Total Pageviews

Popular Posts

Search This Blog

Followers

Pages

Saturday, March 24, 2007

ON TAP THI DAI HOC MON SU - PHAN 3 (1945-1954)


VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)

BÀI I: XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ CỘNG HÒA TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1945 - 1946)

1. Những thuận lợi và khó khăn sau Cách mạng tháng Tám

- Sau Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa cùng lúc phải đối phó với muôn vàn khó khăn phức tạp (đồng ruộng hoang hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp bị đình đốn, tài chính trống rỗng, cả nước có hơn 90% dân số mù chữ).
- Thù trong giặc ngoài lại đang có mặt khắp nơi trên đất nước. Ở phía Bắc, 20 vạn quân Tưởng tràn sang với danh nghĩa quân đồng minh vào giải giáp phát xít Nhật, nhưng chúng nuôi dã tâm lật đổ chính phủ Hồ Chí Minh. Ở phía Nam, quân Anh cũng bộc lộ ý đồ giúp Pháp lập lại chế độ thuộc địa trên bán đảo Đông Dương.
- Thù trong giặc ngoài đều có chung mục tiêu là bóp chết chính quyền cách mạng còn non trẻ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Vận mệnh của dân tộc đang đứng trước thử thách nghiêm trọng như “ngàn cân treo sợi tóc”.
- Ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị thực hiện 6 biện pháp cấp bách như: phát động phong trào tăng gia sản xuất, mở phong trào chống nạn mù chữ, tổ chức ngay cuộc Tổng tuyển cử tự do dân chủ, mở phong trào giáo dục cần kiệm liêm chính…
- Việc chống giặc đói và giặc dốt, phục hồi nền kinh tế đất nước đã thu được những kết qủa ban đầu khả quan: đồng tiền Việt Nam (tiền Cụ Hồ) được phát hành, phong trào “Bình dân học vụ” được phát động, cuộc vận động xây dựng nếp sống mới, đời sống văn hóa mới đã dấy lên ở cả thành thị và nông thôn…
- Ngày 6/1/1946 cuộc Tổng tuyển cử tự do đầu tiên trong lịch sử dân tộc được tiến hành trên phạm vi cả nước, Hồ Chủ tịch trúng cử ở Hà Nội với số phiếu bầu cao nhất (98,4%).
- Ngày 2/3/1946 Quốc hội khóa I họp phiên đầu tiên. Quốc hội đã giao cho Cụ Hồ Chí Minh lập chính phủ mới.
- Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được thông qua tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I (từ ngày 28/10 đến 8/11/1946).
- Trong năm 1946, nhiều hoạt động chính trị xã hội được tiến hành để tăng cường thực lực cách mạng. Các Hội Cứu quốc, thành viên của Mặt trận Việt Minh được phát triển nhanh chóng.
- Như vậy, chỉ trong vòng một năm sau cách mạng tháng Tám thành công, các tổ chức đảng phái yêu nước, các đoàn thể quần chúng nhân dân đã được tập hợp thống nhất dưới ngọn cờ cách mạng của Đảng Cộng sản và Chính phủ Hồ Chí Minh.

2. Vừa chống thù trong giặc ngoài, vừa chuẩn bị cho cuộc chiến tranh với Pháp
- Để chống thù trong giặc ngoài, hàng loạt các đối sách vừa linh hoạt, mềm dẻo, vừa cương quyết, cứng rắn, đã được chính phủ áp dụng từ.
- Đối với quân Nhật, trước khi chúng ra khỏi Đông Dương, ta nhanh chóng giành lấy chính quyền từ tay chúng.
- Đối với quân Anh, lúc đầu ta đón tiếp thân thiện, nhưng khi họ giúp Pháp đánh chiếm Nam bộ thì ta cực lực phản đối và có hành động kiên quyết.
- Đối với quân Tưởng ta vừa thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc với chúng, vừa có hành động kiên quyết với bọn tay sai của chúng.
- Đối với bọn tay sai thân đế quốc, ta vừa tranh thủ phân hóa cô lập chúng, vừa có những hành động kiên quyết, vạch mặt chúng, trấn áp chúng.
- Ngày 23/9/1945, trước hành động xâm lược của thực dân Pháp ở Nam bộ, Xứ ủy Nam bộ đã phát động cuộc kháng chiến.
- Dựa vào sự ủng hộ của nhân dân, bằng nhạy bén chính trị và tài mưu lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chọn việc tạm hòa hoãn với Pháp, nhằm tranh thủ hòa bình để chuẩn bị thêm cho một cuộc chiến tranh khó tránh khỏi.
- Ngày 6/3/1946 bản Hiệp định Sơ bộ giữa Việt Nam và Pháp được ký kết.
- Hiệp định có nội dung chủ yếu là: Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp ra Bắc thay quân Tưởng, Pháp phải ngưng chiến ở miền Nam.
- Từ ngày 17/6 đến 14/9/1946 đàm phán chính thức Việt - Pháp được tiến hành ở Fontainebleau.
- Ngày 16/4/1946 phái đoàn Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm Quốc hội Pháp.
- Ngày 31/5/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách Thượng khách của nước Pháp sang thăm Pháp.
- Những hoạt động ngoại giao của phái đoàn Quốc hội Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp cùng với việc ký bản Tạm ước Pháp - Việt 14/9/1946, có ý nghĩa to lớn về chính trị. Nó góp phần cho dư luận thấy rõ thiện chí hòa bình của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Nhưng với âm mưu kiên quyết đánh chiếm Việt Nam, thực dân Pháp tìm mọi cách trì hoãn cuộc đàm phán, phá hoại mọi điều đã ký kết.
- Ngày 20/11/1946 quân Pháp đánh Hải Phòng và Lạng Sơn.
- Ngày 17/12/1946 quân Pháp tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội.
- Ngày 18 và sáng 19/12/1946 Pháp đưa ra ba tối hậu thư đòi ta phải đầu hàng… Thực dân Pháp kiên quyết chọn con đường chiến tranh với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hòng lập lại chế độ thuộc địa.
- Rõ ràng là Pháp đã đẩy ta vào tình huống phải đối phó với cuộc chiến tranh. Trước tình hình đó, nhân dân Việt Nam phải chủ động chấp nhận cuộc chiến.
- Như vậy, 16 tháng sau Cách mạng tháng Tám, chiến tranh vẫn không tránh khỏi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thực chất của tình trạng ấy “chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Đó cũng chính là lý do để nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ.
- Như vậy, từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn thử thách để bảo vệ được chính quyền cách mạng, xây dựng thực lực của dân tộc về mọi mặt.

BÀI II: CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1946 - 1953)

1. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ
- Ngay khi vừa giành được độc lập ta đã nhận rõ âm mưu chiến tranh của thực dân Pháp, vì thế việc chuẩn bị cho cuộâc kháng chiến bảo vệ thành qủa cách mạng tháng Tám đã được tiến hành song song với việc củng cố xây dựng chính quyền mới.
- Ở Nam bộ: Ủy ban hành chính Nam bộ chuyển thành Ủy ban kháng chiến Nam bộ. Các căn cứ địa hình thành ở Đông Nam bộ, Đồng Tháp Mười, U Minh được xây dựng.
- Tại Bắc bộ ta tranh thủ xây dựng lực lượng cho Bắc bộ và cho cả nước. Ủy ban kháng chiến toàn quốc được thành lập. Đồng thời ở Bắc bộ ta lần lượt trừng trị bọn phản động. Ngày 12/7/1946 ta khám phá và đập tan âm mưu đảo chính của Quốc dân Đảng.
- Tháng 12/1946, Pháp đã đẩy ta vào tình huống phải đối phó với những hành động khiêu khích gây hấn của chúng và hạ tối hậu thư đòi ta đầu hàng.
- Lúc 20 giờ ngày 19/12/1946 lệnh toàn quốc kháng chiến đã phát đi.
- Ở Hà Nội loa phát thanh vang lên lời kêu gọi “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
- Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm từ 19/12/1946 đến 17/2/1947 ở Thủ đô Hà Nội diễn ra thật hào hùng, quân dân Hà Nội dũng cảm ngoan cường chiến đấu đã tiêu diệt nhiều quân xâm lược.
- Cuộc chiến đấu còn diễn ra tại nhiều thành phố khác, nhằm tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch, làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của chúng.

2. Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947
- Pháp cho rằng cơ quan đầu não kháng chiến là ở Việt Bắc, cần phải tiêu diệt cơ quan đầu não ấy để kết thúc chiến tranh.
- Ngày 7/10/1947, Pháp cho 12.000 quân chia làm 3 hướng tấn công lên Việt Bắc.
- Nhưng bộ đội Việt Minh đã chuẩn bị sẵn tình huống này và đón đánh quân đội Pháp ngay từ đầu cuộc tấn công.
- Sau 75 ngày đêm chống càn (từ 7/10 đến 21/12/1947), quân dân Việt Bắc đã đánh bại cuộc phản công đầu tiên của Pháp trên cả 3 mặt trận, bẻ gãy các gọng kìm của địch ở Việt Bắc, buộc chúng phải từ bỏ chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh.
- Căn cứ địa Việt Bắc được giữ vững, các cơ quan lãnh đạo kháng chiến của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được bảo toàn, quân dân cả nước vô cùng phấn khởi tin tưởng vào chính phủ Hồ Chí Minh.

3. Tiếp tục giành nhiều thắng lợi trên mặt trận quân sự (1948 - 1953)
- Bước vào thu-đông năm 1950, ta quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông biên giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.
- Kế họach của tướng Võ Nguyên Giáp với “Phương án đánh Đông Khê” đã được triển khai nhanh chóng.
- Ngày 16/9/1950 mặt trận Đông Khê nổ súng, mở màn cho chiến dịch Biên giới.
- Ngày 14/10/1950, sau 29 ngày đêm chiến dịch, bộ đội Việt Minh mừng chiến dịch đại thắng.
- Quân Pháp chịu một tổn thất lớn nhất từ trước tới nay, có 10 tiểu đoàn bị nướng trụi vào chiến trường biên giới, chiến lược phòng thủ Đông Dương bị đảo lộn.
- Bộ đội Việt Minh giải phóng hàng ngàn cây số vuông đất đai, khai thông 7.500 km biên giới.
- Chiến thắng biên giới cắm cột mốc mới trên con đường trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, nó cũng đánh dấu thời kỳ mới của kháng chiến trường kỳ, khi quyền chủ động chiến trường đã chuyển hẳn về phía lực lượng kháng chiến.
- Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam cho đến Đông Xuân 1953-1954 có thể bước sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định, mở đầu bằng việc tiếp tục mở các chiến dịch tiến công quân sự, làm tiêu hao thêm nhiều sinh lực địch, tiến tới đánh bại chúng hoàn toàn về quân sự.

BÀI III: CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ 1954

- Diễn biến
- Để thu hút bộ đội Việt Minh lên Điện Biên Phủ hòng giáng một đòn chiến lược, cả Pháp và Mỹ đều chuyển trọng tâm kế họach Navarre sang xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đòan cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
- Pháp tập trung ở Điện Biên Phủ với nhiều đơn vị mạnh, có đầy đủ vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại. Cả Pháp và Mỹ đều coi đây là pháo đài không thể công phá, là nơi sẵn sàng nghiền nát bộ đội Việt Minh và chúng đã thách thức bộ đội Việt Minh tấn công.
- Từ đầu tháng 12/1953 bộ đội Việt Minh vừa phá kế hoạch tập trung quân, vừa chuẩn bị cho việc chấp nhận giao chiến với quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ.
- Pháp và Mỹ yên trí rằng nếu chấp nhận giao chiến tại Điện Biên Phủ thì bội đội Cụ Hồ sẽ gặp phải rất nhiều bất lợi và khó khăn.
- Tướng Võ Nguyên Giáp càng bình tĩnh chọn lựa phương án đánh, kiên trì và quyết tâm chuyển từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc thắng chắc”.
- Đúng 17 giờ ngày 13/3/1954, pháo binh của bộ đội Việt Minh nã vào căn cứ đồi A1 mở màn cho chiến dịch tấn công Điện Biên Phủ. Bộ đội Việt Minh tổ chức thực hiện 3 đợt tấn công:
- Đợt một từ 13/3 đến 17/3/1954, mở cửa tập đoàn cứ điểm.
- Đợt hai từ ngày 30/3/đến 26/4/1954, tấn công vây lấn, băm nát tập đoàn cứ điểm, giằng co quyết liệt, Pháp ở Điện Biên Phủ hoàn toàn tuyệt vọng.
- Đợt ba từ 1/5 đến 7/5/1954, tổng công kích tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm địch. Điện Biên Phủ thất thủ.
- Sau 56 ngày đêm, toàn bộ tập đoàn Điện Biên Phủ bị công phá. De Castries vừa được thăng chức tướng vài ngày, thì phải dẫn đầu đoàn quân sống sót ra đầu hàng các chiến sỹ Việt Minh ở Điện Biên.
- Ý nghĩa:
- Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đi vào lịch sử dân tộc thật oai hùng. Nó “đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”.
- Cuộc “kháng chiến ba ngàn ngày không nghỉ” đã kết thúc với việc đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược kiểu cũ của thực dân Pháp có Mỹ can thiệp.
- Thắng lợi của kháng chiến chống Pháp đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta những kinh nghiệm thực tế sinh động của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, kinh nghiệm của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược.

BÀI IV: HIỆP ĐỊNH GENÈVE 1954

- Từ đầu năm 1954 Hội nghị của các nước lớn bàn về lập lại hòa bình, chấm dứt cuộc chiến tranh Triều Tiên và Đông Dương đã triệu tập ở Genève (Thụy Sỹ). Sau khi giải quyết xong vấn đề Triều Tiên, cuối tháng 4/1954 Hội nghị bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. Nhưng chỉ sau khi thất thủ ở Điện Biên Phủ, Pháp - Mỹ mới sốt sắng họp bàn ở Hội nghị.
- Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu, đến tham dự Hội nghị trong tư thế của người vừa chiến thắng quân Pháp ở Điện Biên Phủ.
- Xuất phát từ nguyện vọng hòa bình của dân tộc, nắm bắt theo xu thế hòa bình của thế giới và khu vực, phái đoàn Việt Nam tại Hội nghị Genève đã bày tỏ thiện chí chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương, giải quyết vấn đề Đông Dương một cách triệt để cả về quân sự lẫn chính trị, trên cơ sở các nước tôn trọng chủ quyền thống nhất, độc lập, tòn vẹn lãnh thổ cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
- Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp, ngày 20/7/1954 các Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia lần lượt được ký kết.
- “Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam” có nội dung chủ yếu là: lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, việc chuyển quân tâp kết lực lượng của cả hai bên chiến tranh được tiến hành, việc thống nhất đất nước ở Việt Nam sẽ được thực hiện bằng một cuộc trưng cầu dân ý, sau hai năm thi hành hiệp định và bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước…
- Hiệp định Genève ngày 20/7/1954 cùng với thắng lợi của Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến địch Điện Biên Phủ. Đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam chống xâm lược.

Ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp:
- Trong 9 năm kháng chiến, quân dân Việt Nam đã lần lượt đánh bại 5 kế hoạch chiến lược chiến tranh của Pháp, đã mở 10 chiến dịch lớn có ý nghĩa như những đòn chiến lược giáng vào đạo quân viễn chinh của Pháp sau đại chiến thế giới lần thứ II, thời kỳ mà công cuộc thực dân của người Pháp có vai trò và ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nhiều quốc gia dân tộc.
- Với thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chẳng những thành qủa của Cách mạng tháng Tám được bảo vệ vững chắc, mà còn phát triển thêm thành qủa vĩ đại ấy. Đó là việc các nước phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng, nền kinh tế - xã hội của chế độ mới được thử thách trong chiến tranh đã có thêm nhiều sức mạnh và kinh nghiệm để củng cố phát triển, sự nghiệp cách mạng của cả nước có thêm nhiều yếu tố mới, cơ sở mới rất căn bản để tiến đến giành những thắng lợi to lớn và toàn vẹn.
- Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp góp phần quyết định vào việc làm sụp đổ hoàn toàn chế độ thực dân kiểu cũ trên bán đảo Đông Dương, mở đường cho việc làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa đấ quốc trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của kháng chiến chống Pháp đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta những kinh nghiệm thực tế sinh động của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, kinh nghiệm của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược.

Sunday, March 18, 2007

ON TAP THI MON SU - PHAN 2 1930-1945 (NEW)





CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM Ở VIỆT NAM

(1930 - 1945)

BÀI I: PHONG TRÀO XÔ VIẾT NGHỆ – TĨNH 1930-1931

1. Nguyên nhân bùng nổ
- Ở Việt Nam từ năm 1930 trở đi, con đường cách mạng vô sản đã dẫn dắt nhân dân ta đấu tranh bằng những cao trào rộng lớn. Mở đầu cho những bước phát triển mới là phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh những năm 1930-1931.
- Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh là hậu qủa trực tiếp của chính sách kinh tế - xã hội của thực dân Pháp ở Đông Dương.
- Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930, đã kịp thời đưa ra đường lối phù hợp với nguyện vọng đấu tranh của xã hội lúc đó, và trở thành người lãnh đạo phong trào.


2. Diễn biến
- Phong trào bắt đầu bằng những cuộc mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1/5 diễn ra ở Vinh - Bến Thủy (Nghệ An).
- Từ cuối tháng 8/1930, những cuộc biểu tình, biểu dương lực lượng với qui mô lớn ở các vùng nông thôn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh tiếp tục bùng nổ, lôi kéo hàng chục ngàn người.
- Cuộc đấu tranh nổ ra không dứt và chuyển sang bạo động.
- Pháp điều quân đến Nghệ An - Hà Tĩnh để đàn áp. Hàng loạt biện pháp bạo lực tàn bạo và nham hiểm, cùng với các biện pháp lừa bịp của chúng được tung ra để đàn áp các Xô viết.
- Địch đã không từ một biện pháp nào, kể cả các biện pháp quân sự, kinh tế, xã hội và lừa mị để đánh phá cách mạng. Đến giữa năm 1931, các Xô viết Nghệ - Tĩnh lần lượt thất bại.


3. Kết quả
- Trước khí thế “Xông lên chọc trời” của phong trào, chính quyền thực dân phong kiến ở nhiều nơi của Nghệ An và Hà Tĩnh bị tan rã, hoặc tê liệt, bỏ chạy.
- Các chi bộ đảng và tổ chức Nông hội Đỏ ở các thôn, xã đứng ra quản lý, điều hành mọi hoạt động trong địa phương, thay thế vào vị trí các cơ sở chính quyền địch đã bỏ trống.
- Chính quyền Xô viết bãi bỏ những thứ thuế vô lý, bất công; chia lại đất công cho nông dân nghèo; qui định lại tô tức; tổ chức sản xuất chung; trợ cấp cho gia đình túng thiếu; bài trừ phong tục tập quán lạc hậu; xây dựng các đoàn thể quần chúng v.v…
- Các Xô viết ở Nghệ - Tĩnh tồn tại chưa đầy 8 tháng nhưng đã có nhiều cố gắng sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội.

4. Ý nghĩa
- Mặc dù còn sơ khai nhưng các Xô viết ở Nghệ An, Hà Tĩnh thực chất là một chính quyền cách mạng của công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Xô viết Nghệ - Tĩnh đã thu hút sự chú ý quan tâm của nhiều lực lượng, cả nước dấy lên phong trào đấu tranh ủng hộ Xô viết, chống khủng bố trắng.
- Xô viết Nghệ - Tĩnh và cả cao trào cách mạng 1930-1931, là minh chứng hùng hồn cho truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm kiên cường, sức sống mãnh liệt và sức sáng tạo phi thường của dân tộc Việt Nam.
- Khẳng định trong thực tế: Đường lối cách mạng, uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng của giai cấp vô sản Việt Nam.
- Nó de lại nhiều bài học kinh nghiệm qúi báu cho những người yêu nước và cách mạng đang đấu tranh cho nền tự do và độc lập.

BÀI II: PHONG TRÀO ĐẤU TRANH DÂN CHỦ 1936-1939


1. Nguyên nhân
- Trong xu thế chung của thế giới chống phát xít, tháng 1/1936, Mặt trận Bình dân Pháp đã ra đời.
- Mặt trận tập hợp nhiều tổ chức đảng phái chống phát xít Pháp, trong đó đông đảo nhất là Đảng Xã hội, Đảng Cấp tiến, Đảng Cộng sản, Tổng Liên đoàn lao động.
- Trong cuộc bầu cử tháng 4/1936, lực lượng phát xít Pháp thất bại, lực lượng dân chủ hoàn toàn thắng thế, chính phủ Mặt trận Bình dân được thành lập.
- Sau khi ra đời, Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp buộc phải thi hành Cương lĩnh dân chủ chống phát xít.
- Đối với các thuộc địa, Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp chủ trương mở các cuộc điều tra tình hình và thu thập dân nguyện, ban hành các quyền tự do dân chủ, tự do nghiệp đoàn, cải thiện đời sống giới lao động, toàn xá chính trị phạm…

2. Diễn biến và Kết quả
- Từ năm 1937, Đảng Cộng Sản Đông Dương tận dụng các khả năng công khai hợp pháp, chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
- Xây dựng các tổ chức đoàn thể quần chúng của Mặt trận như Đoàn Thanh niên Dân chủ, Hội Cứu tế Bình dân, Công hội, Nông hội...
- Ở các thành thị và nông thôn còn phát triển hội quần chúng như Hội ái hữu, Hội Tương tế, Hội Thể thao, Hội Bóng đá, hội Cấy, hội Gặt…
- Những hoạt động đấu tranh công khai hợp pháp của quần chúng cũng ngày một sôi nổi với những hình thức phong phú như mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng, bãi công…
- Phong trào báo chí công khai rầm rộ ở cả Bắc lẫn Nam suốt mấy năm 1936-1939.
- Để chống văn hóa ngu dân, Phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ được phát triển rộng rãi, nhất là trong các tầng lớp nhân dân lao động.
- Đến cuối năm 1938, cuộc chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh của chủ nghĩa phát xít càng ráo riết, những thuận lợi cho các cuộc đấu tranh dân chủ hòa bình cũng ngày một ít dần đi.
- Ở Đông Dương, bọn phản động thuộc địa từ cuối năm 1938 đầu năm 1939, bắt đầu ngăn cản và cấm đoán những hoạt động dân chủ công khai của quần chúng.
- Tháng 3/1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đã rút vào bí mật trước khi địch ra tay khủng bố truy lùng bắt bớ.
- Cho đến khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ (tháng 9/1939) phong trào đấu tranh dân chủ công khai ở Việt Nam đã chấm dứt sau hơn ba năm phát triển.

