuyên bố hoãn cuộc hòa đàm ở Paris.
Mỗi ngày có từ 300 đến 500 lần chiếc máy bay cường kích và từ 9 - 18 lần chiếc B52 ném hàng ngàn tấn bom xuống tất cả các mục tiêu không phân biệt dân sự hay quân sự. Trong cuộc đánh phá đêm 16/4/1972 ở Hải Phòng, B52 của Mỹ đá giết hại hàng trăm người dân và làm bị thương hơn 1.000 người khác. Nhiều loại vũ khí và kỹ thuật mới của chiến tranh không quân Mỹ lần đầu tiên áp dụng trong cuộc chiến tranh này như máy bay cánh cụp cánh xoè F111, bom có đầu dẫm bằng tia lade, tên lửa điều khiển, máy gây nhiễu điện tử… Mỹ hy vọng đây là biện pháp có tính quyết định chứ không còn là biện pháp hỗ trợ như trước đây nữa để bắt đối phương phải khuất phục và chấm dứt chiến tranh theo ý muốn của Mỹ.
Điều bất ngờ là hành động điên cuồng của Mỹ chỉ càng làm cho người Việt Nam thêm căm thù và quyết tâm đánh Mỹ. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng nhanh theo yêu cầu của mặt trận, cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc đã vươn tới đỉnh cao mới. Hàng trăm máy bay hiện đại của Mỹ đã phải bỏ xác ở khắp nơi trên miền Bắc.
Ngày 16/4/1972 Hà Nội và Hải Phòng bắn rơi 15 máy bay Mỹ (có 1 B52); ngày 19/4/1972 không quân nhân dân Việt Nam dùng máy bay MIC đánh trọng thương tàu khu trục Mỹ ở ngoài khơi Quảng Bình. Luồng hàng vận chuyển ở miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam vẫn thông suốt, không phải bởi một sức mạnh siêu nhiên nào mà ý chí quyết chiến quyết thắng của những con người không chịu bị khuất phục.
Trên mặt trận ngoại giao, theo chủ trương mới của Đảng về đàm phán ở Paris, ngày 8/10/1972 ta chủ động đưa ra dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt nam. Quả nhiên, vấn đề chiến tranh Việt Nam năm 1972 đã trở thành đề tài số một cho cuộc bầu cử tổng thống đang đến gần.
Chính quyền Nixon có tham vọng thắng cử, họ chơi lối đánh lừa cử tri và dư luận rằng bằng cách hứa chấp nhận dự thảo Hiệp định và chuẩn bị ký kết Hiệp định hòa bình. Cuối tháng 10/1972, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công khai trước dư luận về diễn tiến đàm phán và thái độ lật lọng của Mỹ về ký kết Hiệp định hòa bình.
Cùng lúc ấy là sự chẩn bị những phương án đối phó với âm mưu địch muốn giành thắng lợi quân sự sau khi Nixon thắng cử. Tháng 11/1972, các thành phố lớn ở miền Bắc khẩn trương chuẩn bị cho một thử thách mới. Hàng triệu người dân nhanh chóng rời khỏi thành phố, lưới lửa phòng không tầm thấp, tầm trung, tầm cao sẵn sàng đan lên bầu trời, bộ đội ra đa nêu cao khẩu hiệu “Không để Tổ quốc bị bất ngờ”… Hà Nội và Hải Phòng bước vào tháng cuối cùng của năm 1972 trong tư thế người ra trận, bình tĩnh, tự tin và kiên quyết.
Mỹ chủ trương đánh đòn quân sự để ép ta phải nhượng bộ chúng. Ngay sau ngày thắng cửa, Nixon cho đánh phá mạnh ở trong vĩ tuyến 20, ổ ạt tuôn đổ vũ khí và viện trợ cho ngụy đòi ta sửa đổi 120 chỗ trong dự thảo Hiệp định. Ngày 14/12/1972 chính quyền Nixon thông qua kế hoạch mở cuộc tập kích bằng B52 (mật danh là chiến dịch Linebeker II) đánh vào thủ đô Hà Nội.