3. Ý nghĩa
- Trong khuôn khổ xã hội thuộc địa, những hoạt động công khai hợp pháp theo chương trình của Mặt trận Dân chủ Đông Dương, đã đem đến cho phong trào dân tộc một thời kỳ phát triển mạnh mẽ, một sự chuyển biến mới trong cách thức và nội dung đấu tranh, một sự bổ sung mới vào lực lượng tiến hành và quy mô phát triển.
- Với cao trào này, lực lượng đấu tranh cách mạng của dân tộc được hình thành từ thời kỳ 1930-1931, nay được củng cố bổ sung thành một đạo quân hùng hậu hàng triệu người ở cả nông thôn và thành thị với nhiều tầng lớp giai cấp khác nhau.
- Tận dụng mọi khả năng, điều kiện thế giới và tình hình trong nước những năm trước chiến tranh, đưa cả dân tộc vào một cuộc vận động cách mạng, với nhiều hình thức hoạt động phong phú, sôi nổi.
- Đó là thành công lớn, bài học qúi báu từ thực tế đấu tranh những năm 1936-1939, là hành trang của những người yêu nước, cách mạng đem vào qúa trình đấu tranh cho tự do độc lập.

BÀI III:

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ SỰ RA ĐỜI NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

1. Mặt trận Việt Minh với qúa trình chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang
- Tháng 6/1941 phát xít Đức tấn công Liên Xô. Cuộc chiến tranh thế giới bước sang một thời kỳ mới.
- Mặt trận Việt Minh chủ trương gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang với quyết tâm đem sức ta tự giải phóng cho ta.
- Tháng 2/1943 tại Hội nghị Ban thường vụ Trung ương ở Võng La (Đông Anh), Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định cần mở rộng Mặt trận Việt Minh và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang cho toàn dân.
- Tháng 5/1944 Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”.
- Tháng 8/1944 Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi “Sắm vũ khí đuổi thù chung”.
- Tháng 7/1944 đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Lúc này lấy tên là Hồ Chí Minh) về nước sau hơn hai năm đi công tác sang Trung Quốc bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam.
- Tháng 10/1944 Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước kêu gọi toàn quốc chuẩn bị đại hội đại biểu để “trong thì lãnh đạo công cuộc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”.
- Ngày 22/12/1944 đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập tại Cao Bằng.
- Ngay sau thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân đã đánh thắng trận đầu với việc hạ đồn Phay Khắt và đồn Nà Ngần.

2. Cao trào kháng Nhật cứu nước
- Đêm 9/3/1945 Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp, độc quyền chiếm lấy Đông Dương.
- Quân Pháp hoang mang bỏ chạy hoặc cam chịu làm tù binh của phát xít Nhật, không dám cùng với Việt Minh chống Nhật.
- Ngày 9/3/1945 khi có dấu hiệu đảo chính, Ban thường vụ Trung ương đã họp mở rộng tại Đình Bảng (Bắc Ninh). Hội nghị nhận định những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa ở Đông Dương đang đi đến chín mùi một cách mau chóng và một cao trào cách mạng nổi dậy, đó là:
1. “Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng).
2. “Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước).
3. “Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật)”.
- Trên cơ sở đó, Hội nghị thường vụ chủ trương thay đổi khẩu hiệu và phương pháp cách mạng, phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
- Ngày 12/3/1935 Hội nghị ra bản Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
- Ngày 15/4/1945 Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kỳ được triệu tập tại Hiệp Hòa (Bắc Ninh). Hội nghị xác định nhiệm vụ quân sự lúc này là quan trọng nhất, phải đẩy mạnh việc xây dựng và thống nhất lực lượng vũ trang cách mạng, mở rộng các căn cứ địa.
- Đầu tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, đặt đại bản doanh trại Tân Trào để chỉ đạo cách mạng cả nước.
- Ngày 15/5/1945, Cứu quốc quân hợp nhất với Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thành Giải phóng quân Việt Nam.
- Ngày 4/6/1945, Khu Giải phóng Việt Bắc ra đời gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang.

3. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời
- Từ tháng 4/1945 trở đi chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc với việc quân Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.
- Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện.
- Ngày 6 và 8/8/1945 Mỹ ném 2 qủa bom nguyên tử hủy diệt thành phố Hirosima và Nagasaki của Nhật.
- Ngày 9/8/1945, Hồng quân Liên Xô tuyên chiến và tiêu diệt đạo quân Quan đông của Nhật. Trước tình thế ấy, ngày 12/8/1945, Nhật phải tuyên bố đầu hàng quân đồng minh không điều kiện.
- Nghe tin Nhật đầu hàng, quần chúng nhân dân và các lực lượng cách mạng Đông Dương vô cùng phấn khởi, ngọn lửa quật khởi trong lòng dân tộc bỗng bùng lên khắp nơi.
- Ngày 13/8/1945 Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội nghị Toàn quốc tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do Trường Chinh phụ trách.
- Trong đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa tòan quốc ra “Quân lệnh số 1”, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa.
- Ngày 16 và 17/8/1945, Đại hội Quốc dân được triệu tập ở Tân Trào. Sau khi tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, Quốc dân Đại hội thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”.
- Quốc dân Đại hội cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
- Quốc dân Đại hội còn quyết định Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, Quốc thiều là bài hát Tiến quân ca.
- Ngày 14/8/1945, các tỉnh Việt Bắc hoàn toàn giải phóng .
- Ngày 16/8/1945 giải phóng Thái Nguyên.
- Trong ngày 19/8/1945 tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Nội. Các tỉnh còn lại ở Bắc kỳ cũng nhanh chóng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.
- Ngày 30/8/1945, tại Ngọ Môn (Huế), Bảo Đại đã đọc Chiếu thoái vị, nộp ấn kiếm cho phái đoàn đại diện của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Ở Sài Gòn ngày 25/8/1945, lực lượng khởi nghĩa đã tiến chiếm các cơ quan chính quyền và quân đội địch như Sở mật thám, Sở cánh sát, Nhà ga Sài Gòn, Nhà máy đèn…
- Cùng ngày 25/8/1945, nhiều tỉnh thành Nam bộ cũng vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 28/8/1945, tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Tiên. Ngày 2/9/1945, Côn Đảo giải phóng.
- Cuối tháng 8/1945, Chính phủ lâm thời từ Việt Bắc về Hà Nội. Hồ Chí Minh khẩn trương chuẩn bị buổi lễ ra mắt Chính phủ Việt Nam mới và thảo ra bản Tuyên ngôn Độc lập.
- Ngày 2/9/1945, hàng chục vạn người mít tinh tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) mừng Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ, Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.

4. Ý nghĩa
- Tổng khởi nghĩa Tháng Tám với đỉnh cao là sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, là một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, một biến cố vĩ đại, bước ngoặt đánh dấu sự phát triển mới của qúa trình đấu tranh của dân tộc vì độc lập tự do.
- Cách mạng tháng Tám đã đánh đổ nền thống trị của ngoại bang gần một thế kỷ, lật nhào ngai vàng phong kiến hơn 1.000 năm.
- Chiến công của cuộc cách mạng Tháng Tám là mốc son lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc. Từ trong khỏi lửa của cuộc chiến tranh thế giới và trong bùn nhơ của chế độ thuộc địa, một nước Việt Nam với Quốc kỳ mới, Quốc ca mới, Chính phủ mới, Chế độ mới xuất hiện “sáng lòa” và bước vào kỷ nguyên độc lập - tự do và chủ nghĩa xã hội.

Tuesday, March 13, 2007

KIEN THUC CO BAN ON THI DAI HOC - PHAN 1



TÀI LIỆU DÀNH ÔN THI ĐẠI HỌC MÔN LỊCH SỬ VIỆT NAM


VIỆT NAM NHỮNG NĂM TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ NHẤT ĐẾN KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
(1919 - 1930)


BÀI I: SỰ CHUYỂN BIẾN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH
(1919 - 1929)

1. Thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam
- Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất thực dân Pháp đổ xô sang các thuộc địa để vơ vét, bóc lột nhằm phục vụ cho khôi phục kinh tế chính quốc và tiếp tục phát triển tư bản.
- Đông Dương là một thuộc địa quan trọng và béo bở, nên tư bản Pháp đẩy mạnh đầu tư ở đây.
- Một số ngành thu hút đầu tư lớn là nông nghiệp và khai thác mỏ. Trong nông nghiệp chú trọng đến trồng lúa và cao su, còn khai thác mỏ chủ yếu là than.
- Sau chiến tranh, thực dân Pháp không thể cai trị thuộc địa như trước được nữa; còn người dân bản xứ cũng hiểu rõ hơn giá trị của dân chủ, tự do.
- Về văn hóa giáo dục, chính sách ngu dân không thay đổi, nhưng nền giáo dục cũ không còn phù hợp, Pháp thiết lập nền giáo dục mới kiểu Pháp để thay thế.
- Tuy vậy, đối với đại đa số quần chúng nhân dân, thì giáo dục ấy rất xa vời. Cả Việt Nam số người đi học từ vỡ lòng đến đại học chỉ chiếm 1,8% dân số.
- Trong lĩnh vực báo chí công khai, Pháp cho phát triển tự do những sách báo có lợi cho chủ nghĩa thực dân.

2. Xã hội Việt Nam ngày càng phân hóa
Do tác động của công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, xã hội Việt Nam tiếp tục bị phân hóa sâu sắc.
- Giai cấp công nhân, đến năm 1929 Việt Nam đã có lực lượng hơn 200.000 công nhân chuyên nghiệp. Tuy số lượng chỉ chiếm 1,3% dân số, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam mang đầy đủ các yếu tố của giai cấp công nhân quốc tế, đồng thời có nhiều đặc điểm riêng của một dân tộc đang đấu tranh chống đế quốc phong kiến.
- Giai cấp tư sản Việt Nam sau chiến tranh không còn điều kiện thuận lợi như trong thời kỳ chiến tranh, nhưng cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai vẫn lôi cuốn họ tiếp tục phát triển trưởng thành. Tư sản Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành Công - Nông - Thương, nhưng vốn liếng của họ chỉ bằng 5% so với số vốn tư bản nước ngoài. Tư sản Việt Nam sớm có ý thức đấu tranh giai cấp, nhưng không vượt qua được hạn chế yếu đuối của mình, để kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc.
- Tiểu tư sản thành thị tăng trưởng không ngừng từ đầu thế kỷ XX đến sau chiến tranh. Theo đà phát triển của đô thị, các bộ phận tiểu tư sản ở đây sẽ tiếp tục chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu dân cư. Sau chiến tranh, tiểu tư sản đã vươn lên về chính trị, trở thành lực lượng đấu tranh yêu nước khá hùng hậu ở các đô thị, trong đó có những bộ phận đã dũng cảm giương lên ngọn cờ dân tộc tư sản.
- Địa chủ phong kiến - Nông dân, thợ thủ công ở nông thôn là những giai cấp có số lượng lớn, chiếm tỷ lệ đông trong cơ cấu dân cư. Địa chủ phong kiến thống trị thì ngày càng lún sâu vào con đường làm tay sai cho ngoại bang, khai thác bóc lột nhân dân. Nông dân, thợ thủ công ở nông thôn không ngừng bị bần cùng hóa, cuộc sống không lối thoát nên họ đã nổi dậy đấu tranh và sẵn sàng đi theo các giai cấp tiên tiến làm cuộc cách mạng xã hội.

BÀI II: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐẦU THẾ KỶ XX

- Sau khi những phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến cuối thế kỷ 19, tiêu biểu là phong trào “Cần Vương”, thất bại thì các phong trào đấu tranh và yêu nước giai đoạn tiếp theo (đầu thế kỷ 20) ở Việt Nam tiến hành theo hệ tư tưởng dân chủ tư sản.
- Những người tiêu biểu cho phong trào này là các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.
- Tháng 1-1905, Phan Bội Châu lập ra Duy Tân Hội, chủ trương lập chế độ quân chủ lập hiến. Thực hiện chủ trương của Hội, cụ Phan Bội Châu đã phát động phong trào Đông Du, đưa học sinh đi du học ở Nhật, hướng về Nhật để đánh Pháp.
- Năm 1909, vì lợi ích giữa Nhật và Pháp, Nhật đã trục xuất cụ Phan Bội Châu và học sinh Việt Nam về nước. Tháng 5-1912, với việc đổi tên từ Duy Tân Hội sang Việt Nam Quang Phục Hội, Phan Bội Châu đã bỏ lập trường quân chủ lập hiến chuyển sang lập trường cứu nước theo hệ tư tưởng dân chủ tư sản. Với chủ trương “Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập Cộng hoà dân quốc Việt Nam”.
- Năm 1913, sau cách mạng Tân Hợi 1911 (Trung Quốc) thất bại, Phan Bội Châu bị nhà cầm quyền Trung Quốc bắt giam.
- Năm 1924, Phan Bội Châu quyết định cải tổ Việt Nam Quang phục hội thành Việt Nam Quốc dân đảng, vạch theo cương lĩnh, đường lối chính trị Trung Hoa Dân quốc do Tôn Dật Tiên lãnh đạo.
- Hạn chế của Phan Bội Châu là vẫn chưa thấy được vai trò của lực lượng nông dân. Đặc biệt hạn chế lớn nhất là chủ trương dựa vào Nhật để đuổi pháp. Điều đó chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, trước beo cửa sau”.
- Phan Chu Trinh là nhà yêu nước dân chủ nhiệt thành, ông kịch liệt tố cáo bọn quan lại phong kiến sâu mọt và tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Oâng chủ trương: “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.
- Dù theo phương pháp bất bạo động, thực dân pháp vẫn không chấp nhận phương pháp ôn hòa của ông, chúng cầm tù ông.
- Hạn chế lớn nhất của Phan Chu Trinh là đường lối cải lương phản đối bạo động và muốn dựa vào Pháp để chống phong kiến. Con đường đó của Phan Chu Trinh bị thất bại vì đấu tranh theo kiểu chẳng khác gì “xin giặt rủ lòng thương”.
- Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh có điểm giống nhau là chưa tiếp cận được xu thế của thời đại mới, do đó không tìm ra con đường cứu nước mới, con đường giành độc lập triệt để do nhân dân lao động làm chủ đất nước, lấy sức ta mà tự giải phóng cho ta.
- Thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã nói lên một sự thật: con đường dân chủ tư sản cũng không cứu được nước. Ở nước thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam, trong thời đại mới, giai cấp tư sản, giai cấp tiên tiến đang lên trước kia, ngày nay đã mất vai trò lịch sử. Giai cấp tư sản dân tộc có vai trò nhất định trong sự nghiệp cứu nước, nhưng họ chỉ có thể phát huy vai trò với sự giúp đỡ của Đảng, của giai cấp công nhân và nông dân.