Đêm 18/12/1972 cuộc tập kích chiến lược của chúng bắt đầu. Địch sử dụng 729 lần chiến B52, 1.900 lần chiếc máy bay cường kích đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Mỏ, Kép, Thái Nguyên trong đó quá nửa là đánh thẳng vào thủ đô Hà Nội. Chúng đánh cả ban ngày lẫn ban đêm, trong đó chúng chủ trương mỗi đêm phải có 3 trận, phải đánh dai dẳng và làm cho đối phương hiểu được sức mạnh không tưởng tượng nối của không quân chiến lược Mỹ.
Bom Mỹ đã giết hại trong 12 ngày đêm ấy 2.368 người dân và làm bị thương 3.526 người. Trận ngày 26/12/1972 chúng sử dụng 129 lần chiếc B52 trong đó có 105 lần chiếc đánh hơn 100 điểm ở Hà Nội, làm hàng trăm người chết, hàng ngàn người khác bị thương, tại phố Khâm Thiên có 300 người bị sát hại, 2.000 ngôi nhà bị phá sập…
Quân dân miền Bắc đã chống trả cuộc tập kích của không quân Mỹ bắt đầu từ 19 giờ 40 phút ngày 18/12/1972 và kép dài suối 12 ngày đêm sau đó. Chưa bao giờ và chưa ở đâu có 1 chiến dịch phòng không như 12 ngày đêm cuối năm 1972 ở miền Bắc; cũng chưa từng có trong lịch sử cảnh tượng B52 của Mỹ cháy rụng đỏ mặt Hồ Gươm. Từ 18/12/1972 đến 24/12/1972 đã có 46 máy bay Mỹ bị hạ, trong đó có 17 B52 và 5 F111, bắt sống 30 giặc lái. Ngày 26/12/1972 chỉ trong 1 giờ chiến đấu hiệp đồng đã hạ 18 máy bay Mỹ, trong số 8 B52 bị bắn rơi có 5 chiếc rơi tại chỗ. Đêm 29/12/1972 Hà Nội đánh trận cuối cùng của chiến dịch và hạ thêm 01 chiếc B52.
Trong 12 ngày đêm ấy đã có 81 máy bay không lực Hoa Kỳ nước xác trên ngọn lửa căm thù sục sôi của nhân dân Việt Nam, trong đó có 34 chiếc B52 và 5 chiếc F111. Tính chung cả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2, Mỹ đã bị mất thêm 728 máy bay trong đó có 59 chiếc B52, 137 tàu chiến bị bắn cháy, bắn trúng; hàng trăm giặc lái bị bắt sống hoặc thiệt mạng.
Sáng ngày 30/12/1972 Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 và đề nghị nối lại đàm phán ở Paris. Mỹ muốn giáng cho đối phương một đòn quân sự mạnh thì lại gặp một trận “Điện Biên Phủ trên không”; muốn tỏ rõ sức mạnh không thể tưởng tượng nổi của không quân chiến lược Hoa Kỳ thì những biểu tượng của sức mạnh răn đe bị mất uy thế. Tổng thống Nixon vừa tái đắc cử đã bị một trận “phản đòn”, muốn đàm phán trên thế mạnh đã phải trở lại Paris khẩn cấp và chấp nhận tất cả những gì đã chối từ và chấp nhận cả kết quả đàm phán ngoài mong muốn.
Chính trong bối cảnh ấy hội đàm Paris bước vào giai đoạn cuối cùng. Ngày 13/1/1973 kết thúc những đợt gặp riêng, ngày 23/1/1973 Hiệp định được ký tắt, ngày 27/1/1973 Hiệp định được ký chính thức, ngày 28/1/1973 Hiệp định bắt đầu có hiệu lực. Hiệp định có 9 chương với 23 điều khoản ghi nhận sự nhân nhượng Việt - Mỹ nhưng cơ bản là nó phản ánh thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam sau 18 năm chống Mỹ cứu nước.