BÀI III: PHONG TRÀO CÔNG NHÂN

- Năm 1928, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên đề ra chủ trương, “Vô sản hóa”, đưa hội viên của mình vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền và các xí nghiệp tư bản cùng lao động, ăn, ở với công nhân, giác ngộ cách mạng cho công nhân.
- Phong trào “vô sản hóa” của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đã có tác dụng to lớn, không những nó góp phần thúc đẩy phong trào công nhân nước ta tiến màu từ tự phát lên tự giác, từ giác ngộ dân tộc lên giác ngộ giai cấp: mà nó còn là biện pháp quan trọng để rèn luyện những người trí thức cộng sản, làm cho họ thực sự là người của giai cấp công nhân.
- Từ đó, phong trào công nhân có bước phát triển nhảy vọt và trở thành nòng cốt của phong trào cách mạng trong nước.
- Đấu tranh của công nhân nổ ra ở ngay các trung tâm kinh tế, chính trị. Đấu tranh của công nhân không chỉ giới hạn trong phạm vi một xí nghiệp, một địa phương, một ngành, mà đã liên kết thành một phong trào chung của giai cấp công nhân trong nhiều xí nghiệp, nhiều địa phương, nhiều ngành trong cả nước.
- Trước làn sóng đấu tranh quyết liệt và có tổ chức của công nhân, bọn thống trị buộc phải có những nhượng bộ, công nhận một số quyền lợi của công nhân.
- Năm 1927, có gần chục cuộc bãi công với hàng trăm người tham gia. Năm 1982 – 1929, có mấy chục cuộc với hàng ngàn người tham gia. Tiêu biểu nhất là các cuộc đấu tranh của công nhân xi măng Hải Phòng, sợi Nam Định, xe lửa Trường Thi (Vinh), Phú Riềng (Bình Phước).
BÀI IV:

NGUYỄN ÁI QUỐC TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC VÀ SỰ TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC LÊ-NIN VÀO VIỆT NAM

1. Nguyễn Ai Quốc tìm đường cứu nước
- Nguyễn Ái Quốc (1890-1969), thời niên thiếu có tên Nguyễn Sinh Cung, rồi Nguyễn Tất Thành, sinh ra trong một gia đình nhà nho ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Sinh ra và lớn lên giữa lúc nước mất nhà tan, được chứng kiến biết bao tội ác của giặc ngoại xâm đối với nhân dân, được tận mắt nhìn thấy các phong trào yêu nước của đồng bào bị dìm trong bể máu nên ngay từ rất sớm Người đã có chí đánh đuổi thực dân, giải phóng đồng bào.
- Nguyễn Tất Thành đã soi tìm trong lịch sử, đặc biệt trong phong trào chống Pháp đương thời những cứ liệu cho dự cảm mới mẻ về tư duy và hành động của mình. Người rất kính trọng các bậc anh hùng tiền bối, nhưng không tán thành con đường cứu nước của những người đi trứơc.
- Ngày 05-06 -1911, Nguyễn Tất Thành lên con tàu Amiral Latut Trêvin từ bến cảng Nhà Rồng lên đuờng sang Pháp để bắt đầu cuộc hành trình của anh thanh niên tìm đường cứu nước mới cho cả dân tộc.
- Trong 10 năm trời ròng rã, từ năm 1911 đến năm 1920, trên lộ trình đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Aùi Quốc đã trải qua những bước ngoặt lớn.
- Qua quá trình này, Người nhận biết diện mạo của kẻ thù sâu sắc hơn, khái quát hơn không chỉ đối với thực dân Pháp mà còn đối với cả chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc nói chung. Trên cơ sở đó, Người rút ra một kết luận có tính chất nền tảng đầu tiên: “Chủ nghĩa đế quốc là ngọn nguồn của mọi sự đau khổ” và “ Dù màu da có khác nhau, trên đời này cũng chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”.
- Năm 1917, cách mạng Tháng mười Nga nổ ra và giành thắng lợi. Cách mạng tháng Mười đã tác động sâu sắc tư tưởng và tình cảm của Người. Người đã nói: “Cho đến bây giờ chỉ có CMTM Nga là cách mạng nhất, triệt để nhất”. Từ đó, Người hướng về CMTM.
- Cũng qua thực tiễn kinh nghiệm ấy, Người lại rút ra một kết luận quan trọng khác: “Muốn được độc lập và tự do thật sự, các dân tộc bị áp bức phải trông cậy trước hết vào lực lượng của bản thân mình. Người Việt Nam phải tự giải phóng lấy mình”. Những kết luận này có ý nghĩa lí luận và thực tiễn cực kỳ quan trọng. Qua đó mà con đường cứu nước mà Nguyễn Aùi Quốc đi tìm bấy lâu nay dần dần được lộ ra.
- Tháng 7-1920, Nguyễn Aùi Quốc đọc được toàn văn: “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Dưới lăng kính của chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực dân: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”.
- Tháng 12-1920 tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Aùi Quốc đã có hai sự tham gia quyết định quan trọng: Bỏ phiếu tán thành ra nhập Quốc tế 3 (Quốc tế cộng sản) và là một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp.
- Thông qua hai quyết định quan trọng ở trên chứng tỏ ở Nguyễn Aùi Quốc đã có sự thay đổi quan trọng về lập trừơng tư tưởng, chính trị.
Một là: Nó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Aùi Quốc: Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác-Lênin-chủ nghĩa cộng sản.
Hai là: Từ một chiến sĩ yêu nước đấu tranh cho độc lập tự do, Nguyễn Aùi Quốc đã trở thành một chiến sĩ cộng sản và một chiến sĩ quốc tế vô sản.
Và cũng trong khoảng thời gian này Nguyễn Aùi Quốc đã có sự lựa chọn dứt khoát con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc Việt Nam: "Con đường cách mạng vô sản"!
- Sự kiện trên cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam.
- Thực hiện bước ngoặt đó, Nguyễn Aùi Quốc đã hoàn tất chặng đường đầu của hành trình cứu nước, đã tìm ra chân lí của thời đại và bắt đầu cuộc đấu tranh đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quĩ đạo cách mạng thế giới bằng việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, chuẩn bị dần dần, từng bước về tư tưởng-chính trị và tổ chức cho sự ra đời của một Đảng Mác xít ở Việt Nam-nhân tố cơ bản đầu tiên đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.