Như vậy quyền dân tộc cơ bản và quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam được công nhận, Mỹ phải đơn phương rút quân, chấm dứt mọi dính líu quân sự ở miền Nam Việt Nam và cam kết đền bù chiến tranh cho nhân dân Việt Nam. Đó là kết quả của gần 5 năm đấu tranh đàm phán với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn, hàng trăm cuộc mít - tinh ủng hộ Việt Nam, kể từ ngày 19/5/1968 đến ngày 27/1/1973.
Hiệp định Paris được ký kết đã tạo bước ngoặc căn bản cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ta đã “Đánh cho Mỹ cút” và một thời cơ chiến lược đã mở ra cho quân dân ta tiến lên “Đánh cho ngụy nhào” để giải phóng hoàn toàn miền Nam.
5. Từ quyết tâm chiến lược Giải phóng miền Nam đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975
Ngụy rất sợ cái “thế đã báo” và trạng thái 2 chính quyền 2 vùng kiểm soát, do đó dựa vào sự ủng hộ của Mỹ (nhất là sau hội đàm Nixơn - Nguyễn văn Thiệu tại Xen Clêmenté ngày 3/4/1973), chính quyền và quân đội Sài Gòn chủ trương phá hoại Hiệp định Paris tiếp tục Việt Nam hóa chiến tranh. Ngay khi Hiệp định Paris có hiệu lực, ngụy Sài Gòn đã ồ ạt hành quân lấn chiếm thực hiện cái gọi là “Tràn ngập lãnh thổ”. Trong năm 1973 chúng đã sử dụng 2/3 lực lượng chủ lực (120/188 tiểu đoàn) để cùng với quân địa phương mở 11.365 cuộc hành quân lấn chiếm bình định và 349.67 cuộc hành quân cảnh sát.
Quân ngụy đến cuối năm 1973 kể cả “lực lượng dã chiến” và “lực lượng an ninh lãnh thổ” đã có tổng số 710.000 quân máy bay các loại. 1.611 tàu thuyền, tổng số dự trữ vật tư chiến tranh lên tới 1.930.000 tấn. Nhiều kế hoạch hỗn hợp của Mỹ ngụy được hình thành như: kế hoạch Lý Thường Kiệt 1973 - 1975, kế hoạch cộng đồng tái thiết và cộng đồng phát triển địa phương 1973 - 1975, kế hoạch xây dựng quân đội 1974 - 1979, kế hoạch kinh tế hậu chiến 1973 - 1980… Bằng những cách thức đó, Mỹ hy vọng ngụy có đủ khả năng đối phó với tình hình ở miền Nam.
Trong khi đó, sau Hiệp định Paris ta dự kiến diễn biến tình hình miền Nam sẽ có 2 khả năng: giữ được hòa bình và chiến tranh trở lại.Bài toán chiến lược của cách mạng Miền Nam sau Hiệp định Paris đã được tìm ra từ sau khi có Hiệp định Genève trước đó 19 năm. Mặc dù vậy Đảng ta tại Hội nghị BCHTW lần thứ 21 (tháng 7/1973) vẫn phải khẳng định lại rằng: “Con đường cách mạng của miền Nam là con đường cách mạng bạo lực. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công”.
Đến cuối năm 1973 đầu năm 1974, việc trừng trị địch hành quân bình định lấn chiếm đã trở nên phổ biến, nấht là sau khi có lệnh của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam và đánh trả những hành động chiến tranh của ngụy ở bất cứ đâu với hình thức và lực lượng thích đáng. Từ giữa năm 1974 những hoạt động tấn công mạnh mẽ, làm thất bại các hoạt động bình định của địch và đầy chúng vào thế phòng ngự.
Với vai trò là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi, hậu phương miền Bắc từ sau Hiệp định Paris cũng đứng trước những yêu cầu cấp bách về hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, chi viện đáp ứng yêu cầu của chiến tranh cách mạng ở miền Nam trong giai đoạn cuối. Chi viện quốc tế những năm 1973 - 1975 giảm nhanh, vì thế miền Bắc càng phải có trách nhiệm to lớn hơn lúc nào hết đối với miền Nam.
Đến năm 1974 miền Bắc đã đạt và vượt mức năm 1965 và 1971 trên nhiều lĩnh vực, nhờ vậy nền kinh tế - xã hội miền Bắc đã được ổn định. Việc huy động sức người sức của cho tiền tuyến là mối quan tâm lớn của nhân dân miền Bắc.
Những năm 1973 - 1975 đã có gần nửa triệu thanh niên nhập ngũ, năm 1973 - 1974 miền Bắc đã tăng viện cho miền Nam 263.691 cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang. Hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ, công nhân, thanh niên xung phong đã tăng cường cho việc nâng cấp đường vận tải chiến lược 559, mở rộng từ Tây Trường Sơn sang Đông Trường Sơn. Hàng vạn các loại xe ngày đêm vận chuyển, nối miền Bắc hậu phương với các căn cứ địa ở khu V, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, các quân đoàn chủ lực lần lượt ra đời: QĐ II (17/5/1973), QĐ I (24/10/1973), QĐ IV (20/7/1974), QĐ III (27/3/1975). Các lực lượng quân binh chủng và các lực lượng cơ động trực thuộc bộ được xây dựng. Các hoạt động huấn luyện, diễn tập được tổ chức thường xuyên. Chiến trường miền Nam tăng nhanh thực lực, chuẩn bị bước vào những hoạt động tạo thế, tạo thời cơ.
Những trận đánh của quân giải phóng ở Thượng Đức, Minh Long, Măng Bút, Măng Đen, Đông Xoài… Vào nửa cuối năm 1974 chứng tỏ rằng địch không còn khả năng chiếm giữ và ta có khả năng giải phóng các chi khu, quận lỵ. Những tín hiệu tại nước Mỹ sau khi Nixon từ chức (9/8/1974) càng làm cho ngụy hoang mang rệu rã. Từ tháng 10/1974, các đô thị miền Nam nhất là Sài Gòn đã bùng lên cao trào đấu tranh chính trị. Chế độ Thiệu đòi Thiệu từ chức.
Thời cơ thuận lợi cho việc giải phóng miền Nam kết thúc hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đến. Từ 30/9/1974 đến 8/10/1974 Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 1) đã được triệu tập để hoạch định kế hoạch 2 năm giải phóng miền Nam. Nhiệm vụ trung tâm trước mắt của nhân dân ta ở cả nước lúc này là: “Động viên những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả 2 miền mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân Ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, dành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn toàn Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà”. Với quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976, một kế hoạch chiến lược do Bộ Tổng tham mưu đề ra gồm 2 bước:
* Bước 1 (1975): Mở những cuộc tiến công chiến lược, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng các vị trí chiến lược quan trọng của ta.
* Bước 2 (1976): Tổng công kích, tổng khời nghĩa, giải phóng toàn miền Nam.
Từ ngày 8/12/1974 đến 8/1/1975 Hội nghị Bộ chính trị mở rộng (đợt 2), đã phân tích cụ thể thời cơ lịch sử và khả năng thực tế của ta và địch. Hội nghị nhận định “Cả năm 1975 là thời cơ, đòn tiến công quân sự mạnh tạo nên thời cơ, phong trào chính trị thúc đầy thời cơ chính trị thúc đầy thời cơ… cần phải khẩn trương, phải đánh nhanh hợn, nếu có thời cơ mà không kịp thời phát hiện, bỏ lỡ thì có tội lớn đối với dân tộc” và “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”.