2. Quá trình truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
- Hoạt động ở Pháp những năm 1921-1923, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần quan trọng vào việc tập hợp những người yêu nước Việt Nam và các thuộc địa, khơi dậy trong họ lòng yêu nước, chí căm thù, giúp cho họ phân biệt bạn và thù.
- Một mặt là sách báo, tài liệu của Nguyễn Ái quốc bí mật chuyển về trong nước, một mặt là ảnh hưởng của phong trào công nhân quốc tế đến với công nhân, thủy thủ, lính thợ và lính chiến Việt Nam.
- Hoạt động ở Liên Xô những năm 1923-1924, Nguyễn Ái Quốc đã có đóng góp quan trọng nhất vào việc định hình đường lối cách mạng ở Việt Nam. Sự ngưỡng mộ Lê-nin và đất nước cách mạng Tháng Mười đã thôi thúc Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu nhiều vấn đề căn bản của chủ nghĩa Lê-nin về vấn đề giải phóng dân tộc.
- Với cương vị Ủy viên Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu có kế hoạch “trở về giúp đồng bào chúng ta” như dự định từ năm 1911 lúc ra đi. Nguyễn Ái Quốc còn tiếp tục tìm hiểu kinh nghiệm của Liên Xô về xây dựng Đảng Cộng sản và chính quyền Xô Viết, sau đó Nguyễn Ái Quốc rời Matxcva đi về phương Đông, hướng những hoạt động của mình về gần Tổ quốc.
- Tháng 12/1924 Nguyễn Aùi Quốc đã đến Quảng Châu (Trung Quốc). Cuối năm 1924 trong cuộc gặp gỡ những người yêu nước Việt Nam ở đây, Nguyễn Aùi Quốc chọn một số thanh niên nhiệt tình nhất trong tổ chức Tâm Tâm Xã (Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu…) để huấn luyện làm nòng cốt.
- Đến tháng 6/1925 Nguyễn Aùi Quốc lập ra một tổ chức mới là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, gọi tắt là đảng Thanh niên.
- Hoạt động chủ yếu của đảng Thanh niên là mở lớp đào tạo cán bộ, tuyên truyền cách mạng và phát triển tổ chức về trong nước.
- Từ năm 1925 đến năm 1927 đảng Thanh niên đã đào tạo được khoảng 200 cán bộ đưa về nước hoạt động, có một bộ phận gửi đi học ở Liên Xô, Trung Quốc. Đó là những hạt giống đỏ đầu tiên của cách mạng Việt Nam.
- Việc tuyên truyền cách mạng là nhiệm vụ trung tâm của đảng Thanh niên. Cơ quan tuyên truyền là tờ báo Thanh Niên. Báo Thanh Niên đã góp phần to lớn vào việc truyền bá một hệ tư tưởng mới.
- Năm 1927, tác phẩm “Đường Cách Mệnh” của Nguyễn Aùi Quốc được xuất bản, tác phẩm này đã trang bị cho những người yêu nước kiến thức cơ bản về cách mạng vô sản ở Việt Nam, về phương pháp tuyên truyền cách mạng.


BÀI V: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản
- Tháng 3/1929 chi bộ đảng cộng sản đầu tiên đã ra đời ở số 5D Hàm Long, Hà Nội.
- Tháng 6/1929 Đông Dương Cộng sản đảng được thành lập ở Bắc kỳ.
- Tháng 7/1929 An Nam Cộng sản đảng ra đời ở Nam kỳ.
- Tháng 9/1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn hình thành ở Trung kỳ.
- Ba tổ chức cộng sản xuất hiện trong vòng nửa năm ở ba kỳ, có nhiều cố gắng hoạt động và gây ảnh hương trong phong trào công - nông trên toàn quốc. Trong quá trình đó mỗi đảng đều tự nhận mình là chính đảng của giai cấp công nhân, phê phán các đảng phái khác, ra sức tranh giành quần chúng…
- Hoạt động công kích lẫn nhau giữa các tổ chức cộng sản đã làm ảnh hưởng đến tính thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức của phong trào.
- Trước tình hình ấy, ngày 27/10/1929 Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản Đông Dương, yêu cầu phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại thành một Đảng Cộng sản duy nhất. Thực hiện chủ trương ấy, Quốc tế Cộng sản ủy nhiệm Nguyễn Aùi Quốc đứng ra giải quyết sự bất đồng giữa các tổ chức cộng sản Đông Dương và thống nhất chúng lại.

2. Hội nghị thành lập Đảng
- Ngày 3/2/1930, Hội nghị các tổ chức Cộng sản Đông Dương đã được triệu tập ở Hương Cảng.
- Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị đã phân tích ưu khuyết điểm của phong trào cộng sản Đông Dương, phê phán những và giải quyết những bất đồng của những người cộng sản trong cùng một quốc gia dân tộc, đề nghị thống nhất lại để thành lập một đảng cộng sản chung lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Do có nhiều yếu tố cơ bản được thống nhất, nên các tổ chức cộng sản đã nhanh chóng nhất trí với ý kiến của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, các tổ chức cộng sản thống nhất hợp nhất thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hội nghị cũng thông qua Chính cương vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc sọan thảo và ra lời kêu gọi nhân dịp Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.

3. Nội dung cương lĩnh đầu tiên của Đảng
- Cương lĩnh nêu rõ: “Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN”.
- Về động lực và lực lượng cách mạng, cương lĩnh chỉ rõ giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là lực lượng chính, là quân chủ lực của cách mạng; giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo.
- Trong khi khẳng định “công nông là gốc cách mạng”, Đảng còn chủ trương “Phải hết sức liên lạc với tư sản, trí thức, trung nông… để lôi kéo họ về phía giai cấp vô sản”, và tranh thủ các tầng lớp phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc có lòng yêu nước.
- Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực của quần chúng, phải “đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và bọn phong kiến” rồi “dựng ra” chính phủ cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Cương lĩnh còn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
- Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

4. Ý nghĩa của việc thành lập Đảng
- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, là một bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng. Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối chính trị đúng đắn để phát triển đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
- Giai cấp công nhân Việt Nam sau vài thập kỷ ra đời và phát triển đã đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Phong trào dân tộc từ đây chấm dứt tình trạng khủng hoảng lãnh đạo và bước vào thời kỳ đấu tranh mới để tiến tới giành tự do và độc lập.
- Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, chính đảng của giai cấp vô sản đã nắm được khoa học cách mạng tiên tiến, có đường lối cách mạng đúng đắn. Đó là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
- Sự ra đời của Đảng đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của phong trào cách mạng nước ta lúc đó. Việc xuất hiện một đảng vô sản kiểu mới ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến đã tạo cho xã hội Việt Nam một bước nhảy vọt lớn là từ bỏ con đường cách mạng tư sản theo kiểu cũ mà tham gia ngay vào trào lưu cách mạng vô sản.

PHUONG PHAP LAM BAI MON LICH SU THI DAI HOC



LÀM BÀI THI SỬ NHƯ THẾ NÀO?