Ngay sau đó, chiến thắng Phước Long ngày 6/1/1975 đã kiểm nghiệp trực tiếp những nhận định kết luận của Hội nghị lịch sử này. Với chiến thắng giải phóng hoàn toàn 01 tỉnh đầu tiên của miền Nam, cả nước bước vào mùa Xuân đại thắng.
Với phương châm và tư tưởng chỉ đạo “Mạnh bạo, chắng thắng, chủ động, cơ động, linh hoạt bí mật, bất ngờ”, chiến dịch Tây Nguyên đã được tiến hành mở đầu cho việc thực hiện quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Tháng 2/1975 Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên được thành lập, hai sự đoàn Quân Giải Phóng Miền Nam (Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320A) ăn Tết đón xuân Tân Mão ngay tại Tây - Nam thị xã Buôn Mê Thuột.
Lúc đó địch ở cả Sài Gòn lẫn Tây Nguyên đều nhất trí cho rằng, năm 1975 ta đánh mạnh hơn năm 1974 nhưng không như năm 1968 và không bằng năm 1972. Chúng cho rằng ta chưa có khả năng đánh thị xã lớn hoặc đánh thành phố và trọng điểm hoạt động là Nam Bộ, thời gian hoạt động là từ sau Tết Nguyên Đán đến trước mùa mưa sẽ dừng lại nghỉ, do đó địch không cần thay đổi bố trí chiến lược.
Ngày 10/3/1975 trận tấn công đánh chiếm thị xã Buôn Mê Thuột bắt đầu. Sau 33 giờ chiến đấu hiệp đồng binh chủng, trưa ngày 11/3/1975 ta hoàn thành thắng lợi trận đánh. Đòn đánh điểm huyệt ở Buôn Mê Thuột đã đưa địch từ sai lầm này đến sai lầm khác, kéo theo hàng loạt những sụp đổ của địch trên cao nguyên chiến lược này.
Trong cơn “choáng váng và hãi hùng”, ngày 14/3/1975 nguỵ Sài Gòn quyết định rút bỏ Tây Nguyên, từ ngày 16/3 đến ngày 18/3/1975 Quân đoàn II ngụy thực hiện cuộc rút lui chiến lược nhưng bị đuổi đánh tơi bời. Từ ngày 17/3 đến ngày 25/3/1975 ta quét sạch địch và giải phóng hoàn toàn 6 tỉnh Tây Nguyên, sau đó truy đuổi địch và giải phóng các tỉnh duyên hải từ Phú Yên đến Khánh Hòa. Việc kết thúc thắng lợi chiến dịch đầu tiên không những khẳng định khả năng ta giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến, mà còn cho phép ta khẳng định khả năng thực thế giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Khi chiến dịch Tây Nguyên đang tiến triển thì một chiến dịch khác được hình thành trên 8 tỉnh miền Trung Trung Bộ. Vừa tạo thế bất ngờ cho chiến dịch tây Nguyên và phối hợp với Mặt trận Tây Nguyên, quân dân Trị Thiên và khu V đã thực hiện chiến dịch Xuân - Hè tiến công vây ép địch ở nhiều nơi trong Quân khu I và vùng chiến thuật I của chúng. Khi địch ở Tây Nguyên rút bỏ vị trí chiếm đóng thì địch ở Quảng Trị cũng có ý đồ co cụm về Huế và Đà Nẵng. Thừa cơ đó quân dân Trị Thiên đẩy mạnh tiến công. Ngày 19/3/1975 ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn Thừa Thiên Huế.
Ngày 21/3/1975 ta bước vào chiến dịch tấn công Huế, địch vội vàng rút bỏ Huế để giữ Đà Nẵng, tướng ngụy Ngô Quang Trưởng choáng váng mất tinh thần xin từ chức, Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu khẩn khoản xin Mỹ chi viện trực tiếp nhưng Tổng thống Mỹ Ford im lặng. Ngày 26/3/1975 ta giải phóng Huế, ngày 19/3/1975 ta tiêu diệt hoàn toàn căn cứ liên hợp Đà Nẵng, gần 10 vạn binh lính ngụy ở đây cùng với lực lượng địch từ các nơi khác dồn về đã bị đánh tan tành.
Cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân Trị Thiên khu V đã phát triển nhanh như vũ bão, quét sạch địch ở các địa phương, giải phóng hoàn toàn một dải miền Trung nối liền với miền Bắc và Tây Nguyên. Thắng lợi to lớn và nhanh chóng ở miền Trung cùng với Tây Nguyên đã cho phép ta chuyển nhanh cuộc tiến công chiến lược sang Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Thời cơ nối tiếp thời cơ, chiến dịch mở ra chiến dịch, Hội nghị Bộ Chính trị ngày 31/3/1975 xác định “Từ giờ phút này trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân dân ta đã bắt đầu”. Các nghị sỹ Mỹ theo dõi tình hình miền Nam quả quyết, đã quá muộn để làm bất cứ việc gì nhằm lật ngược tình thế ở Nam Việt Nam. Ngày 1/4/1975 chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu được chuẩn bị theo tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” với tốc độ “một ngày bằng 20 năm”. Ngày 14/4/1975 Bộ Chính trị phê chuẩn đề nghị của bộ chỉ huy chiến dịch đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, phương án chiến dịch được thông qua lần cuối.
Như một bức tranh hoành tráng, xe pháo và tàu thuyền đủ loại, bộ đội và dân quân du kích, dân công và Thanh niên xung phong những ngả đường tấp nập…, cả dân tộc từ Bắc chí Nam đang hành quân, hậu phương đang dốc toàn lực ra tiền tuyến, nửa miền Nam vừa được giải phóng cũng góp sức vào chuẩn bị giải phóng nửa còn lại. Đầu tháng 4/1975 Trung ương Cục miền Nam ra chỉ thị cho quốc dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ (B2) hãy “táo bạo đánh các điểm then chốt… khi có thời cơ”.
Ngày 8/4/1975 ném bom Dinh Độc Lập ngày 9/4/1975 đánh Xuân Lộc, ngày 16/4/1975 đập tan phòng tuyến Phan Rang, ngày 17/4/1975 Phnôm Pênh giải phóng, ngày 18/4/1975 Tổng thống Mỹ Ford ra lệnh di tản người Mỹ khỏi Việt Nam, ngày 20/4/1975 Mỹ cuộc Thiệu từ chức, ngày 23/4/1975 Mỹ tuyên bố chiến tranh kết thúc, không thể giúp ngụy Nam Việt Nam, ngày 24/4/1975 Mỹ đề nghị Tổng thống nguỵ Trần Văn Hương đề nghị ngưng bắn… Tất cả các diễn biến dồn dập ấy diễn ra cùng lúc với 5 cánh quân gồm 270.000 người và 180.000 người khác phục vụ chiến dịch đang từng bước chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công vào Sài Gòn.
17 giờ ngày 26/4/1975 cuộc tổng công kích đánh chiếm Sài Gòn bắt đầu, các mục tiêu tấn công ngập chìm trong bão lửa. Mỹ vội vàng mở chiến dịch “người liều mạng” để di tản. Các tướng tá ngụy từ các sư đoàn bị đánh tơi tả, kẻ bị bắt, kẻ đầu hàng, kẻ tự sát, kẻ cởi quân phục lẩn trốn vào đám tàn quân. Tổng thống ngụy muốn xin “bàn giao chính quyền”, các đại diện Mỹ Pháp tìm kế hoãn binh… Nhưng tất cả đã không thể ngăn cản được sức tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng trong “trận đánh cuối cùng” để kết thúc chiến tranh 30 năm.