Đề thi môn Lịch sử khối C của các kỳ tuyển sinh đại học trong những năm qua thường có độ “phân hóa” cao, góp phần quyết định vấn đề “đậu” “rớt” của thí sinh. Vì vậy, điều mà nhiều thí sinh rất quan tâm là cách làm một bài thi Sử để đạt được điểm cao và đâu là những kỹ năng mà thí sinh cần nắm vững?
Yêu cầu có tính bản chất nhất của một đề thi tự luận môn Lịch sử là đòi hỏi thí sinh phải nắm vững những kiến thức cơ bản trong chương trình và khả năng vận dụng những kiến thức ấy vào việc giải quyết, phân tích, chứng minh một vấn đề lịch sử. Nói đơn giản hơn, thí sinh phải vừa thuộc bài vừa hiểu sâu bài học. Những năm gần đây đề thi Sử thường được hỏi dưới dạng nhiều câu hỏi khác nhau (3-4 câu), nội dung các câu hỏi cố gắng bao phủ hết các giai đoạn lịch sử khác nhau trong chương trình thi, nhất là phần Lịch sử Việt Nam (chiếm khoảng 70-80% yêu cầu đề thi). Đề thi vừa có những câu “nặng về thuộc bài”, có những câu “nặng về hiểu bài”, tức là đòi hỏi thí sinh phải biết phân tích, tổng hợp; có những câu hỏi chỉ đề cập đến một phần, một vấn đề nhỏ trong một bài học cụ thể, lại có những câu liên quan đến nhiều bài học khác nhau, liên quan đến cả một giai đoạn lịch sử dài, thậm chí nhiều giai đoạn lịch sử. Điều rất quan trọng cần rút ra ở đây là nếu thí sinh “học tủ” thì chắc chắn không bao giờ có thể làm bài tốt được, cùng lắm cũng chỉ đáp ứng được một câu hỏi mà thôi.
Điều cực kỳ quan trọng đầu tiên khi làm bài là thí sinh phải đọc kỹ đề thi để hiểu đề thi một cách chính xác nhất. Hiểu đề thi là thế nào? Hiểu đề thi là biết rõ hai điều: một là, đề thi ấy (câu hỏi thi) đề cập đến vấn đề gì và vấn đề đó liên quan đến bài học nào, phần nào của bài học (xác định đúng “địa chỉ” cần đến); hai là, để trả lời đề thi (câu hỏi thi) ấy cần những ý lớn(luận điểm) nào và thứ tự của chúng ra sao. Chỉ khi nào thí sinh thực sự giải đáp đúng được hai câu hỏi đó thì mới hiểu đề thi một cách chính xác. Nếu không biết điều thứ nhất sẽ dẫn đến chỗ lạc đề và điều này là rất xấu khi làm một đề tự luận; lạc đề câu nào thì cầm chắc điểm không cho câu đó! Đối với những câu hỏi kho ù(khó vì không xác định được điều thứ nhất), kinh nghiệm chấm thi đại học những năm qua cho thấy số thí sinh bị điểm không câu đó thường không ít hơn 50%. Để có thể nhận biết được điều thứ nhất, khi học tập học sinh phải đào sâu suy nghĩ, trao đổi với thầy với bạn,…nhằm mục đích hiểu rõ những những điểm then chốt như: hiểu sâu tất cả những khái niệm, phạm trù được sử dụng trong sách giáo khoa; biết một vấn đề lịch sử có thể được hỏi bằng nhiều cách khác nhau (ví dụ, thay vì hỏi “ý nghĩa của cao trào cách mạng 1930-1931”, đề thi có thể hỏi “tại sao nói cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám – 1945 ?”,…);... Nếu không rõ điều thứ hai một cách đầy đủ thì kết qủa sẽ không cao vì làm không đủ những ý lớn (“xương sườn”). Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho thí sinh bị điểm thấp. Ví dụ, câu hỏi yêu cầu 4 ý lớn (tổng số điểm là 2 điểm) và đáp án xác định mỗi ý lớn hoàn chỉnh tối đa chỉ được 0,5 điểm. Nếu thí sinh chỉ làm được 2 ý lớn, mặc dù làm thật tốt, thật đầy đủ chi tiết 2 ý đó, thì số điểm cũng không thể nào vượt qúa 1 điểm mà đáp án đã xác định. Cán bộ chấm thi phải tuân thủ đáp án của Bộ GD&ĐT một cách nghiêm ngặt. Để nhận biết được điều thứ hai này khi học tập học sinh phải : hiểu sâu những quy luật, tư tưởng lớn nào chi phối cả một giai đoạn lịch sử lớn (tôi gọi vui là “chìa khóa” vì nếu hiểu được nó ta sẽ có chỗ dựa để xác định đề cương làm bài); khi học từng bài học phải hiểu đâu là những ý lớn (“xương sườn”) đâu là những chi tiết, minh họa (“thịt da”), phải biết tóm tắt bài học, làm và thuộc kỹ đề cương “xương sườn”,…
Sau khi đã hiểu đề như đã nói trên, thí sinh cần dành khoảng 20-25 phút để làm đề cương làm bài ra giấy nháp. Đề cương này không cần qúa chi tiết để tránh mất nhiều thời gian, nhưng phải rõ khung ý lớn (“xương sườn”) cùng những gợi ý ngắn về những chi tiết minh họa (“thịt da”), đồng thời đảm bảo sự cân đối thích hợp về nội dung cho từng câu trả lời cũng như cho thấy trước sự phân bố thời gian làm bài hợp lý nhất. Đề cương làm bài giúp thí sinh kiểm tra sự hiểu bài và thuộc bài của mình, tránh được điều xấu nhất là lạc đề, đảm bảo bài làm cân đối, đầy đủ, tránh tình trạng “đầu voi đuôi chuột” thường thấy (lúc đầu làm qúa nhiều chi tiết không cần thiết, càng về sau càng làm ngắn lại vì không còn đủ thời gian làm bài). Thế mà, hiện nay có đến 60-70% thí sinh không làm đề cương ra giấy nháp trước khi làm bài hay làm đề cương qúa sơ sài!
Dựa vào đề cương và sự phân bố thời gian ước lượng trước, thí sinh làm bài cẩn thận, kiểm tra từng bước bài làm, không nên vội vã để sót nhiều ý, nhiều sự kiện, số liệu minh họa cần thiết. Đối với đề thi gồm nhiều câu hỏi như hiện nay, thí sinh không cần làm nhập đề và kết luận, mà trả lời thẳng vào từng câu hỏi. Văn phong bài làm cần rõ ràng,mạch lạc, chính xác, lô-gích chặt chẽ như văn phong trong sách giáo khoa Lịch sử; cần tránh lối hành văn nhiều hình tượng như trong môn Văn học dễ dẫn đến chỗ diễn đạt sai nội dung lịch sử, thậm chí có lúc làm người chấm thi hiểu lầm thí sinh không thuộc bài nên “làm văn” thế cho sử. Khi làm bài cần chú ý tránh những điều mà quy chế cấm, tránh tạo ra những dấu vết lạ, bất thừơng trong bài thi khiến người chấm hiểu lầm là “làm dấu bài”. Làm xong bài nên kiểm tra toàn bài lại lần cuối. Nếu phát hiện được còn điều gì thiếu sót, sai lầm, thì thí sinh nên chỉnh sửa, viết phần bổ sung (ví dụ, “Bổ sung cho câu 3:…”). Đôi khi những phần bổ sung như vậy cũng đem lại những điểm số rất có ý nghĩa cho thí sinh. Phải tận dụng tất cả thời gian dành cho môn thi, không nên rời phòng thi sớm.
Chúc các bạn thí sinh đang ôn thi môn Sử cho kỳ tuyển sinh đại học năm nay sức khoẻ, học đúng phương pháp hơn để làm bài đạt kết qủa tốt nhất./.

Bài viết trả lời truyền hình HTV của PGS.TS. VÕ VĂN SEN
Hiệu trưởng Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM

About Me

Hochiminh-City, Mien Nam, Vietnam
Tiến sĩ Sử học, giảng viên Truong Dai hoc Khoa hoc xa hoi va nhan van - Đại học Quốc gia TP.HCM