11 giờ 30 ngày 30/4/1975 chiếc xe tăng biển số 843 của Quân đoàn II đã húc đổ cách cổng sắt Dinh Độc Lập, tiến vào cắm lá cờ giải phóng lên Dinh tổng thống ngụy quyền. Dương Văn Minh phải đầu hàng không điều kiện.
Cùng lúc đó đồng bằng sông Cửu Long cuộc sóng tấn công và nổi dậy. Trong ngày 30/4/1975 tiến công nổi dậy thắng lợi ở Kiến Phong, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Hà Tiên, Long An. Ngày 1/5/1975 các tỉnh Vĩnh Long, Chương Thiện, Cà Mau, Long Xuyên, Châu Đốc, Bến Tre, Kiến Tường và Côn Đảo, Phú Quốc được giải phóng. Đến ngày 2/5/1975 miền Nam Việt Nam từ đất liền đến hải đảo hoàn toàn giải phóng, Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc toàn thắng.
Ngày 15/5/ 1975 từ Hà Nội đến Sài Gòn và khắp các địa phương của Tổ quốc thống nhất, hàng chục triệu người trong những cuộc mít - tinh khổng lồ mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng đã vang lên khúc ca khải hoàn “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”.
Hơn 50 ngày thần tốc, cuộc tổng tấn công nổi dậy mùa Xuân 1975 đã đại thắng. Hơn 1 triệu quân ngụy bị tiêu diệt và ta rã ngay trên hệ thống thiết bị chiến trường của chúng. Ngụy quyền từ trung ương đến các địa phương sụp đổ hoàn toàn. Chế độ thực dân mới dày công xây dựng trong 20 năm bị xóa bỏ. Toàn bộ miền Nam từ đất liền đến hải đảo hoàn toàn giải phóng.
*
* *
Như Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổng kết ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc thắng lợi: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của Chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Kết thúc cuộc kháng chiến 21 năm nhân dân ta cũng kết thúc quá trình 30 năm chiến tranh cách mạng, chấm dứt hơn 1 thế kỷ bị thực dân đế quốc thống trị. Non sông thu về một mối, Nam - Bắc sum họp một nhà trong độc lập tự do. Truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường của dân tộc lại ghi thêm những trang sử mới oanh liệt và hào hùng.
Kết thúc một cuộc chiến tranh lâu dài nhất, tốn kém nhất, quy mô nhất, ác liệt dã man nhất kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Mỹ bị đảo lộn chiến lược toàn cầu và bước vào “thời kỳ sau Việt Nam” thật nặng nề. Trong lúc ấy một nước Việt Nam thống nhất ra đời cái tên mới “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” và bước vào thời kỳ xây dựng đất nước như nguyện ước của Bác Hồ “to đẹp hơn, đàng hoàng hơn”.
Ra khỏi một cuộc chiến tranh có tính chất “cuộc đụng đầu lịch sử”, cả Việt Nam và Mỹ đều phải chịu nhiều tổn thất to lớn. Chỉ tính về con người trong cuộc chiến này, theo số liệu thống kê của Đảng ta, Mỹ có 57.692 người chết, 300.000 người bị thương, 100.000 người bị tàn tật; Việt Nam có 1.100.000 liệt sĩ, 600.000 thương binh, 300.000 người mất tích, gần 2.000.000 người dân vô tội bị giết hại, 2.000.000 người dân khác bị tàn tật, 2.000.000 bị nhiễm chất độc hóa học…
Hậu quả chiến tranh nặng nề không dễ dàng khắc phục. Làm sao mà quên được những mất mát đau thương. Nhưng lịch sử cũng nhắc nhở ta rằng phải giữ lấy quá khứ ở phía sau khi nhìn về phía trước. Đó là cách tốt nhất để lưu giữ “thời đánh Mỹ” vào ký ức dân tộc.

About Me

Hochiminh-City, Mien Nam, Vietnam
Tiến sĩ Sử học, giảng viên Truong Dai hoc Khoa hoc xa hoi va nhan van - Đại học Quốc gia TP.HCM